LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng phát luật, theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những đặc trưng khác nhau xuất phát từ quan hệ sở hữu và mục đích kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu coi nền kinh tế là một cơ thể sống thì mỗi doanh nghiệp chính là một tế bào sống của cơ thể đó. Các tế bào này là nơi sản xuất và cung ứng hầu hết các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của nền kinh tế xã hội. Do đó, sự phát triển, hưng thịnh, suy thoái hay tụt hậu của nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhưng đây chỉ là một chiều trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nền kinh tế. Ở một chiều khác, trình độ phát triển của nền kinh tế với những đặc điểm riêng về môi trường kinh doanh cũng có tác dụng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng để đứng vứng trong cơ chế cạnh tranh gay gắt này thì điều kiện đòi hỏi đầu tiên đối với các doanh nghiệp đó là phải có vốn kinh doanh. Bởi vậy, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải quan tâm đến vấn đề tạo lập vốn, quản lý và sử dụng đồng vốn sao cho có hiệu quả nhất, nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp. Do vậy, việc tổ chức và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng, là điều kiện tiêu quyết để các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình, tìm chỗ đứng vững chắc trong cơ chế mới.
Trong cơ chế bao cấp trước đây, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước hầu hết được nhà nước tài trợ thông qua cấp phát vốn, đồng thời nhà nước quản lý về giá cả và quản lý sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch, lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù, do vậy các doanh nghiệp hầu như không quan tâm đến hiệu qủa sử dụng đồng vốn. Nhiều doanh nghiệp đã không phát triển và bảo toàn được vốn, hiệu qủa sử dụng vốn thấp, tình trạng lãi giả lỗ thật ăn vào vốn xảy ra phổ biến trong các doanh nghiệp nhà nước. Bước sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của nhà nước, nhiều thành phần kinh tế song song cùng tồn tạ, cạnh tranh lẫn nhau gay gắt. Bên cạnh những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đứng vững trong cơ chế mới thì lại có một số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu qủa dẫn đến phá sản hàng loạt. Bởi trong cơ chế thị trường không chỉ riêng doanh nghiệp nhà nước mà còn nhiều doanh nghiệp khác cũng hoạt động sản xuất kinh doanh đêù phải tuân thủ theo các qui luật kinh tế vốn có: giá trị, cung cầu, cạnh tranh . và khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải trả lời 3 câu hỏi lớn: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? đồng thời dể trả lới với điều kiện ràng buộc đầu tiên bao giờ cũng phải là vốn kinh doanh. Qua đó, ta thấy được việc bảo toàn vốn kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn đối với các doanh nghiệp nhà nước nói riêng và toàn bộ các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung.
Sau thời gian học tập tại trường, qua gần 3 tháng thực tập ở công ty Dệt Minh Khai, được sự hướng dẫn của thầy giáo bộ môn và sự giúp đỡ của ban lãnh đạo ở công ty. Em đã vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn của công ty, đông thời từ thực tiến đã làm sáng tỏ những lý luận đã học. Vì vậy, em đã đi sâu nghiên cứu chuyên đề: “Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh”, từ đó thấy rõ được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tổ chức và quản lý tài chính trong công ty.
Do trình độ lý luận và nhận thức còn nhiều hạn chế, thời gian thực tập của em không trách khỏi những hạn chế. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô và ban lãnh đạo công ty để em có thể hoàn thành chuyên đề tốt hơn.
Luận văn dài 72 trang, chia làm 3 chương
72 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1714 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương tiện vận tải ,xếp dỡ năm 1999 là 1,8%, năm 2000 là1,43% . Nhóm thiết bị ,dụng cụ quản lý chiếm tỷ trọng không đáng kể. Kết cấu TSCĐ như vậy là tương đối hợp lý vì máy móc thiết bị là thành phần quan trọng nhất trong quá trình hoạt động SXKD của công ty.
BIỂU 04: CƠ CẤU TSCĐ CỦA CÔNG TY (THEO NGUYÊN GIÁ)
NHÓM CHỈ
TIÊU TSCĐ
31/12/1999
31/12/2000
CHÊNH LỆCH
NGUYÊN GIÁ
%
NGUYÊN GIÁ
%
NGUYÊN GIÁ
%
I. TSCĐ dùng cho hoạt động SXKD
40.338.184.153
100%
50.810.473.811
100%
+10.472.289.658
0,26%
1. Nhà cửa, vật kiến trúc
7.432.635.014
18,4%
8.561.929.877
16,9%
+1.129.294.863
- 1,5%
2. máy móc, thiết bị
31.934.189.106
79,2%
41.257.824.401
81,2%
+9.323.635.295
- 1,5%
3. phương tiện vận tải
730.239.330
1,8%
730.239.330
1,43%
0
- 0,37%
4. thiết bị, dụng cụ quản lý
241.120.703
0,6%
260.480.203
0,5%
+19.359.500
- 0,1%
II. TSCĐ phúc lợi
-
-
-
III. TSCĐ chưa cần dùng
-
-
-
Tỏng TSCĐ
40.338.184.153
50.810.473.811
+10.472.289.658
0,26%
Với điều kiện trang bị như trên bảng 04 , công ty có khả năng thực hiện những hợp đồng sản xuất sản phẩm hàng dệt may với số lượng lớn, có chất lượng cao về mẫu mã, qui cách… có giá thành hợp lý. Và đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ các đơn đặt hàng trong nước cũng như ngoài nước.
*Về tình hình tăng, giảm TSCĐ:
Xem xét sự tăng, giảm TSCĐ ta thấy: cuối năm 2000, nguyên giá TSCĐ của công ty tăng 10.472.289.658đ, tỷ lệ tăng 0,26% so với cuối năm 1999. Trong đó: máy móc, thiết bị có mức tăng: 9.323.635.295đ, chiếm 89% số tăng của tổng nguyên giá TSCĐ. Đó là do trong năm 2000, công ty mua thêm:
- 1 bơm ly tâm : 6000000đ
- 1 máy nhuộm :1958.916.719đ
- 1 máy vắt sổ: 26.125.396đ
- 1máy nén khí: 5000000đ
- 1 máy hút bụi : 9.341.800đ
- Palăng+máy dệt +đầu jắc ka: 37.142.860đ
- Hệ thống điều hoà: 518.788.062đ
Sự đầu tư mua thêm máy móc thiết bị như trên là nhằm phục vụ kế hoạch sản lượng ngày một lớn của công ty. Nó chứng tỏ công ty rất chú trọng đổi mới máy móc, thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất.
Công ty dệt Minh Khai với kế hoạch mở rộng sản xuất nên trong năm công ty đã hoàn thành xây dựng xong một nhà xưởng dệt nhằm hỗ trợ cho quá trình sản xuất được tiến hành thường xuyên, liên tục, kịp thời trong điều kiện sản xuất của người công nhân được đảm bảo.
Cho nên đã làm cho nguyên giá của nhóm này tăng 1.129.294.863đ, nhưng tỷ trọng lại giảm do tốc độ tăng của nhóm này nhỏ hơn tốc độ tăng của nhóm máy móc, thiết bị. Tuy nhiên trong năm công ty đã phá huỷ một phần trong hệ thống kho tàng do quá mục nát không đảm bảo cất trữ các nguyên vật liệu, sản phẩm … tồn kho.
Trong năm công ty đã mua sắm mới một số thiết bị, dụng cụ quản lý nâng tổng nguyên giá tăng thêm 19.359.500đ, nhưng tỷ trọng của bộ phận này lại giảm do số tăng nhỏ hơn rất nhiều so với số tăng của bộ phận máy móc, thiết bị sản xuất chính.
*Về tình trạng kỹ thuật của TSCĐ:
Hệ số hao mòn của TSCĐ = Số KH luỹ kế ở thời điểm đánh giá
NGTSCĐ ở thời điểm đánh giá
Căn cứ vào tình hình tăng, giảm TSCĐ dựa trên thuyết minh báo cáo tài chính của công ty tại thời điểm 31/12/2000 ta có biểu sau :
BIỂU 05: HỆ SỐ HAO MÒN NHÓM TSCĐ
NHÓM CHỈ TIÊU
TSCĐ
ĐẦU NĂM
CUỐI NĂM
HỆ SỐ HAO MÒN
1999
2000
- Nhà cửa, vật kiến trúc
+ Nguyên giá
+ Số hao mòn luỹ kế
1.134.528.914
7.432.635.014
(6.298.106.100)
2.087.690.849
8.561.929.877
(6.474.239.028)
0,85
0,76
- Máy móc, thiết bị
+ Nguyên giá
+ Số hao mòn luỹ kế
14.772.047.213
31.934.189.106
(17.162.141.893)
21.913.061.086
41.257.824.401
(19.344.763.315)
0,54
0,47
- Phương tiện, vận tải
+ Nguyên giá
+ Số hao mòn luỹ kế
497.417.652
730.239.330
(232.821.678)
423.392.040
730..239.330
(306.847.290)
0,32
0,42
- Thiết bị, quản lý
+ Nguyên giá
+ Số hao mòn luỹ kế
128.772.556
241.120.703
(112.348.147)
111.956.917
260.480.203
(148.523.286)
0,47
0,57
Một điểm dễ nhận thấy qua biểu 05 là tình trạng kỹ thuật của TSCĐ ở công ty nhìn chung đã kém. Hệ số hao mòn của toàn bộ TSCĐ đã ở trên mức trung bình: đầu năm 0,59-cuối năm 0,52, nghĩa là năng lực TSCĐ còn có thể khai thác được ở mức trung bình (dưới 41,2% ở cuối năm 1999 và 48% ở cuối năm 2000- (so với thời điểm đầu tư ban ). Tuy nhiên, đây mới chỉ là nhận xét ban đầu. Để có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn, ta không thể không xem xét tình trạng kỹ thuật của từng nhóm TSCĐ.
Đối với nhà cửa, vật kiến trúc: bộ phận này có mức hao mòn đầu năm 0,85% cuối năm 0,76%- năng lực còn lại rất ngắn. Giá trị của nhóm TSCĐ này tính đến 31/12/2000 là: 2.087.690.849đ tương đương 28% giá trị đầu tư ban đầu và chiếm tỷ trọng 8,5% trong tổng gía trị còn lại của toàn bộ TSCĐ. Trên thực tế hệ thống nhà xưởng, kho tàng của công ty đã cũ và bị phá huỷ một phần hệ thống trong năm 2000.
Trong khi đó công ty vừa hoàn thành xây dựng xong và đưa vào xây dựng một nhà xưởng dệt cho nên đã làm giảm hệ số hao mòn của nhóm này.
- Đối với máy móc, thiết bị: Đây là bộ phận TSCĐ có mức hao mòn trên dưới 50%: đầu năm 0,54 cuối năm 0,47- nghĩa là năng lực sản xuất của máy móc, thiết bị còn khai thác được rất lâu ( trên 50% so với thời điểm đầu tư ban đầu ). Tuy nhiên, khi xem xét kĩ nhóm này ta thấy: mặc dù cuối năm hệ số hao mòn có giảm so với đầu năm do công ty đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, nhưng vì máy móc, thiết bị đóng vai trò chủ lực trong SXKD của công ty nên việc đổi mới trang bị cho bộ phận này cần phải được tiến hành thường xuyên trong các năm tới .
- Đối với phương tiện vận tải: Hệ số hao mòn của bộ phận này tăng từ 0,32 lên 0,42. Đó là do trong năm 2000, công ty không đầu tư mua sắm bộ phận này, nhưng vì mức tăng của nguyên giá không đổi mà mức khấu hao lại tăng lên làm cho hệ số hao mòn của bộ phận này tăng lên .
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: có hệ số hao mòn đầu năm 0,47 cuối năm 0,57. Nguyên nhân hệ số hao mòn tăng là do mức tăng của nguyên giá nhỏ hơn mức tăng của số khấu hao luỹ kế . Mặc dù trong năm công ty có đầu tư mua sắm , nhưng vì sử dụng nhiều cho hoạt động quản lý kinh doanh nên mức hao mòn tăng lên đã ảnh hưởng đến hệ số hao mòn của bộ phận này .
Tóm lại: qua xem xét tình trạng kỹ thuật của từng nhóm TSCĐ , ta có thể nhận định rằng: không phải mọi TSCĐ của công ty đều ở tình trạng kỹ thuật trung bình như đánh giá ban đầu mà chỉ có bộ phận máy móc , thiết bị là có mức hao mòn gần như thấp nhất trong toàn bộ nhóm TSCĐ (dưới 50%), nhưng vì bộ phận này có giá trị và tỷ trọng lớn nhất trong hệ thống TSCĐ nên kéo toàn bộ hệ số hao mòn của nhóm TSCĐ xuống gần mức trung bình tuyệt đối. Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát ta vẫn có thể đánh giá tình trạng kỹ thuật của TSCĐ trong công ty là đã xấu, vì mức hao mòn của toàn bộ TSCĐ đã trên 50% và bộ phận chính tham gia trực tiếp vào sản xuất là máy móc ,thiết bị còn có khả năng để công ty khai thác triệt để năng lực sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
B- Đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ:
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ của công ty, ta dựa vào biểu số liệu sau:
BIỂU 06: BẢNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VCĐ NĂM 1999-2000
CHỈ TIÊU
NĂM 1999
NĂM 2000
SO SÁNH
SỐ TUYỆT
ĐỐI
SỐ TƯƠNG ĐỐI
1. Doanh thu thuần
63.803.874.576
65.906.310.822
+ 2.102.436.246
+3,3%
2. Lợi nhuận thuần
1.438.349.609
1.478.634.731
+ 40.285.122
+ 2,8%
3. VCĐ bình quân
17.288.538.511,5
20.534.433.613,5
+ 3.245.895.102
+18,8%
4. Nguyên giá TSCĐ bình quân
40.009.554.716
45.574.328.982
+ 5.564.774.226
+13,9%
5. Hiệu suất sử dụng VCĐ (1:3)
3,69
3,209
- 0,481
- 13%
6. Hiệu suất sử dụng TSCĐ (1:4)
1,6
1,45
- 0,15
- 9,4%
7. Hàm lượng VCĐ (3:1)
0,27
0,31
+ 0,04
+14,8%
8. Tỷ suất lợi nhuận VCĐ (2:3)
0,083%
0,072%
- 0,011%
-13,3%
Nhìn một cách tổng thể : tất cả các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VCĐ của công ty đều giảm so với năm 1999. Nhưng để có thể đưa ra một kết luận xác đáng, cần phải xem xét nguyên nhân dẫn đến sự sút giảm các chỉ tiêu trên cụ thể:
- Đối với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ :
Hiệu suất sử dụng VCĐ năm 2000 của công ty là 3,209 có nghĩa là một đồng vốn cố định bình quân sử dụng trong năm đã đem lại 3,209đ doanh thu thuần, giảm 0,481đ so với năm 1999. Nguyên nhân là do tốc độ tăng doanh thu thuần trong năm 2000(3,3%) nhỏ hơn nhiều so với tốc độ tăng bình quân (18,8%).
Dựa vào công thức xác định chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ , ta thấy: 2 nhân tố doanh thu thuần (DTT) và VCĐ bình quân (VCĐ) có quan hệ thương số với chỉ tiêu. Áp dụng phương pháp thay thế số liên hoàn trong phân tích hoạt động kinh tế, ta xác định được mức độ hưởng của từng nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ (Hssd VCĐ), cụ thể như sau:
DTT 2000 DTT 1999
Hssd VCĐ= - = 3,209 - 3,69 =- 0,481
VCĐ 2000 VCĐ 1999
+ Mức độ ảnh hưởng của DTT đến hiệu suất sử dụng VCĐ:
DTT 2000 DTT 1999 65.906.310.822
Hssd VCĐ(DTT)= - = -3,69
VCĐ 1999 VCĐ 1999 17.288.538.511,5
= 3,81-3,69 = +0,12
+Mức độ ảnh hưởng của VCĐ bình quân đến hiệu suất sử dụng VCĐ:
DTT 2000 DTT 2000
Hssd VCĐ(VCĐ)= - = 3,209 - 3,81= - 0,601
VCĐ 2000 VCĐ 1999
+Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của 2 nhân tố :
Hssd VCĐ(DTT) + Hssd VCĐ(VCĐ) = 0,12 +(-0,601) = - 0,481
Như vậy :
+ Doanh thu thuần tăng làm hiệu suất sử dụng VCĐ tăng 0,12đ
+ VCĐ bình quân tăng làm hiệu suất sử dụng VCĐ giảm 0,601đ
Mức tăng hiệu suất sử dụng VCĐ do ảnh hưởng của DTT tăng nhỏ hơn so với mức giảm hiệu suất sử dụng VCĐ do VCĐ tăng, nên đã làm cho Hssd VCĐ giảm, tỷ lệ giảm là 13%.
Vậy: nguyên nhân chính làm hiệu suất sử dụng VCĐ giảm không phải do doanh thu giảm (thực chất DTT tăng 1 lượng: 2.102.436.246đ) mà do trong 2 năm 1999,2000 VCĐ của công ty đã gia tăng nhanh. Chỉ tính riêng năm 2000, VCĐ của công ty dệt Minh Khai đã tăng lên 1 lượng: 8.003.334.557đ, gấp 1,5 lần so với đầu năm. Sự chênh lệch giữa VCĐ đầu năm và VCĐ cuối năm dẫn đến hệ quả tất yếu là kết qủa bình quân hoá VCĐ năm 2000 chênh lệch lớn hơn so với kết quả bình quân hoá VCĐ năm 1999, từ đó đẩy tốc độ tăng VCĐ bình quân lên tới 18,8%.
Thiết nghĩ, đây chỉ là kết quả tính toán do áp dụng phương pháp tính VCĐ bình quân dựa vào 2 thời điểm , do vậy không thể chỉ dựa vào sự gia tăng về mặt lượng của VCĐ bình quân mà kết luận hiệu quả sử dụng VCĐ của công ty kém mà cần phải nhìn nhận rằng: sự đầu tư vào TSCĐ ngày hôm nay của công ty là để tăng sức cạnh tranh và đem lại thu nhập cao hơn trong tương lai.
Đối với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận VCĐ:
Năm 2000, chỉ tiêu này giảm 0,012 tức là 100 đồng VCĐ năm 2000 tạo ra ít hơn 0,01 đồng lợi nhuận thuần hoạt động SXKD so với năm1999. Nguyên nhân giảm cung là do VCĐ bình quân tăng nhanh hơn lợi nhuận thuần. Kết hợp với những phân tích ở phần trước, có thể thấy: lợi nhuận thuần của công ty không gia tăng cùng một nhịp với sự gia tăng VCĐ bình quân. Có nguyên nhân sâu xa từ việc công ty đầu tư vào TSCĐ chủ yếu bằng nguồn vay nợ dài hạn và nguồn vốn khấu hao cơ bản. Trong khi TSCĐ đầu tư chưa phát huy được hết năng lực sản xuất, chưa tạo ra gia tăng đáng kể về lợi nhuận thì hàng năm công ty phải sử dụng phần lớn lợi nhuận thu được từ kinh doanh để trang trải lãi vay.
Đối với hai chỉ tiêu: Hiệu suất sử dụng TSCĐ và hàm lượng VCĐ do chương trình giới hạn nên ta chỉ xem xét:
+ Hiệu suất sử dụng TSCĐ năm 2000 so với năm 1999 là giảm 0,15 tương ứng giảm 9,4% về số tuyệt đối.
+ Hàm lượng VCĐ: do doanh thu tăng chậm hơn VCĐ bình quân nên hàm lượng VCĐ tăng: năm 1999 để tạo ra một đồng doanh thu thuần công ty phải sử dụng 0,27đ VCĐ, đến năm 2000, con số này nhích lên 0,31đồng tăng 0,04 đồng với tỷ lệ tương ứng là:14,8%.
Qua xem xét các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VCĐ, ta thấy : hiệu quả sử dụng VCĐ của công ty năm 2000 đã có dấu hiệu giảm so với năm 1999. Nguyên nhân cơ bản là do công ty mới vay vốn để đầu tư lớn vào TSCĐ, phải trả lãi vay nhưng TSCĐ đầu tư về không được huy động hết công suất vào sử dụng, doanh thu và lợi nhuận trong năm không tăng lên tương ứng .
Tuy nhiên nếu suất phát từ đặc điểm luân chuyển của VCĐ đó là: VCĐ dịch chuyển dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra và kết thúc vòng luân chuyển khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, ta thấy: Đại bộ phận TSCĐ của công ty đã có mức hao mòn trên 50%, giá trị còn lại cũng tương đối lớn và thời gian sử dụng còn khá dài, do có những TSCĐ đã cũ và một số mới đầu tư mua sắm nên có thể chưa đẩy nhanh sự gia tăng về doanh thu, lợi nhuận - đó là điều tất yếu và là cơ sở để ta khẳng định: hiệu quả sử dụng VCĐ hầu hết đều giảm trong năm 2000 là một biểu hiện không tốt nhưng có thẻ coi đó là “bước đệm” để những năm tiếp theo công ty có thể nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Nhưng để đạt đến cái đích đó thì về mặt lâu dài, công ty phải có kế hoạch cụ thể để phát huy tối đa năng lực sản xuất hiện có nhằm tạo nên một sự gia tăng tương ứng giữa doanh thu, lợi nhuận và mức đầu tư tăng vào TSCĐ.
2.3.2:Tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty :
A- Tình hình sử dụng VLĐ:
Tính đến thời điểm 31/12/2000, tổng VLĐ của công ty là 21.879.220.934đ, chiếm tỷ trọng 47,2% trong tổng VKD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 1999.
Để thấy rõ tình hình quản lý và sử dụng VLĐ, trước hết chúng ta xem xét kết cấu VLĐ của công ty thông qua các số liệu dựa trên bảng cân đối kế toán ngày 31/12/2000, ta có biểu sau :
BIỂU 07: BẢNG PHÂN BỔ TRONG TỪNG KHÂU SẢN XUẤT
CHỈ
TIÊU
NĂM 1999
NĂM 2000
CHÊNH LỆCH
SỐ TIỀN
%
SỐ TIỀN
%
SỐ TIỀN
%
(1)
(2)
(3)
(4=3-2)
(5=4:2)
1.VLĐ TRONG KHÂU DỰ TRỮ
-NVL
-CCDC
2.VLĐ TRONG KHÂU SẢN XUẤT
-CFíSXKDDDD
-CF chờ K/C
3. VLĐ TRONG KHÂU LƯU THÔNG
Vốn bằng tiền
-Vốn T/ phẩm
-Vốn trong thanh toán
2.954.235.713
116.302.402
2.837.933.311
4.442.355.316
4.442.355.316
---
8.612.146.525
2.306.363.342
---
6.305.783.183
18,5
0,73
17,7
27,7
27,7
53,8
14,41
39,4
2.679.044.598
144.463.988
2.534.580.610
4.030.447.830
4.030.447.830
---
8.329.205.647
3.691.860.548
9.576.801
4.627.768.298
17,8
0,96
16,8
26,8
26,8
55,4
24,6
0,06
30,7
-275.191.115
+28.161.586
-303.352.701
-411.907.486
-411.907.486
---
-282.940.878
+1.385.497.206
+9.576.801
-1.678.014.885
-9,3%
+24,2
-10,7
-9,3
-9,3
-3,3
+60
---
-26,6
TỔNG VLĐ
16.008.737.554
100
100
-6,1
* VLĐ trong khâu dự trữ :
VLĐ trong khâu dự trữ của công ty dệt Minh Khai tính đến cuối năm 2000 đã giảm 1 lượng là: 275.191.115đ, tỷ lệ giảm tương ứng là 9,3% từ đó làm tỷ trọng loại vốn này giảm từ 18,5% xuống còn 17,8% . Điều đó cho thấy VLĐ trong khâu dự trữ của công ty chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số VLĐ hiện có và đang có xu hướng giảm dần. Nguyên nhân giảm là do mức giảm công cụ dụng cụ lớn hơn so với mức tăng NVL (303.352.701>28.161.586), cụ thể:
- Đối với NVL dự trữ tỷ trọng tăng từ 0,73% lên 0,96% - tăng rất nhỏ 0,23%-tỷ lệ tăng 24,2%.
- Đối với công cụ dụng cụ dự trữ tỷ trọng giảm từ 16,84- tỷ trọng giảm là 0,9% tương ứng với tỷ lệ giảm10,7%.
* VLĐ trong khâu sản xuất:
Tính đến cuối năm 2000, VLĐ trong khâu sản xuất là 4.030.447.830đ, giảm 411.907.486đ, tỷ lệ giảm 9,3% so với cùng kỳ năm 1999. Lý do VLĐ trong khâu sản xuất giảm là do chi phí sxkd dở dang giảm, còn chi phí chờ kết chuyển không có, cụ thể:
- Chi phí SXKD dở dang giảm đúng bằng số giảm và tỷ lệ giảm của VLĐ trong khâu sản xuất(411.907.486đ,9,3%).
Chi phí SXKD giảm là do trong năm công ty đã hoàn thành xong một số hợp đồn sản xuất và đơn đặt hàng nên chi phí SXKD dở dang có tỷ trọng giảm từ 27,75% xuống 26,8% - tỷ trọng giảm 0,95%, vì chỉ có chi phí SXKD dở dang nên đã kéo toàn bộ VLĐ khâu sản xuất giảm xuống tương ứng.
* VLĐ trong khâu lưu thông:
Trong cả 2 năm 1999, 2000 loại vốn này đều có giá trị và tỷ trọng rất lớn . So sánh 2 năm ta thấy: VLĐ trong khâu lưu thông đã giảm xuống 1 lượng 282.940.878đ tỷ lệ giảm tương ứng là 3,3%. Nhưng do tốc độ giảm chậm hơn so với tốc độ giảm vốn sản xuất nên làm tỷ trọng loại vốn này tăng từ 63,8% lên 55,4%- tăng 1,6%. VLĐ trong khâu lưu thông giảm chủ yếu là do khoản vốn trong thanh toán biến động giảm lớn hơn so với biến động tăng của vốn bằng tiền và vốn thành phẩm (các khoản đầu tư không có ) cụ thể :
- Vốn bằng tiền tăng: 1.385.497.206đ, tỷ lệ tăng 60%
- Vốn thành phẩm tăng : 9576.801, tỷ trọng chiếm 0,06%
- Vốn trong thanh toán giảm nhiều : 1.678.014.885đ, tỷ lệ giảm 26,6%. Vậy nguyên nhân chính làm cho khoản vốn trong thanh toán nói riêng hay vốn trong lưu thông biến động noí chung giảm là do các khoản phải thu giảm mạnh.
Đánh giá chung về tình hình quản lý và sử dụng VLĐ của công ty: công ty quản lý tương đối tốt VLĐ, cơ cấu VLĐ đã hợp lý hơn. Tỷ trọng VLĐ trong khâu lưu thông đã được giảm bớt, trong đó phải kể đến nỗ lực của công ty trong việc quyết toán các khoản phải thu. Để làm rõ hơn vấn đề này, chúng ta đi sâu tìm hiểu tình hình chiếm dụng và bị chiếm dụng của công ty qua biểu sau:
BIỂU 08: SO SÁNH VỐN CHIẾM DỤNG VÀ VỐN BỊ CHIẾM DỤNG
CHỈ TIÊU
31/12/1999
31/12/2000
SỐ CHÊNH LỆCH
TUYỆT ĐỐI
TƯƠNG ĐỐI
(1)
(2)
(3)
(4=3-2)
(5=4:2)
I-Các khoản phải thu
5.321.052.740
3.697.665.454
-1.623.387.286
-30,5%
1. Fải thu khách hàng
2.652.944.468
2.126.387.165
-526.557.303
-19,8%
2.Trả trước cho người bán
2975.192.820
375.057.695
-600.135.125
-61,5%
3.Phải thu tạm ứng
46.106.824
57.961.908
+11.855.084
+25,7%
4. Phải thu khác
1.646.808.628
1.138.258.686
-508.549.942
-30,7%
II- Các khoản phải trả
13.536.680.609
15.702.475.408
+2.165.794.799
+16%
1. Phải trả người bán
8.442.421.719
9.382.796.487
+940.374.768
+11,1%
2. Người mua trả trước
---
53.000.000
+53.000.000
---
3. Thuế phải nộp
188.525.111
50.773.706
-137.751.405
-73%
4. Phải trả CNV
4.101.427.478
5.728.899.463
+1.627.471.985
+39,7%
5. Phải trả, nộp khác
804.306.301
487.005.852
-317.300.449
-39,5%
III- Chênh lệch (I-II)
-8.215.627.869
-12.004.809.954
-3.789.182.085
-46,1%
Qua biểu 08 ta thấy: vốn bị chiếm dụng của công ty nhỏ hơn nhiều so với vốn công ty chiếm dụng được , ở thời điểm cuối năm 1999 , công nợ phải thu của công ty là: 5.321.052.740đ nhỏ hơn số vốn chiếm dụng được 8.215.627.869đ. Đến cuối năm 2000, công ty chiếm dụng được một khoản vốn khá lớn (15.702.475.408) cho nên mức tăng của khoản vốn chiếm dụng được lớn hơn mức giảm của khoản vốn bị chiếm dụng (2.165.794.799>1.623.387.286).
Nguyên nhân chủ yếu làm công nợ phải thu giảm là do hầu hết các khoản phải thu đều giảm, trong đó khoản phải trả cho người bán giảm nhiều nhất (600.135.125, chiếm 37% số giảm của toàn bộ công nợ phải thu), kế đến khoản phải thu khách hàng cũng giảm nhiều (*526.557.303đ, chiếm 32,4% số giảm của công nợ phải thu). Điều này thể hiện trong năm 2000, công ty đã làm tốt công tác thu hồi các khoản phải thu. Mặc dù các khoản phải thu năm trước chưa thu hết, nhưng trong năm nay đã thu được một khoản khá lớn . Đó là do kỳ thu tiền trung bình của công ty đã rút ngắn :
Số dư bình quân các khoản phải thu
Kỳ thu tiền trung bình =
Doanh thu thuần
4118.404.733 + 5.321.052.740
Kỳ thu tiền trung = 2 x 360= 27(ngày)
bình năm 1999 63.803.874.576
5.321.052.740 + 3.697.665.454
Kỳ thu tiền trung = 2 x 360= 25(ngày)
bình năm 2000 65.906.310.822
Kết quả trên phản ánh công tác thu hồi các khoản phải thu đã đem lại hiệu quả: số ngày cần thiết để thu hồi các khoản phải thu đã giảm xuống 2 ngày. Đó là do mức giảm số dư bình quân các khoản phải thu (210. 369.639,5) nhỏ hơn mức tăng doanh thu (2.102.436.246) và tốc độ giảm các khoản phải thu (0,96%) chậm hơn tốc độ tăng doanh thu (1,03%).
Đối chiếu với đặc điểm sản xuất (theo đơn đặt hàng , theo hợp đồng) và lĩnh vực SXKD của công ty (sản xuất khăn bông các loại và vải màn tuyn), cũng như (phương thức thanh toán nhanh), ta thấy: tình trạng công nợ phải thu tồn đọng ít và giảm mạnh ở công ty là một dấu hiệu tốt bởi đặc thù chung của mọi doanh nghiệp trong cùng ngành , nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay việc thanh quyết toán khối lượng của công ty ngày càng trở nên khó khăn , nhưng đối với công ty đây là một sự cố gắng lớn trong công tác thanh toán nợ phải thu.
Để có nhận xét xác thực hơn về ảnh hưởng của tình hình quản lý, sử dụng VLĐ đến khả năng thanh toán của công ty, ta xem xét thêm một số chi tiết phản ánh trên biểu sau:
BIỂU 09: CÁC HỆ SỐ VỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN CỦA CÔNG TY NĂM 2000
CHỈ TIÊU
ĐẦU NĂM
CUỐI NĂM
CHÊNH LỆCH
1.Hệ sô khả năng thanh toán tổng quát
0,138
0,191
+ 0,053
2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời
1,179
1,136
- 0,043
3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh
0,518
0,439
- 0,079
Các hệ số phản ánh khả năng thanh toán của công ty cuối năm 2000 so với đầu năm nhìn chung có giảm, song còn thấp. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời: đầu năm 1,179 cuối năm 1,136- điều này cho thấy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty chưa được tốt, mặc dù đã được bảo đảm. Vì để thanh toán đủ nợ ngắn hạn công ty phải giải phóng 1/1,136=73,55 TSLĐ hiện có. Đối với hệ số khả năng thanh toán nhanh: đầu năm 0,518- cuối năm giảm đi còn 0,439 - đây là một dấu hiệu không tốt phản ánh sự chậm trễ trong việc cải thiện và nâng cao khả năng thanh toán. Hệ số khả năng thanh toán nhanh cuối năm bằng 0,439 có nghĩa là trong trường hợp bán hết hàng tồn kho, công ty vẫn khó có khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, trên thực tế việc chuyển ngay các khoản phải thu thành tiền không phải dễ dàng, nhất là các khoản phải thu có giá trị lớn như của công ty. Mặc dù, trong năm 2000 công ty đã gải quyết được một khối lượng lớn các khoản phải thu nhưng xem ra các khoản phải trả của công ty lại tăng nhanh nên đây là một khó khăn đối với công ty. Nếu không có những biện pháp tích cực trong quản lý và thu hồi các khoản vốn bị chiếm dụng và thanh toán nhanh các khoản vốn chiếm dụng được thì công ty sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ, uy tín bị ảnh hưởng, nguy cơ rủi ro tài chính gia tăng. Vì vậy trong năm 2000, công ty cần phát huy tốt hơn khả năng thu hồi nợ và thanh toán nhanh các khoản nợ để hệ số khả năng thanh toán của công ty được nâng cao hơn.
Tóm lại : qua xem xét tình hình sử dụng VLĐ của công ty, ta thấy công tác quản lý và sử dụng VLĐ của công ty vẫn còn bộc lộ một số tồn tại cần sớm khắc phục, trong đó nổi lên là quản lý vốn trong thanh toán, đặc biệt là các khoản phải trả ngày càng tăng lên là một điều hoàn toàn bất lợi. Do công ty giải quyết các khoản phải thu chậm hơn so với mức tăng của các khoản phải trả, vì các khoản phải trả công ty phải huy động vốn từ bên ngoài để phục vụ sản xuất và phải trả chi phí sử dụng vốn, làm lợi nhuận giảm và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
B-Hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty:
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty dệt Minh Khai, ta tính toán một số chỉ tiêu trên biểu sau:
BIỂU 10: BẢNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VLĐ NĂM 1999-2000
CHỈ TIÊU
NĂM 1999
NĂM 2000
SO SÁNH
SỐ TUYỆT
ĐỐI
SỐ TƯƠNG ĐỐI
(1)
(2)
(3)
(4 =3 x 2)
(5=4:2)
TỔNG MỨC LUÂN CHUYỂN VLĐ.
63.803.874.576
65.906.310.822
+ 2.102.436.246
+ 3,3%
2- DOANH THU THUẦN
63.803.874.576
65.906.310.822
+2.102.436.246
+ 3,3%
3- LỢI NHUẬN THUẦN.
1.438.349.609
1.478.634.731
+ 40.285.122
+ 2,8%
4- VLĐ BÌNH QUÂN
17.141.972.219
20.788.578.611,5
+ 3.646.606.392,5
+ 21%
5- SỐ VÒNG
QUAY (1:4)
3,7
3,2
- 0,5
- 13,5%
6- KỲ LUÂN CHUYỂN (360:5)
97
112
+ 15
+ 15,5%
7- HÀM LƯỢNG
VLĐ (4:2)
0,27
0,32
+ 0,05
+ 18,5%
8- HIỆU SUẤT SỬ DỤNG VLĐ
3,7
3,2
- 0,5
- 13,5%
9- TỶ SUẤT
DOANH LỢI VLĐ.
0,084
0,071
- 0,013
-15%
- Số liệu thực tế cho thấy, hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2000 của Công ty giảm nhiều với năm 1999 cụ thể: Năm 2000 VLĐ của Công ty luân chuyển được 3,2 vòng, chậm hơn so với năm 1999 là 0,5 vòng, tỷ lệ giảm tương ứng là 13,5%. Theo đó kỳ luân chuyển vốn VLĐ tăng lên 15 ngày, tăng 15,5% nghĩa là để hoàn thành 1 vòng luân chuyển phải mất 112 ngày.
- Dựa vào công thức xác định số lần luân chuyển VLĐ ta thấy chỉ tiêu này giảm là do ảnh hưởng của 2 nhân tố: Tổng mức luân chuyển VLĐ ( Ký hiệu M ) và VLĐ bình quân ( Ký hiệu VLĐ). Áp dụng phương pháp thay thế số liên hoàn trong phân tích hoạt động kinh tế ta xác định được:
+ Mức ảnh hưởng của tổng mức luân chuyển VLĐ đến chỉ tiêu số lần luân chuyển VLĐ:
M2000 M 1999 65.906.310.822
DL ( M ) = - = - 3,7
VLĐ 1999 VLĐ 1999 17.141.972.219
= 3,8 - 3,7 = + 0,1
+ Mức ảnh hưởng của VLĐ đến chỉ tiêu số lần luân chuyển VLĐ:
M2000 M 2000
DL (VLĐ ) = - = 3,2 – 3,8 = - 0,6
VLĐ 2000 VLĐ 1999
+ Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của hai nhân tố
DL ( M ) + (VLĐ) = + 0,1 +(- 0,6) = -0,5
Kết luận: nhân tố chính làm tốc độ luân chuyển VLĐ chậm lại là do số VLĐ tham giam luân chuyển tăng lên. Để có cái nhìn sâu sắc hơn về nguyên nhân ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển VLĐ ta xem xét thêm một số hệ số về hoạt động của công ty được phản ánh trên biểu sau:
BIỂU 11:CÁC HỆ SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY NĂM 1999-2000
CHỈ TIÊU
NĂM 1999
NĂM 2000
SO SÁNH
SỐ
TUYỆT
ĐỐI
SỐ TƯƠNG ĐỐI
1- Giá vốn hàng bán (đồng)
55.860.354.267
58.333.272.061
+ 2.472.917.794
+ 4,4 %
2- Hàng tồn kho bình quân (đồng)
9.756.989.991,5
12.232.295.487
+ 2.475.305.496,5
+ 25,4%
3- Số vòng quay hàng tồn kho (1:2)
5,7
4,8
- 0,9
- 15,8%
4- Kỳ thu tiền trung bình (ngày)
27
25
- 2
- 7,4%
5- Số vòng quay các khoản phải thu (360:4)
13,3
14,4
+ 1,1
+ 8,3%
Kết quả tính toán ở bảng trên cho thấy vòng quay hàng tồn kho giảm, còn vòng quay các khoản phải thu lại tăng, trong đó:
+ Số vòng quay hàng tồn kho giảm 0,9 vòng, tỷ lệ giảm 15,8%.
+ Số vòng quay các khoản phải thu tăng 1,1 vòng, tỷ lệ tăng 8,3%.
Vì vậy ta có thể kết luận rằng: Tốc độ luân chuyển VLĐ chậm là do hàng tồn kho chậm luân chuyển và bên cạnh đó công ty đã hoàn thành khá tốt về quản lý các khoản vốn trong thanh toán. Vì cậy công ty cầu có biện pháp giải quyết nhanh chóng số hàng tồn kho và cần phát huy hơn nữa ưu điểm của công tác quản lý vốn trong thanh toán.
* Về chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ:
Năm 1999, hiệu quả sử dụng VLĐ là 3,7 tức là một đồng VLĐ tham gia vào SXKD có thể tạo ra 3,7 đồng doanh thu. năm 2000, con số này chỉ còn 3,2 giảm 0,5 đồng. Đó là do tốc độ tăng doanh thu thuần (3,3%) nhỏ hơn tốc độ tăng VLĐ bình quân (21%).
* Hàm lượng VLĐ:
Do hiệu quả sử dụng VLĐ giảm nên hàm lượng VLĐ tăng: Nếu năm 1999, để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần, công ty phải sử dụng 0,27 đồng VLĐ, thì đến năm 2000 công ty phải sử dụng 0,32 đồng VLĐ - tăng 0,05 đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là 18,5%. Sở dĩ hàm lượng VLĐ tăng lên như vậy là do tốc độ tăng qui mô VLĐ không tương xứng với tốc độ tăng của số VLĐ thực, sử dụng vào SXKD: Mức tăng VLĐ chủ yếu từ khoản vốn hàng vốn tồn kho. Giá trị của khoản vốn hàng tồn kho quá lớn mà bộ phận này lại tham gia trực tiếp vào quá trình SXKD, nhưng do mức tồn kho quá lớn làm chậm quá trình tạo ra doanh thu, từ đó làm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ giảm xuống, hàm lượng VLĐ tăng lên.
* Tỷ suất lợi nhuận VLĐ:
Trong khi tốc độ luân chuyển VLĐ chậm lại, hiệu quả sử dụng VLĐ giảm, hàm lượng VLĐ tăng lên thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận VLĐ lại biến động theo chiều hướng tiêu cực: Tỷ suất lợi nhuận VLĐ từ 0,084% (năm 1999) giảm xuống 0,071 (năm 2000), có nghĩa là 100 đồng VLĐ chỉ có thể tạo ra ít hơn 0,013 đồng lợi nhuận thuần. Điều đó chứng tỏ, mặc dù công ty có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa tiết kiệm được chi phí bỏ ra, lợi nhuận tăng chậm - thể hiện ở tốc độ tăng lợi nhuận thuần (2,8%) nhở hơn tốc độ tăng doanh thu thuần (3,3%).
Như vậy: Mặc dù có biểu hiện sút giảm ở đa số chỉ tiêu, song nếu xét đến cái đích cuối cùng là tăng lợi nhuận cho công ty thì ta có thể kết luận rằng hiêụ quả sử dụng VLĐ của công ty đã tăng lên. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận trong điều kiện của công ty. Tuy nhiên, nếu công ty quản lý, sử dụng tốt hơn nữa VLĐ đặc biệt là VLĐ trong khâu lưu thông thì mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ sẽ đạt được ở mức độ cao hơn và toàn diện hơn.
II.2.3.3. Hiệu quả sử dụng vốn SXKD ở công ty Dệt Minh Khai.
Ở hai mục trước, chúng ta đã phân tích hiệu quả sử dụng VCĐ và VLĐ của công ty nhưng đó mới chỉ là sự đánh giá riêng từng loại vốn. Để có thể đưa ra những nhận xét tương đối toàn diện về hiệu quả sử dụng VKD nói chung của công ty, cần đi vào phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn trên. Biểu 12 (trang bên)
Qua số liệu ở biểu 12 có thể thấy trong năm 2000 các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, vốn SXKD bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân đều tăng nhưng tốc độ tăng không đều nhau. Trong đó VKD bình quân có tốc độ tăng nhanh nhất (20%), tiếp đó là chỉ tiêu vốn chủ sở hữu bình quân tăng (4,9%), doanh thu thuần (5,3%), lợi nhuận thuần tăng chậm nhất (2,8%). Tình hình đó đã ảnh hưởng đến sự biến động của các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VKD của công ty, cụ thể như sau:
* Vòng quay toàn bộ vốn:
Nhìn chung vòng quay toàn bộ vốn của Công ty tương đối chậm và đang có biểu hiện sút giảm: Năm 1999 VKD của công ty luận chuyển được 1,85 vòng, đến năm 2000 vòng quay toàn bộ vốn của công ty giảm xuống còn 1,59 với tỷ lệ giảm tương ứng 14,1% - một mức giảm tuy không lớn nhưng do nguyên nhân:
- Tổng vốn SXKD bình quân của công ty tăng mạnh từ: 34.430.510.730,5 đ lên 41.323.012.225đ - tăng 6.892.501.495,5đ.
BIỂU 12: BẢNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN SXKD CỦA CÔNG TY 1999 - 2000
CHỈ TIÊU
ĐƠN
VỊ
NĂM 1999
NĂM 2000
SO SÁNH
SỐ
TUYỆT
ĐỐI
SỐ TƯƠNG ĐỐI
1. Doanh thu
thuần
đ
63.803.874.576
65.906.310.822
+2.102.436.246
+3,3%
2- Lợi nhuận
thuần
đ
1.438.349.609
1.478.634.731
+40.285.122
+2,8%
3- Vốn SX bình quân
đ
34.430.510.730,5
41.323.012.225
+6.892.501.495,5
+ 20%
4- Vốn C.S.H
bình quân
đ
15.420.954.118
16.175.544.210
+754.590.092
+4,9%
5- Vòng quay
toàn bộ vốn (1:3)
vòng
1,85
1,59
- 0,26
-14,1%
6- Tỷ suất
doanh
lợi doanh thu (2:1)
%
0,023
0,22
- 0,001
- 4,3%
7- Tỷ suất doanh
lợi tổng vốn (2:3)
%
0,042
0,036
- 0,006
-14,3%
- Trong khi đó, doanh thu của công ty lại không tăng lên tương ứng. Mức tăng và tốc độ tăng doanh thu nhỏ hơn nhiều lần so với mức tăng và tỷ lệ tăng vốn sản xuất bình quân.
* Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn:
Năm 2000, tỷ suất doanh lợi tổng vốn của Công ty là 0,036%, tức là 1 đồng SXKD trong năm chỉ tạo ra được 0,00036 đồng lợi nhuận thuần, giảm 0,00006 đồng so với năm 1999. Đó là do tốc độ tăng lợi nhuận thuần (2,8%) chậm hơn nhiều tốc độ tăng vốn sản xuất bình quân (20%).
Để làm rõ nguyên nhân sâu xa làm giảm tỷ suất doanh lợi tổng vốn của công ty, ta áp dụng phương pháp thay thế số liệu hoàn trong phân tích hoạt động kinh tế để phân tích mức độ ảnh hưởng của 2 nhân tố lợi nhuận thuần (LNT) và vốn sản xuất bình quân (Vsxbq).
+ Mức độ ảnh hưởng của nhân tố lợi nhuận thuần:
LNT 2000 LNT 1999
DT (LNT) = -
Vsxbq 1999 Vsxbq 1999
1.478.634.731
= - 0,042 = 0,043 - 0,042 = + 0,001
34.430.510.730,5
+ Mức độ ảnh hưởng của nhân tố vốn sản xuất bình quân:
LNT 2000 LNT 2000
DT (Vsxbq) = - = 0,036 - 0,043 = - 0,007
Vsxbq 2000 Vsxbq 1999
+ Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của 2 nhân tố:
DT (LNT) + DT (Vsxbq) = 0,001 + (-0,007) = - 0,006.
Như vậy:
+ Lợi nhuận thuần tăng làm tỷ suất lợi nhuận tổng vốn tăng 0,001.
+ Vốn sản xuất bình quân tăng làm tỷ suất lợi nhuận thuần giảm 0,007.
Mức giảm tỷ suất lợi nhuận tổng vốn do ảnh hưởng của vốn sản xuất bình quân lớn hơn mức tăng của lợi nhuận thuần do ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận thuần tổng vốn, từ đó làm doanh lợi tổng vốn giảm đi 0,006%.
* Tỷ suất doanh lợi doanh thu giảm 0,001% là do tốc độc tăng lợi nhuận thuần (2,8%) nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu thuần (3,3%). Đây là một biểu hiện không tốt cho thấy hiệu quả SXKD năm 2000 đã giảm đi so với năm 1999.
Tóm lại: qua những phân tích ở trên có thể thấy trong năm 2000, công ty đã không đạt được mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng VKD, thể hiện ở sự sụt giảm 2 chỉ tiêu lợi nhuận tổng vốn và vòng quay tổng vốn. Tổng hợp từ những phần trước, ta có thể hiển nguyên nhân làm hai chỉ tiêu này giam là do tình hình quản lý và sử dụng VCĐ và VLĐ của công ty chưa thật tốt: VCĐ chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng vốn SXKD, nhưng chưa phát huy được hiệu quả, VLĐ giảm đều cả ba khâu, số giảm chủ yếu nằm ở hai khâu sản xuất và lưu thông, tuy vậy số giảm ở khâu lưu thông vẫn chưa nhiều nên quá trình tạo ra doanh thu và lợi nhuận vẫn chậm. Nhưng xét đến toàn bộ VLĐ dùng cho hoạt động SXKD thì vẫn tăng, do cả hai khoản vốn: VCĐ và VLĐ đều tăng dần đến tổng vốn SXKD của công ty tăng lên. Bên cạnh đó, mức tăng của doanh thu và mức tăng của lợi nhuận lại chưa tương xứng với mức tăng của đồng vốn bỏ vào SXKD. Từ đó mà hạn chế đến sự quay vòng của vốn và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
II.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN SXKD Ở CÔNG TY DỆT MINH KHAI.
II..3.1. Kết quả đạt được:
Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động SXKD trong lĩnh vực dệt may 2 mặt hàng chủ yếu là khăn bông các loại và vải màn tuyn, công ty Dệt Minh Khai đã từng bước khẳng định mình bằng kết quả SXKD ngày một khả quan, uy tín của công ty ngày càng được đánh giá cao bởi chất lượng các sản phẩm dệt may. Thực tế cho thấy trong những năm qua, Công ty luôn làm ăn có lãi, hoàn thành tốt nghĩa vụ với Nhà nước, đời sống cán bộ công nhân viên ngày một được nâng lên.
Xét riêng trong lĩnh vực tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn SXKD, có thể ghi nhận một số kết quả đáng khích lệ sau:
- Công ty đã huy động được một lượng vốn lớn từ bên ngoài đưa vào phục vụ nhu cầu SXKD, trong đó phải kể đến 2 nguồn vốn vay ngắn hạn và vay dài hạn Ngân hàng thương mại, đây là nguồn vốn có ưu điểm giúp doanh nghiệp vững tin trong hoạt động kinh doanh.
- Công ty đã mạnh dạn đầu tư đổi mới, hiện đại hoá trang thiết bị công nghệ, từ đó mở rộng qui mô sản xuất nhờ đó nâng cao được năng lực sản xuất, sức cạnh tranh và ký được nhiều hợp đồng và đơn đặt hàng.
- Cơ cấu vốn kinh doanh của công ty đã thay đổi theo xu hướng cân đối hơn. Nếu trước năm 1999, cơ cấu VKD của công ty nghiêng về VCĐ (Trên 50%) thì đến cuối năm 1999 cơ cấu VKD của Công ty laị nghiêng về VLĐ (chiếm 54,4%). Song đến cuối năm 2000, cơ cấu VKD lại một lần nữa được dịch chuyển ngược chiều nghiêng về VCĐ (52,8%). Điều đó chứng tỏ khoảng cách giữa 2 khoản vốn không chênh lệch nhau nhiều và thể hiện sự cân đối về cơ cấu VKD của công ty rất phù hợp với lĩnh vực SXKD.
- Mặc dù một số chỉ tiêu phản ánh kết quả SXKD của công ty không gia tăng cùng một nhịp với sự tăng thêm về vốn, nhưng xét đến hiệu quả cuối cùng là làm tăng lợi nhuận cho công ty thì đã đạt được.
II.3.2. Một số vấn đề đặt ra với công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn SXKD ở Công ty dệt Minh Khai.
- Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh chưa hợp lý: Hệ số nợ đang lên cao (trên 60%) làm tăng khả năng rủi ro về tài chính và tăng chi phí sử dụng vôn của công ty. Với cơ cấu tài chính trong đó nợ phải trả chiếm ưu thế, hàng năm công ty phải sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh để trang trải lãi vay - số lợi nhuận còn lại chỉ đạt thấy so với tổng vốn, từ đó làm các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận các loại VLĐ, VCĐ, VKD nói chung giảm xuống.
- Cơ cấu VLĐ vẫn chưa hợp lý: Do VLĐ vẫn còn tồn đọng lớn ở khâu lưu thông, mặc dù trong năm 2000 có giảm nhưng mức giảm chưa nhiều nên công ty vẫn phải trả chi phí sử dụng vốn từ nguồn vốn huy động ở bên ngoài để bù đắp vào số vốn vẫn còn bị chiếm dụng chưa thu hồi hết, từ đó đã ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sử dụng VLĐ.
- Công tác quản lý và sử dụng cả 2 bộ phận vốn: VCĐ và VLĐ của công ty đều chưa cao.Đối với bộ phận VCĐ, công ty đầu tư tương đối lớn nhưng chưa phát huy được năng lực với công suất của TSCĐ hiện có vaò sản xuất, làm VCĐ bị lãng phí 1 lượng nhỏ thể hiện sự gia tăng hàm lượng VCĐ trong 1 đồng doanh thu (0,04đ) năm 2000 so với năm 1999. Còn VLĐ trong năm 2000 thể hiện vòng quay VLĐ chậm lại (0,5 vòng) và tỷ suất lợi nhuận VLĐ cũng giảm so với năm 1999.
Những biểu hiện giảm sút trong 1 loạt chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng từng loại vốn, cũng như toàn bộ VKD của Công ty bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài những nguyên nhân chủ quan từ phía công ty trong việc bố trí cơ cấu vốn.Quản lý sử dụng vốn như đã nêu, còn có một số nguyên nhân khách quan xuất phát từ đặc điểm SXKD của ngành, sự biến động của nhu cầu thị trường và sự gia tăng mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may. Trên cơ sở phân tích những tồn tại và nguyên nhân của nó, công ty cần nhanh chóng tìm biện pháp để từng bước cải thiện tình hình sử dụng và nâng cao hiệu quả VKD trong khoảng thời gian sắp tới.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM ĐẨY MẠNH TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÔNG TY DỆT MINH KHAI
III.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI:
Công ty Dệt Minh Khai ra đời trên cơ sở trước đây là Nhà máy khăn mặt, khăn tay - là một đơn vị lớn của ngành công nghiệp Hà Nội trong lĩnh vực dệt may. Công ty đã đúc rút được những kinh nghiệm quí báu từ khi thành lập cho tới nay, đồng thời gây dựng được uy tín với khách hàng và các bạn hàng mà Công ty đặt quan hệ. Công ty cũng có một đội ngũ cán bộ CNV có trình độ cao, tận tâm với công việc và một hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Những lợi thế đó chính là nội lực mà Công ty xác định cần phải phát huy tối đa nhằm đạt được sự tăng trưởng nhảy vọt cả về lượng và chất trong tương lai.
Phương hướng cơ bản của Công ty trong thời gian tới là: Tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý, không ngừng nâng cao năng suất - chất lượng - hiệu quả kinh doanh. Tăng cường đầu tư phát triển theo chiều sâu và chiều rộng nguồn nhân lực, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao uy tín của công ty Dệt Minh Khai trên thị trường.
Mục tiêu tổng quát trong năm 2001 của công ty là:
1- Phấn đấu đạt hệ thống quản lý chất lượng ISO 90001: 2000 vào tháng 11/2001 và duy trì chứng nhận được cấp.
2- Mở rộng và ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm:
- Thị trường nội địa: Đạt doanh thu 14 ¸ 15 tỷ đồng.
- Thị trường xuất khẩu: đạt số lượngt iêu thụ 28 triệu sản phẩm qui chuẩn, tương đương 4 triệu USD. Trong đó có 20% sản phẩm mới và sản phẩm cải tiến.
- Phấn đấu mở rộng thị trường sang các nước: Mỹ, EU và các nước Đông Nam Á. Đồng thời xuất khẩu màn tuyn sang Châu Phí.
3- Đáp ứng chất lượng và thời hạn giao hàng theo hợp đồng cho khách hàng. Quyết tâm không có khiếu nại về uy tín hàng hoá của công ty Dệt Minh Khai trên thị trường.
4- Đào tạo mới và đào tạo lại cho 200 CB CNV nhằm nâng cao tay nghề và trình độ quản lý đảm bảo yêu cầu sản xuất và quản lý.
Để đạt được những mục tiêu trước mắt và lâu dài đó, một trong những phương hướng chủ yếu mà công ty xác định hiện nay cũng như trong thời gian tới là phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD. Trong đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VKD được xem là trọng tâm, là bước đi có tính quyết định.
III.2. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VKD Ở CÔNG TY DỆT MINH KHAI.
* Ý kiến thứ nhất: Tiếp tục thực hiện tốt các biện pháp tích cực mà công ty đã áp dụng:
- Thường xuyên theo dõi hiện trạng của TSCĐ, làm tốt công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị, tu sửa nhà xưởng.
- Tiếp tục đẩy mạnh cơ chế phân cấp quản lý TSCĐ, giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng phòng ban, phân xưởng một cách rõ ràng, qui định trách nhiệm bảo quản, sử dụng.
- Tiếp tục tranh thủ sử dụng một cách hợp lý nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp từ các khoản phải trả chưa đến hạn thanh toán (phải trả người bán, phải trả CNV, thuế và các khoản phải nộp nhà nước…). Tính đến cuối năm 2000, số vốn chiếm dụng của công ty đã tăng lên 15.702.475.408đ. Đây là nguồn hỗ trợ tích cực cho nhu cầu vốn SXKD của công ty.
* Ý kiến thứ hai: Điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí sử dụng vốn và mở rộng hành lang an toàn cho công ty.
Qua phân tích ở trên ta thấy VKD ở công ty đã biến động theo chiều hướng tương đối hợp lý. Tuy nhiên cơ cấu tài chính thì vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý biểu hiện ở sự chênh lệch khoảng cách giữa tỷ trọng vốn tự có (36%) và tỷ trọng nợ phải trả (64%). Mặc dù trong năm 2000, hệ số nợ đã tăng cao 0,64 nhưng chưa tác động làm tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu tăng lên mà còn bị giảm đi. Bởi vậy, để giảm bớt chi phí sử dụng vốn và mở rộng hành lang an toàn cho công ty, công ty nên tính đến giải pháp điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn theo hướng hạn chế bớt tỷ trọng nợ phải trả và tăng dần tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu.
Cũng qua xem xét cơ cấu nguồn vốn theo nguồn hình thành của công ty qua 2 năm 1999, 2000 ta thấy: Đại bộ phận nợ dài hạn của công ty là nguồn vốn vay dài hạn Ngân hàng thương mại và nợ ngắn hạn tập trung chủ yếu là các khoản phải trả người bán, phải trả CNV, vay ngắn hạn ngân hàng. Do đó, hướng cơ bản để giảm tỷ trọng nợ phải trả là:
- Đối với khoản nợ ngân hàng: tăng thêm vay ngắn hạn,giảm bớt các khoản nợ khác.
+ Tính đến thời điểm 31/12/2000: số dư có vay dài hạn ngân hàng là: 10.483.129.953đ lớn hơn nhiều so với số dư có vay ngắn hạn là: 3.551.030.280đ. Nếu tăng thêm khoản vay ngắn hạn thì công ty sẽ tận dụng được nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu SXKD một cách nhanh nhất, đem lại hiệu quả SXKD cao hơn.
- Đối với các khoản nợ khác:
+ Tính đến thời điểm 31/12/2000: Khoản phải trả người bán là: 9.382.796.487đ và phải trả CNV: 5.728.899.463đ chiếm tỷ trọng khá lớn trong các khoản nợ ngắn hạn, công ty cũng cần trả bớt để nâng cao uy tín của công ty đối với bạn hàng và cán bộ CNV trong công ty.
Do đó, muốn trả được các khoản trên, công ty phải nhanh chóng dịch chuyển các khoản vốn đang tồn đọng vào quá trình sản xuất và thu hồi nhanh chóng các khoản vốn bị chiếm dụng.
Đối với nguồn vốn chủ sở hữu, công ty phải không ngừng bổ sung, phát triển nguồn vốn này bằng các biện pháp như: Tăng cường huy động lợi nhuận để lại, thông qua các quĩ: Đầu tư phát triển, quĩ dự phòng tài chính, đầu tư XDCB… Đồng thời tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của nhà nước việc cấp bổ xung nguồn vốn kinh doanh.
* Ý kiến thứ ba: Tiếp tục đầu tư TSCĐ và phát huy tối đa công suất máy móc thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Qua tìm hiểu ta thấy: Trong tháng 12- 2000, công ty đã đầu tư mua sắm và xây dựng mới TSCĐ để tăng cường đầu tư TSCĐ mở rộng chiều sâu. Cần phải đổi mới toàn diện để nâng tổng giá lên cao hơn so với mức hiện có và từ đó sẽ đẩy hệ số hao mòn xuống thấp hơn nữa.
- Công ty cũng cần tăng cường đầu tư TSCĐ bằng nguồn vốn chủ sở hữu thông qua các quĩ do lợi nhuận để lại và nguồn vốn khấu hao cơ bản trên cơ sở trích khấu hao TSCĐ.
- Đi đôi với việc tăng cường đổi mới TSCĐ, công ty cần chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ hiện có bằng cách.
+ Phân loại TSCĐ đã cũ kỹ, lạc hậu hoặc không sử dụng cho mục đích SXKD để thanh lý, nhượng bán, nhanh chóng thu hồi vốn.
+ Tận dụng tối đa công suất TSCĐ hiện đang sử dụng và mua sắm mới vào để phục vụ cho sản xuất: Qua xem xét ta thấy hệ số hao mòn của bộ phận máy móc thiết bị sản xuất còn dưới 50% nên khả năng sử dụng vẫn còn có thể khai thác được rất lâu. Do đó, để thực hiện việc khai thác tốt năng lực của TSCĐ vào sản xuất một cách có hiệu quả thì trong năm tới, công ty cần tìm hiểu và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó tăng số lượng đơn đặt hàng và hợp đồng ký kết, đẩy nhanh vòng quay của vốn.
* Ý kiến thứ tư: Đẩy mạnh SXKD, nâng cao chất lượng, tăng số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, hạ giá thành sản phẩm.
Việc phấn đấu tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trên cơ sở đảm bảo chất lượng là một phương hướng quan trọng giúp cho các doanh nghiệp phấn đấu tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu qủa sử dụng VKD.
Đối với công ty Dệt Minh Khai, yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm khác muốn đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng trong cuộc sống được tốt hơn và lâu dài hơn thì các sản phẩm như khăn bông các loại và vải để sản xuất màn tuyn có vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội. Nếu không đảm bảo tốt về chất lượng sản phẩm thì những sản phẩm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu sinh hoạt thường xuyên của người dân và sẽ mất đi tính cạnh tranh của sản phẩm đó. Bên cạnh đó, những sản phẩm của công ty không chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước mà còn được xuất khẩu sang các nước khác, đặc biệt là các nước tư bản phát triển cho nên việc nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi rất khắt khe về mẫu mã, chủng loại, thời gian sử dụng… Vì vậy, để nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty cần chú trọng làm tốt một số vấn đề sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ CNV. Đặc biệt là đào tạo lại và đào tạo mới những đội ngũ CN bậc cao trong các khâu: nấu, tẩy, nhuộm, dệt và may. Bởi họ là những người trực tiếp tạo ra và cấu thành nên hình hài của sản phẩm.
- Trong quá trình đóng gói, đóng kiện để nhập kho thành phẩm cần quản lý tốt khâu kiểm tra bán thành phẩm và thành phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm vừa thể hiện được trình độ của cán bộ kiểm tra vừa thấy được tay nghề thực tế của từng công nhân trực tiếp sản xuất.
Song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty cần có biện pháp hạ giá thành sản phẩm bằng cách tiết kiện chi phí trực tiếp, gián tiếp cấu thành nên sản phẩm.
Việc tiết kiệm chi phí sẽ giúp công ty giảm bớt được 1 lượng vốn bỏ vào sản xuất, hoặc có thể mở rộng qui mô sản xuất mà không cần bỏ thêm vốn (hoặc bỏ thêm rất ít). Với ý nghĩa đó, việc phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành đang là một yêu cầu đặt ra nhằm tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Để thực hiện biện pháp này, công ty cần giảm bớt các khoản chi phí sau:
- Đối với chi phí nhân công: Giảm đến mức tối thiểu số CNV trong biên chế, chỉ giữ lại cán bộ quản lý có năng lực và công nhân có nghiệp vụ cao.
- Đối với chi phí NVL: Đây là bộ phận chi phí có tỷ trọng rất lớn trong giá thành. Muốn giảm khoản mục chi phí này cần phải thực hiện triệt để các biện pháp tiết kiệm từ khâu thu mua đến khâu sử dụng.
- Đối với chi phí về máy móc, thiết bị: Cần sử dụng triệt để công suất máy móc thiết bị. Trong thời gian sản xuất có lúc máy móc thiết bị không cần dùng hay chưa cần dùng, công ty có thể tìm khách hàng có nhu cầu để cho thuê.
- Đối với chi phí sản xuất chung: Đây là khoản chi phí gián tiếp. Song nếu tiết kiệm được cũng góp phần đáng kể giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Thực tế khoản chi phí này bao gồm rất nhiều loại và đôi khi không có chứng từ gốc để chứng minh. Vì vậy, công ty cần có những qui chế cụ thể nhằm hạn chế các khoản chi phí này một cách hợp lý.
* Ý kiến thứ năm: Tiếp tục mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Qua tình hình thực tế cho thấy các sản phẩm của công ty chủ yếu được tiêu thụ ở trong nước và xuất khẩu tập trung ở thị trường Nhật Bản cho nên trong điều kiện kinh doanh hiện nay không chỉ tập trung tiêu thụ với thị trường truyền thống mà cần phải tìm kiếm những thị trường mới như ở các nước Tây âu và các nước Mỹ la tinh, Châu phi..., để sản phẩm của công ty có thể có mặt ở khắp mọi nơi và cạnh tranh được không chỉ với những mặt hàng do các đơn vị cùng ngành sản xuất ở trong nước mà còn cạnh tranh với nhiều đơn vị khác ở nước ngoài. Muốn đạt được việc mở rộng thị trường công ty phải thường xuyên cải tiến chất lượng sản phẩm về mẫu mã, qui cách, có độ bền cao, sử dụng lâu dài, bên cạnh đó tiến hành mở rộng công tác Marketing quảng cáo sản phẩm của công ty ở nhiều nơi… từ đó phải tìm mọi cách để phấn đấu nâng cao sản lượng tiêu thụ, nhằm tăng nhanh chóng vòng quay vốn… sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả SXKD nói chung.
III.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP TRÊN:
III.3.1.Về phía nhà nước.
Nhà nước nên có những chính sách, chế độ ưu đãi khuyến khích hoạt động SXKD của công ty góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn SXKD, cụ thể:
- Nhà nước nên xem xét cấp vốn đầu tư và cấp bổ sung nhiều hơn để công ty tránh được tình trạng phaỉ vay nợ nhiều và phải trả chi phí sử dụng vốn lớn.
- Nhà nước cần thiết lập một cơ chế pháp lý cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ hơn nhằm khắc phục những bất cập hiện nay để khắc phục những hậu quả của việc chiếm dụng vốn, hậu quả của việc tranh chấp các hợp đồng kinh tế… bằng những văn bản có hiệu lực pháp lý cao.
Nhà nước nên khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu những sản phẩm công nghiệp để công ty có thể thực hiện tốt mục tiêu năm 2001 đã đề ra.
III.3.2. Về phía công ty:
Với những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn SXKD đã nêu trên thì đối với công ty Dệt Minh Khai cũng cần phải có sự hoàn thiện trong tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý để có thể tạo điều kiện thực hiện những giải pháp trên ta cần tăng cường công tác đào tạo về quản lý và trình độ tay nghề cảu cán bộ công nhân viên ngày càng đáp ứng phù hợp hơn vơí những yêu cầu đổi mới hiện nay, tận dụng triệt để mọi nguồn lực, nâng cao hiệu quả SXKD và hiệu quả sử dụng VKD.
KẾT LUẬN
Đất nước ta đang bước vào một kỷ nguyên mới với bao thách thức và cơ hội mới. Trong dòng chảy toàn cầu hoá, yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam là phải nâng cao được khả năng cạnh tranh để có thể hội nhập một cách đầy đủ vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải xây dựng một tiềm lực tài chính vững mạnh, đồng thời phải sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực tài chính của mình.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về VKD, em đã tìm hiểu và phân tích thực trạng quản lý và sử dụng VKD ở công ty Dệt Minh Khai. Có thể nói, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một cố vấn đề cần đặt ra đòi hỏi công ty phải cố gắng hơn nữa để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu qủa SXKD.
Vấn đề nâng cao hiệu qủa sử dụng VKD là một vấn đề lớn, khó khăn cả về thực tiễn và lý luận, song trong thời gian thực tập tại công ty, đưcợ sự giúp đỡ nhiệt tình của ban lãnh đạo, phòng tài vụ công ty và sự hướng dẫn của thầy giáo bộ môn, em đã cố gắng kết hợp những kiến thức được trang bị trong quá trình học tập và tìm hiểu thêm với thực tiễn tổ chức, sử dụng VKD ở công ty Dệt Minh Khai, trên cơ sở đó mà mạnh dạn đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần đẩy mạnh việc tổ chức và sử dụng VKD của công ty.
Do trình độ lý luận và khả năng lĩnh hội thực tế còn nhiều hạn chế chắc chắn báo cáo thực tập cảu em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, ban lãnh đạo công ty để báo cáo của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình cuẩ ban lãnh đạo, phòng tài vụ công ty Dệt Minh Khai cùng thầy giáo bộ môn đã hướng dẫn giúp em hoàn thành bản báo cáo này./.
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2001
Sinh viên
Vũ Minh Đạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tm139_0564.doc