Kết luận
Người Dao ở thị xã Sa Pa sản xuất và buôn bán
thảo quả từ rất sớm và thảo quả trở thành một phần
lịch sử trong hoạt động kinh tế của cộng đồng này.
Trong gần một thập kỷ qua, điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội có nhiều thay đổi kinh tế thảo quả
cũng gặp nhiều khó khăn, lúc thì mất mùa, lúc giảm
giá và thường xuyên bị ép giá từ phía thương nhân
Trung Quốc. Tuy nhiên, dù thay đổi thế nào thì thảo
quả vẫn có vai trò nhất định trong nền kinh tế người
Dao ở đây. Họ không ngừng mở rộng mạng lưới xã
hội, phát huy vốn văn hoá vào quá trình phát triển
thị trường thảo quả. Những nỗ lực đó, có lúc đã đạt
được nhiều kết quả đáng kể. Nhưng vì nhiều hạn
chế trong hầu hết các nguồn vốn nên sự phát triển
thị trường thảo quả của người Dao cũng gặp nhiều
khó khăn. Vậy nên, trong thời gian tới, để người
Dao tham gia chủ động và hiệu quả hơn vào mạng
lưới thương mại thảo quả cần có những biện pháp
để nâng cao nguồn vốn văn hoá cũng như phát huy
các nguồn vốn khác cho người Dao nhằm giúp họ
có vị thế quan trọng trong mạng lưới thương mại
thảo quả./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vốn văn hóa trong phát triển thị trường thảo quả của người dao ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
133Volume 9, Issue 4
VỐN VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG THẢO QUẢ
CỦA NGƯỜI DAO Ở THỊ XÃ SA PA, TỈNH LÀO CAI
Bùi Minh Hào
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội
Email: buihao261@gmail.com
Ngày nhận bài: 24/10/2020
Ngày phản biện: 05/11/2020
Ngày tác giả sửa: 08/11/2020
Ngày duyệt đăng: 09/11/2020
Ngày phát hành: 20/11/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/479
Thảo quả là một loại hương liệu đặc biệt có giá trị kinh tế cao và có thị trường rộng lớn. Thảo quả được đồng bào
người Dao sinh sống ở thị xã Sa Pa trồng từ lâu trong lịch sử và
sớm có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của họ. Trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường hiện nay, thảo quả cũng giữ một
vị trí đáng kể. Đồng bào người Dao ở nơi đây đã vận dụng vốn
văn hoá của mình một cách hiệu quả trong quá trình phát triển
thị trường hương liệu. Từ việc phân tích mạng lưới xã hội, chuỗi
hàng hoá thảo quả và những nỗ lực của người dân trong phát
triển thị trường, bài viết nghiên cứu việc người Dao ở Sa Pa vận
dụng vốn văn hoá vào phát triển kinh tế.
Từ khoá: Vốn văn hoá; Người Dao ở thị xã Sa Pa; Thảo quả;
Thị trường hương liệu; Chuỗi hàng hoá.
1. Đặt vấn đề
Người Dao là cộng đồng có vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội miền núi Tây Bắc
Việt Nam. Trong nhiều năm trở lại đây, kinh tế của
người Dao ở khu vực Tây Bắc đang chuyển đổi
mạnh mẽ theo hướng phát triển kinh tế thị trường.
Người Dao ở thị xã Sa Pa (trước là huyện Sa Pa),
tỉnh Lào Cai là một ví dụ điển hình. Trong các hoạt
động kinh tế thị trường của người Dao ở thị xã Sa
Pa, hương liệu có vị trí trọng yếu. Trong đó, thảo
quả là cây hương liệu có giá trị kinh tế cao nhất và
quan trọng nhất trong mạng lưới thương mại hương
liệu của người Dao ở đây. Từ cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, mạng lưới thương mại thảo quả
xuyên biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã hình
thành và người Dao (cùng với người Mông, người
Giáy) đã tham gia vào mạng lưới buôn bán thảo
quả, trong đó người Dao chủ yếu là cung cấp thảo
quả. Sau khi thu hoạch, họ để tươi hoặc sấy khô rồi
đem bán cho các thương lái là người Kinh, người
Giáy hoặc người Hoa. Từ đó, thảo quả đi đến các
đại lý, các nhà phân phối, chiết xuất ở miền xuôi
hoặc bên kia biên giới.
Vốn văn hoá được hiểu là tổng thể các mạng
lưới xã hội, các vốn văn hoá cá nhân, vốn văn hoá
cộng đồng và vốn văn hoá thể chế mà một cá nhân
hay một nhóm có thể vận dụng để phát triển kinh
tế, tạo ra lợi ích cho mình. Vốn văn hoá có vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế thị trường. Điều
đó được người Dao ở thị xã Sa Pa thể hiện rõ trong
quá trình phát triển thị trường hương liệu thảo quả
của họ.
2. Tổng quan nghiên cứu
Nghiên cứu về kinh tế hương liệu, dược liệu
của người Dao đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm trong thời gian qua. Trong bộ sách “Các dân
tộc ở Việt Nam” phần viết về dân tộc Dao có trình
bày nhiều vấn đề liên quan đến việc trồng quế của
người Dao. Theo đó, cây quế được người Dao trồng
ở nhiều nơi từ các vùng người Dao ở các tỉnh Yên
Bái, Lào Cai, Quảng Ninh và tham gia vào mạng
lưới thương mại cây quế (Vương Xuân Tình, chủ
biên, 2019, tr.217). Ở những nơi như huyện Văn
Yên (tỉnh Yên Bái), người Dao chỉ chiếm 21,1%
dân số, nhưng lại làm chủ 90% diện tích cây quế.
Họ trồng quế thành các rừng rộng lớn, xây dựng mô
hình kinh tế quế (Hoàng Nam 1998, tr.9-10). Một
số tài liệu khác lại quan tâm đến việc trồng cây sa
nhân tím, một loại dược liệu cũng quan trọng của
người Dao được trồng ở vùng núi cao vừa. Theo
Quốc Hồng (2018) thì “Toàn tỉnh Lào Cai hiện có
khoảng 398ha cây sa nhân tím, đem lại nguồn thu
ổn định hàng chục tỷ đồng mỗi năm cho nông dân
vùng cao, góp phần xóa nghèo bền vững và tạo
đà vươn lên làm giàu hiệu quả. Mục tiêu đến năm
2020, đồng bào các dân tộc thiểu số ở các xã vùng
cao, biên giới sẽ tiếp tục mở rộng diện tích cây sa
nhân tím, đạt khoảng gần 1.000ha. Lào Cai cũng
đã đưa cây sa nhân tím vào quy hoạch phát triển
vùng cây dược liệu của tỉnh”. Tuy quan tâm nhiều
đến các cây hương liệu, dược liệu của người Dao,
nhưng các nhà nghiên cứu chưa quan tâm nhiều đến
cây thảo quả.
Nghiên cứu nhiều về cây thảo quả và mạng lưới
thương mại thảo quả ở khu vực Tây Bắc là các nhà
khoa học nước ngoài. Trong đó phải kể đến các công
trình nghiên cứu của các học giả như: Sarah Turner
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
134 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
và Jean Michaud (2008); Claire Tugault-Lafleur
and Sarah Turner (2009); Jean Michaud (2010);
Sarah Turner (2012); Sarah Turner, Christine
Bonnin và Jean Michaud (2015); Sarah Turner và
Jean Michaud (2016, 2017)... Tuy nhiên, những
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài này tập trung
vào cộng động người Mông (những người láng
giềng của người Dao, sinh sống ở vùng núi cao hơn)
trong bối cảnh xuyên biên giới (nghiên cứu ở phía
Bắc Việt Nam và phía Nam Trung Quốc). Các nhà
nghiên cứu quan tâm nhiều đến sự phát triển của
mạng lưới thương mại thảo quả. Từ việc phân tích
các mạng lưới thương mại thảo quả, chuỗi hàng hóa
thảo quả, các nhà nghiên cứu đã đi sâu khám phá
các chiến lược phát triển sinh kế của người vùng
cao phía Bắc Việt Nam, cái gọi là “quyết định sinh
kế hàng ngày” (Daily livelihood decisions) (Sarah
Turner, Christine Bonnin và Jean Michaud, 2015).
Trong hoạt động kinh tế thị trường hiện tại, các tác
giả này chú trọng nhiều đến giá trị thương mại của
cây thảo quả - loại cây được ví như “cây thuốc phiện
mới” của người dân. Các công trình nghiên cứu này
có giá trị lớn khi mở ra nhiều vấn đề quan trọng cả
về lý thuyết lẫn thực tiễn cho các nghiên cứu về
sự phát triển miền núi. Nó đặt vấn đề bản sắc văn
hóa, cá tính con người làm cơ sở cho sự phân tích
về phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện đại hóa,
thị trường hóa ở miền núi. Đồng thời, mở ra những
hướng nghiên cứu tiếp theo. Tuy vậy, các tác giả
cũng mới tập trung vào nhóm người Mông. Trong
khi người Dao - một cộng đồng cùng trồng cây
thảo quả tương tự người Mông và có vai trò quan
trọng ở vùng miền núi, lại chưa được quan tâm. Vậy
nên nghiên cứu này tiếp tục khảo sát về mạng lưới
thương mại của người Dao ở thị xã Sa Pa trên cơ sở
phân tích các nguồn vốn văn hoá được người Dao
vận dụng vào phát triển mạng lưới thương mại thảo
quả hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này là kết quả của 4 chuyến khảo sát
thực địa vùng người Dao ở thị xã Sa Pa từ năm 2016
đến năm 2020. Bên cạnh việc nghiên cứu thực địa
ở xã Tả Phìn là địa bàn nghiên cứu chính, người
nghiên cứu còn khảo sát một số cộng đồng người
Dao ở các xã Tả Van, Bản Khoang, Thanh Kim để
có cái nhìn rộng hơn. Trọng tâm của những chuyến
thực địa là phân tích các nguồn vốn văn hoá của
người Dao và việc vận dụng nguồn vốn văn hoá vào
quá trình phát triển kinh tế thị trường, đặc biệt là các
hoạt động trên thị trường hương liệu, dược liệu, thị
trường thủ công nghiệp và thị trường du lịch.
Phương pháp quan trọng nhất trong quá trình
nghiên cứu điền dã để thu thập tư liệu là phỏng vấn
sâu. Để tìm hiểu về mạng lưới thương mại thảo quả
của người Dao ở thị xã Sa Pa, người nghiên cứu đã
tiến hành 25 cuộc phỏng vấn sâu. Trong đó có 11
cuộc phỏng vấn những người sản xuất thảo quả; 6
cuộc phỏng vấn những người đi thu gom và làm đại
lý thu mua thảo quả; 3 cuộc phỏng vấn cán bộ chính
quyền địa phương liên quan đến các chính sách phát
triển cây thảo quả; 5 cuộc phỏng vấn những người
làm quán phở hay bán thuốc Nam. Các cuộc phỏng
vấn sâu mang lại nhiều thông tin liên quan đến các
hoạt động kinh tế cũng như việc người dân tham
gia vào hoạt động thị trường thảo quả và họ đã vận
dụng vốn văn hoá của mình trong quá trình phát
triển kinh tế thảo quả ra sao. Bên cạnh đó, bài viết
còn sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. 4 cuộc
thảo luận nhóm được thực hiện với những người
Dao ở xã Tả Phìn và Thanh Kim về nội dung sản
xuất và buôn bán thảo quả. Những cuộc thảo luận
nhóm thường thu được nhiều nội dung thú vị sau
khi những người tham gia tranh luận nhiều lần để đi
đến một ý kiến cuối.
Bên cạnh phương pháp thu thập thông tin từ quá
trình nghiên cứu thực địa, là việc khảo sát các tài
liệu nghiên cứu của các học giả trước đây, thu thập
thông tin từ các báo cáo kinh tế - xã hội, số liệu
thống kê của chính quyền địa phương để có cái nhìn
đa chiều và sâu sắc hơn. Cùng với đó là việc trao
đổi, tham khảo ý kiến chuyên gia trong các vấn đề
liên quan đến nội dung nghiên cứu.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Cây thảo quả trong đời sống của người Dao
Đối với người Dao ở thị xã Sa Pa thì thảo quả là
một loại cây tạo nguồn thu nhập quan trọng. Trong
cuộc sống sinh hoạt, người Dao cũng sử dụng thảo
quả trong chữa bệnh, nhưng lượng thảo quả cần cho
việc này rất nhỏ. Do đó, vai trò quan trọng nhất của
thảo quả là bán để tạo nguồn thu nhập cho các hộ
gia đình. Người Dao ở các xã Tả Phìn, Bản Khoang,
Thanh Kim, Nậm Cang đều quan tâm đến thảo quả
và xem đó như một thứ của cải có thể tích trữ.
Ở xã Tả Phìn, hầu hết các gia đình người Dao
đều có nương thảo quả, diện tích này không ngừng
tăng lên. Năm 2004, diện tích nương thảo quả ở xã
Tả Phìn chỉ hơn 251ha, đến năm 2014, đã tăng lên
283ha và đến năm 2020 là 334ha. Năng suất trung
bình hàng năm của thảo quả đạt khoảng 80kg/ha
quả tươi. Giá thương lái thu mua hiện nay khoảng
25 ngàn đồng/kg quả tươi thì mỗi năm cũng tạo ra
một khoản tiền 668 triệu đồng. Tính cấp hộ gia đình
thì đó chưa phải là nguồn tiền lớn so với các hoạt
động khác, song vì thu hoạch một lúc với số lượng
lớn nên thảo quả là nguồn dự trữ của cải của đồng
bào để đề phòng lúc ốm đau, bệnh tật hay thiên tai
mất mùa. Trước đây, khi thu hoạch thảo quả, người
ta thường làm khô và cất đi, khi nào cần tiền mới
đem bán. Lúc bán thảo quả thường là lúc cần tiền
để mua phân bón, giống lúa, ngô, thuốc thang, các
thứ khác khi lễ Tết, đi chơi chợ. Nói chung, trong
đời sống hàng ngày, thảo quả là nguồn tiền cất trữ
quan trọng: “Lúc trong nhà có người ốm đau mình
bán thảo quả để mua thuốc chữa bệnh. Lúc phải
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
135Volume 9, Issue 4
mua lúa giống, phân bón để gieo mùa thì mình cũng
bán thảo quả thôi. Mình không làm ra được nhiều
tiền nên phải bán thảo quả. Nếu không có thảo quả
để bán thì mình cũng không biết làm thế nào để lo
những việc trong gia đình khi cần một khoản tiền
lớn.” (Phụ nữ, dân tộc Dao, xã Tả Phìn, phỏng vấn
ngày 28/6/2018).
Hơn nữa, thảo quả như là một của cải quý mà
mỗi nhà đều hiểu và tích trữ. Họ xem như là một
nguồn đảm bảo sự an toàn trong cuộc sống. Lúc
cần tiền thì họ đem bán mà không cần biết lúc đó
giá thảo quả lên cao hay thấp. Và cũng chỉ có thảo
quả mới có thể đưa lại một khoản tiền lớn cho họ
khi cần thiết. Như vậy, có thể thấy, trong cuộc sống
của người Dao ở thị xã Sa Pa, ngoài để làm thuốc,
thảo quả là một một loại hàng hoá có giá trị kinh tế
được đồng bào đem bán khi cần một khoản tiền lớn.
Nó cũng được coi như một thứ tài sản có giá trị mà
người ta cất trữ trong gia đình để sử dụng khi cần
thiết hoặc được cha mẹ cho lại con cái để đem bán
khi cần tiền.
4.2. Mạng lưới xã hội trong sản xuất thảo quả
4.2.1. Cây thảo quả
Cây thảo quả sống lâu năm, cao 2 - 3m, thân rễ
to, phân cành, mọc thành cụm. Cụm hoa dạng bông,
mọc từ gốc thân, dài 15 - 20cm. Đài dạng ống, tràng
hoa màu vàng. Quả mọc thành chùm, hình trứng,
màu đỏ tía. Hạt màu vàng nâu, có áo hạt, vị ngọt,
mùi thơm hơi cay. Thảo quả là cây đặc biệt ưa bóng
mát, ẩm nên chỉ có thể trồng được dưới tán rừng, ở
độ cao 1.300 - 2.200m, khí hậu ẩm mát quanh năm,
nhiệt độ trung bình năm 13 - 15,3 độ C, thường
xuyên có sương mù, lượng mưa 3.500 - 3.800mm/
năm, độ ẩm không khí trung bình từ 90% đến bão
hòa. Thảo quả được trồng bằng cây con ươm từ hạt
tươi hoặc trồng bằng nhánh non tách từ bụi cây già.
Cây mới trồng sau khoảng 3 năm thì có quả. Năng
suất đạt cao nhất là giai đoạn từ năm thứ 6 đến năm
thứ 15. Người Dao ở thị xã Sa Pa thường ươm cây
giống để trồng vì cây non tách ra trồng sau mấy
năm sẽ không nẩy chồi, thời gian có thể ra quả cho
thu hoạch ngắn (cây trồng từ ươm giống có thể cho
thu hoạch đến 20 năm). Để sản xuất thảo quả, cần
hai nhân tố quan trọng là diện tích đất rừng để trồng
thảo quả và nguồn lao động.
4.2.2. Đất rừng để trồng thảo quả
Thảo quả thường phát triển tốt ở vùng núi cao,
khí hậu mát lạnh và đặc biệt sinh trưởng dưới tán
của các rừng già, rừng rậm có tán cây cao che chắn.
Nếu lượng ánh sáng quá nhiều, cây thảo quả sẽ chết
hoặc vẫn sống nhưng không cho nhiều quả, hoặc
chất lượng quả kém.
Đất rừng để trồng thảo quả ngày càng hạn chế.
Theo thống kê của địa phương, diện tích nương thảo
quả trong mấy năm trước, đặc biệt giai đoạn trước
năm 2015 tăng khá nhanh. Nhưng theo người dân,
diện tích nương thảo quả của họ không tăng, thậm
chí giảm đi. Việc Nhà nước thống kê tăng là vì trước
đó họ chưa thống kê loại nương này, nên khi thực
hiện qua các năm cho con số tăng thêm. Chẳng hạn
như, diện tích thảo quả ở xã Tả Phìn từ khoảng năm
2005 đến năm 2015 có tăng, nhưng từ năm 2015
đến năm 2020 gần như không tăng.
Khi diện tích rừng già còn nhiều, nương thảo
quả cũng nhiều hơn. Nhưng càng ngày rừng già
càng ít đi, nên nương thảo quả cũng giảm do không
còn tán cây cao che chắn. Mấy năm trở lại đây, khí
hậu trở nên khắc nghiệt, nương thảo quả càng bị đe
doạ. Những đợt lạnh, xuất hiện băng tuyết, cây thảo
quả cũng chết. Những đợt nắng nóng kéo dài, cây
thảo quả bị khô héo và không ra quả. Khi không có
quả thu hoạch, người dân cũng bỏ dần, ít quan tâm
đến nương thảo quả. Khảo sát với 31 hộ gia đình
người Dao ở xã Tả Phìn cho thấy, mùa thảo quả
năm 2020 có đến 9 hộ không lên nương thu hoạch
vì biết không có nhiều quả; 4 hộ chỉ tranh thủ lên
nương thảo quả thu hoạch một lần chứ không quan
tâm nhiều đến loại nương này như trước đây. Lý do
là giữa năm vừa rồi, một đợt nắng nóng kéo dài làm
cây thảo quả chết nhiều, cho sản lượng thấp.
Nói vậy không có nghĩa người dân loại bỏ
nương thảo quả ra khỏi sinh kế của mình. Trong bối
cảnh vai trò kinh tế của nương thảo quả giảm dần
do người dân có nhiều hoạt động sinh kế khác, dễ
hiểu vì sao nhiều người không tập trung vào nương
thảo quả. Nhưng họ vẫn trao đổi, chia sẻ quyền
thu hoạch và kiểm tra nương thảo quả cho người
thân. Mùa thảo quả đến, người dân vẫn đi kiểm tra
nương, nếu có nhiều quả, họ kiểm tra liên tục để
bảo vệ nương, nhất là vào thời điểm gần thu hoạch
thảo quả. Thường thì những người có quan hệ gần
gũi, là anh em, hay bạn bè thân thiết sẽ hợp tác để đi
kiểm tra và bảo vệ nương thảo quả. Trường hợp cây
năm đó ít quả, người ta giao lại quyền thu hoạch cho
những người thân. Trường hợp gia đình chuyển đi
nơi khác sinh sống, họ bán lại cho những người anh
em, họ hàng. Điều này khá phổ biến ở xã Tả Phìn
khi trong 5 năm qua có không dưới chục gia đình
mua lại nương thảo quả từ anh em bà con.
4.2.3. Nguồn lao động sản xuất thảo quả
Người Dao ở thị xã Sa Pa có công ty cổ phần
về thuốc tắm, các hợp tác xã về thổ cẩm nhưng về
trồng thảo quả vẫn là hộ gia đình. Nguồn lao động
chính là lao động gia đình. Trong gia đình, phân
công lao động về thảo quả như sau: Đàn ông đi
phát các cây nhỏ để trồng thảo quả; phụ nữ ươm
cây giống nhỏ từ hạt; đàn ông và phụ nữ cùng trồng
cây giống ở nương thảo quả. Mỗi năm làm cỏ hai
lần, chủ yếu là đi chặt các cây dại và những cây
thảo quả quá già để nương thảo quả sinh trưởng tốt
hơn. Việc này chủ yếu do người đàn ông làm cùng
với việc đi kiểm tra và bảo vệ nương thảo quả. Đến
mùa thu hoạch chủ yếu cũng do đàn ông thực hiện,
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
136 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
phụ nữ chỉ tham gia nếu gia đình ít lao động. Trước
đây đi lại khó khăn, người ta thường sấy khô thảo
quả trên nương rồi mang về bán, nhưng nay lại chủ
yếu mang quả tươi về bán. Nương thảo quả thường
ở vùng rừng sâu núi cao, đi lại mất nhiều thời gian,
nên không phải ai cũng có thể lên đó làm. Vậy nên,
giữa các gia đình có quan hệ thân thiết như anh em,
họ hàng và bạn bè thân vẫn trao đổi lao động với
nhau để bảo vệ và thu hoạch thảo quả.
4.2.4. Hợp tác và xung đột trong sản xuất thảo quả
Trong quá trình sản xuất thảo quả của người Dao
ở thị xã Sa Pa cũng luôn diễn ra sự hợp tác cũng
như xung đột với nhiều hiểu hiện khác nhau. Nếu
như sự hợp tác trong sản xuất thảo quả thường diễn
ra mạnh mẽ trong nội bộ của các hộ gia đình, các
nhóm, thì xung đột lại diễn ra đối với người ngoài
mạng lưới xã hội của các hộ gia đình đó. Sự hợp tác
thường diễn ra trong quá trình trồng, kiểm tra thảo
quả, bảo vệ nương thảo quả, thu hoạch, sấy khô và
vận chuyển. Những người là anh em hoặc họ hàng
thì hợp tác chặt chẽ hơn, nhất là khi có nương thảo
quả gần nhau để có thể đi làm cùng nhau. Họ vừa
giúp đỡ nhau trên đường đi, vừa trao đổi công việc
và thay nhau làm một số việc liên quan đến nương
thảo quả. Khi cần nhiều sức lao động như đi lấy củi
trong rừng để sấy khô thảo quả, họ cũng làm cùng
nhau. Những năm thảo quả được mùa, sự hợp tác
chặt chẽ hơn, còn những năm mất mùa, người ta
cũng chuyển giao quyền thu hoạch cho người thân.
Sự xung đột, gay gắt nhất là giữa chủ nương với
những người đi trộm thảo quả. Những năm thảo quả
được giá, thì đến mùa sẽ có nhiều người hái trộm
mang đi bán. Người Mông cố gắng bảo vệ nương
thảo quả của mình là chính chứ không mong muốn
truy đuổi hay kiện tụng những người ăn trộm thảo
quả vì lo ngại những hậu quả để lại nếu xung đột
trực tiếp. Người Dao ở Sa Pa cũng gặp tình trạng
tương tự. Để hạn chế tình trạng này, những năm
thảo quả được mùa, họ tập hợp thành nhóm hỗ trợ
nhau đi kiểm tra, bảo vệ nương thảo quả.
4.3. Mạng lưới thương mại thảo quả
4.3.1. Người bán thảo quả
Trong nghiên cứu về mạng lưới thương mại
thảo quả ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Claire
Tugault-Lafleur và Sarad Turner (2009) đã phân
tích một cách đầy đủ về chuỗi hàng hoá và mạng
lưới thương mại thảo quả của người Mông ở miền
Bắc Việt Nam. Chuỗi hàng hoá thảo quả của người
Dao ở thị xã Sa Pa cũng không khác nhiều so với
người Mông bởi cả người Dao và người Mông đều
đóng vai trò là những người cung cấp nguyên liệu
đầu vào, họ trồng và bán thảo quả cho thương lái,
là nhóm đầu tiên của chuỗi hàng hoá thảo quả. Tiếp
theo trong chuỗi hàng hoá là những thương lái làm
công tác thu gom thảo quả, chủ yếu là người Kinh.
Nhóm thứ 3 là các đại lý thu mua hàng từ thương
lái, vận chuyển thảo quả bán cho các cơ sở chế biến
hay tiêu dùng lẻ. Nhóm đại lý này có nhiều cấp độ
khác nhau và không nhất thiết phải luân chuyển
thảo quả lần lượt qua các nhóm. Nhóm thứ 4 là các
cơ sở sử dụng, chế biến thảo quả, và các điểm bán
lẻ thảo quả khô, đây là những quán ăn sử dụng thảo
quả làm gia vị, những cơ sở sản xuất dược liệu hay
các cửa hàng thuốc Nam. Nhóm cuối cùng là người
tiêu dùng.
4.3.2. Người thu gom thảo quả
Trước đây, các thương lái người Hoa đi đến các
bản để thu mua thảo quả của người dân, hoặc họ
đến thị xã Sa Pa lập điểm thu mua rồi gom hàng từ
các thương lái là người Kinh và người Giáy đi thu
gom từ các bản về. Sau đó họ thuê vận chuyển sang
Trung Quốc. Hiện nay, vai trò thu gom thảo quả ở
các bản chủ yếu do người Kinh đảm nhiệm. Có ít
nhất 3 điểm lớn ở thị xã Sa Pa chuyên thu gom thảo
quả của người Dao. Đến mùa thảo quả, họ đi về các
bản để thu mua rồi chuyển về Sa Pa để sấy khô, sau
đó chuyển đi bán. Ở các xã có diện tích trồng thảo
quả lớn, thường có những người Kinh làm đầu mối
thu gom ngay ở xã. Đa phần họ làm việc này lâu
năm và có mối quan hệ tốt với người dân. Họ thu
gom thảo quả rồi bán cho những điểm thu gom lớn
hơn ở thị xã Sa Pa. Những năm khan hiếm thảo quả,
những người thu gom còn đến gặp các hộ gia đình
có nhiều diện tích trồng thảo quả để đặt tiền trước
và khi thu hoạch họ nhận thảo quả luôn. Do hợp tác
với nhau lâu năm nên người ta tạo được niềm tin với
nhau. Vậy nên rất hiếm khi có những gia đình mang
thảo quả đi ra thị xã Sa Pa hay xuống thành phố
Lào Cai bán cho các đại lý lớn. Nhưng những người
thu gom thì khác, bởi ở góc độ nào đó họ cũng như
một đại lý nhỏ, và nhiều khi họ thu gom được nhiều
hàng thì sấy khô và đem bán cho các đại lý lớn mà
không qua đại lý trung gian ở thị xã Sa Pa. Ở xã Tả
Phìn là một minh chứng.
Việc thu gom thảo quả ở xã Tả Phìn do một phụ
nữ người Kinh gốc Nam Định lên đây thực hiện.
Người này có hơn 30 năm thu gom thảo quả bán
cho các đại lý. Khi mới lên thị xã Sa Pa thì đi thu
mua trong các bản rồi về bán cho đại lý ở thị trấn.
Từ đầu năm 2000, thấy xã Tả Phìn thuận lợi để phát
triển nên vào mua đất làm nhà để thu mua thảo quả
và làm nhiều dịch vụ khác. Nhà ngay mặt đường
chính của xã nên người dân thu hoạch về là chở đến
bán. Đến mùa người này phải thuê thêm một người
giúp việc để cân và ghi sổ sách. Hơn 20 năm sinh
sống trong xã và thu mua thảo quả, nên tạo được
lòng tin và mối quan hệ chặt chẽ, bà trở thành đầu
mối duy nhất tập trung thảo quả khu vực này. Sau
khi thu mua quả tươi, tiến hành sấy khô bằng lò lớn,
đốt củi gỗ (phải mua) và trấu (có sẵn do nhà làm
xay xát lúa). Mỗi lần sấy được một tấn quả tươi. Sự
thay đổi trọng lượng trong quá trình sấy tuỳ thuộc
vào chất lượng quả. Những quả to, già thì hao hụt ít,
còn quả nhỏ, non thì hao hụt nhiều. Nhưng thường
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
137Volume 9, Issue 4
6-8 cân tươi mới sấy được một cân khô. Sau đó bà
chuyển xuống bán cho đại lý thảo quả ở thành phố
Lào Cai. Mỗi năm người này thu gom và bán từ
20-25 tấn thảo quả khô cho các đại lý ở thành phố
Lào Cai.
4.3.3. Các đại lý thu mua, tập trung thảo quả
Là các điểm tập kết hàng hoá từ những người
thu gom thảo quả, nên đại lý có nhiều cấp khác nhau
và không hẳn lúc nào cũng luân chuyển hàng hoá
theo cấp từ nhỏ đến lớn. Có những đại lý nhỏ tập
hợp thảo quả từ những thương lái thu gom trong bản
ra, rồi bán cho đại lý lớn hơn. Như trường hợp 3 đại
lý ở thị xã Sa Pa thường tập trung hàng hoá của 10-
15 thương lái. Họ thu gom rồi sấy khô và chở xuống
bán cho đại lý lớn hơn ở thành phố Lào Cai. Cũng
có những người trực tiếp thu gom từ người dân mà
không qua các thương lái, cũng là một đại lý như
trường hợp ở xã Tả Phìn. Và đại lý như họ ở thị xã
Sa Pa cũng khá nhiều do mấy năm gần đây, đường
sá đi lại vận chuyển dễ dàng hơn nên việc chuyển
5-10 tấn hàng ra thành phố Lào Cai không quá khó.
Ở thành phố Lào Cai, có những đại lý lớn gom hàng
trong cả tỉnh, thậm chí ở các tỉnh khác về để chuyển
sang bán cho các đại lý lớn hơn bên Trung Quốc.
Thường thì những đại lý lớn này sẽ trao đổi với
thương nhân phía Trung Quốc để thống nhất lượng
hàng cũng như giá cả. Sau đó họ về gom hàng và
làm các thủ tục xuất khẩu qua biên giới. Tuy nhiên,
cũng có những đại lý lớn hơn ở Hà Nội thu mua
hàng hoá của các đại lý ở thành phố Lào Cai để đem
bán cho các khu chế xuất dược liệu hay xuất khẩu.
Như vậy, chỉ tính chuỗi hàng hoá thảo quả ở Việt
Nam cũng có thể thấy có một số cấp đại lý khác
nhau: (i). Đại lý nhỏ thu gom trực tiếp từ người dân
và bán cho đại lý vừa hoặc bán cho đại lý lớn ở
thành phố Lào Cai; (ii). Đại lý vừa thu gom từ các
thương lái và các đại lý nhỏ và đem bán cho các đại
lý lớn ở thành phố Lào Cai; (iii). Đại lý lớn ở thành
phố Lào Cai thu gom từ các đại lý nhỏ ở nhiều nơi
rồi bán cho các doanh nghiệp, đại lý lớn hơn ở Hà
Nội hoặc Trung Quốc; (iv). Các đại lý hoặc công
ty ở Hà Nội thu mua từ nhiều nơi, cung cấp cho
các cơ sở chế biến dược liệu hoặc xuất khẩu. Tuy
nhiên, như đã nói, đây không phải là phân cấp đại
lý của một doanh nghiệp, chỉ đơn thuần là để xem
xét mối quan hệ với người dân trồng thảo quả qua
những bước trung gian nào. Còn lại sự phân cấp này
không có giá trị trong việc luân chuyển hàng hoá vì
người ta có thể bán cho đại lý nào tuỳ vào sự thoả
thuận. Thậm chí, người dân cũng có thể mang thảo
quả đến bán trực tiếp cho các đại lý lớn nếu họ có
khối lượng lớn.
4.3.4. Cơ sở chế biến và sử dụng thảo quả
Đây là những sơ sở mua thảo quả từ các đại lý
về chế biến thành dược liệu hoặc sử dụng làm gia
vị trong chế biến ẩm thực. Trong chế biến dược
liệu, hàng loạt loại thuốc cần đến thảo quả nên nó
trở thành nguyên liệu quan trọng cho ngành công
nghiệp chế biến dược liệu ở các thành phố lớn và ở
nhiều nước trên thế giới. Thảo quả là một vị thuốc
quan trọng trong các bài thuốc Nam và ngành Đông
y cũng sử dụng với nhiều giá trị khác nhau. Hàng
loạt cửa hàng bán thuốc đều sử dụng thảo quả, cũng
là các cơ sở bán lẻ thảo quả. Trong ẩm thực, phở là
món không thể thiếu thảo quả. Bên cạnh đó, một số
ngành công nghiệp chế biến bánh kẹo cũng sử dụng
loại hương liệu này. Như vậy, hệ thống cơ sở chế
biến và sử dụng thảo quả khá đa dạng. Họ có thể
mua thảo quả từ các đại lý lớn, cũng có thể đi mua ở
các đại lý trung gian nhỏ hay trực tiếp lên mua của
người dân về sử dụng.
4.3.5. Người tiêu dùng thảo quả
Đứng cuối cùng trong chuỗi hàng hoá là người
tiêu dùng các sản phẩm liên quan đến thảo quả. Số
lượng người tiêu dung thảo quả rất lớn, là những
người dùng thuốc để chữa bệnh, ăn phở, ăn bánh
kẹo có sử dụng thảo quả. Dù có thể họ nhận biết
được hoặc không nhưng họ có tham gia vào chuỗi
hàng hoá này vì phải thanh toán một khoản tiền để
sử dụng các sản phẩm liên quan đến thảo quả.
4.3.6. Giá cả và lợi ích trong chuỗi hàng hoá
thảo quả
Giá cả của thảo quả trên thị trường biến động
liên tục. Như Claire Tugault-Lafleur và Sarad
Turner (2009, pp.397) cho biết thì năm 2008, giá
thảo quả người Mông (và các cộng đồng khác như
người Dao) bán cho thương lái tại Sa Pa là 3,75
USD/kg, thì được bán lại ở Mỹ hoặc Canada là 20-
24 USD/kg, có trường hợp một cửa hàng bán lẻ ở
Canada đã đội giá lên đến 220 USD/kg. Trong quá
trình phân phối của mạng lưới thương mại thảo quả,
người Dao (và cả người Mông) gần như không có
vai trò trong việc quyết định giá cả. Theo các chủ
đại lý thu gom, phân phối thảo quả thì giá cả thường
được những doanh nghiệp lớn ở Trung Quốc định
ra theo biến động trên thị trường thế giới. Chủ một
đại lý lớn ở thành phố Lào Cai cho biết “Khi doanh
nghiệp bên Trung Quốc qua đặt hàng, ví dụ 50 tấn
hay 100 tấn thì họ cũng định giá luôn. Từ đó mình
áp giá cho các đại lý nhỏ khác để họ thu gom. Các
đại lý nhỏ lại theo đó mà áp giá cho những người
đi thu gom thảo quả ở các bản. Và những người
này lại áp giá mua thảo quả của người dân. Cứ qua
mỗi khâu trung gian như vậy thì giá thảo quả giảm
xuống 1-2 giá. Đến người dân bán là giá thấp nhất”
(Đàn ông, người Kinh, ở thành phố Lào Cai, phỏng
vấn ngày 14/10/2020).
Nói vậy không có nghĩa là từ đầu mùa giá cả
không thay đổi. Mà ngược lại, giá cả có thể thay
đổi theo ngày, thậm chí trong ngày. Điều đó yêu cầu
những người thu mua phải liên hệ với các đại lý lớn
để nắm được giá cả sao cho hợp lý. Còn với người
dân, họ thu hoạch về thì bán lại cho những đại lý
nhỏ hoặc người thu gom. Trường hợp nếu giá lúc đó
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
138 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
thấp quá thì họ mang về để hôm sau bán. Cũng có
những gia đình biết liên lạc nhiều nơi để tham khảo
giá cả khi mà họ có lượng thảo quả lớn nhằm tìm
kiếm nguồn thu nhập cao hơn từ việc bán số thảo
quả đó. Đa phần những người thu mua thảo quả có
quan hệ khá thân với những người trồng thảo quả
cũng cố gắng chia sẻ về giá cả với người dân sao
cho hợp lý. Hầu hết, họ đều đi theo giá chung của
thị trường và được biết các thông tin từ mạng lưới
thương mại thảo quả mà họ tham gia. Khi giá cả
thay đổi thì người thu mua cũng cho người dân đến
bán thảo quả biết để họ lựa chọn bán hay mang về.
Giá cả thường hay biến động, lợi ích của những
người tham gia vào mạng lưới thương mại thảo quả
cũng khác nhau. Những người Dao sản xuất thảo
quả nhận được khoản tiền bán sản phẩm của mình.
Có thể so với công sức họ bỏ ra thì thế là ít trong khi
những người làm trung gian trong chuỗi hàng hoá
nhận được nhiều hơn dù bỏ công sức ít hơn. Nhưng
điều đó cũng không quá phi lý trong nền kinh tế thị
trường bởi họ cũng phải đầu tư vào những nguồn
vốn khác. Còn với người dân, trước đây thảo quả là
nguồn thu từ tự nhiên, giờ phải đầu tư trồng và chăm
bón, kiểm tra, bảo vệ. Nhưng trong bối cảnh sinh kế
của họ còn chưa thật sự đa dạng, các nguồn vốn còn
hạn chế thì thu nhập từ thảo quả như vậy cũng là
một nguồn thu quan trọng. Và càng ngày, khi các
nguồn vốn của người dân được nâng cao, họ biết
cách tiếp cận thị trường thì sẽ có những thay đổi, ít
nhất là trong mối quan hệ giữa họ và những người
trung gian thu gom thảo quả. Và thực tế, đã có một
số người tự thu gom thảo quả của gia đình mình và
anh em thân thiết lại chở đi nhập cho các đại lý lớn
hơn để được nhận thêm vài giá mà nếu bán ở ngay
bản họ sẽ không được hưởng. Còn với những người
trung gian, họ làm đại lý thu mua rồi đi bán lại cho
đại lý lớn hơn với sự chênh lệch khoảng 3-5 ngàn
đồng/kg thảo quả khô. Họ có vốn nên có thể buôn
bán hàng chục tấn một năm khiến thu nhập của họ
cũng cao hơn. Các đại lý lớn cũng vậy. Đó cũng là
lý do làm cho giá cả từ người sản xuất đến người
tiêu dùng thảo quả chênh lệch nhau nhiều lần.
5. Thảo luận
Người Dao ở thị xã Sa Pa từ sớm đã biết vận
dụng các nguồn vốn văn hoá của mình vào phát
triển thị trường thảo quả ở miền núi Tây Bắc. Và
càng ngày, các mạng lưới xã hội càng có vai trò
quan trọng trong việc phát triển thị trường hương
liệu. Họ vận hành các mạng lưới cả nội tại lẫn ngoại
tại, cả chủ quan lẫn khách quan vào quá trình sản
xuất và lưu thông thảo quả. Tuy nhiên, nhiều vấn
đề quan trọng vẫn chưa thể giải quyết và nguy cơ
diễn ra những xung đột vẫn luôn hiện hữu khi lợi
ích giữa các bên liên quan vẫn chưa được đảm bảo.
Mạng lưới thương mại thảo quả của người Dao
thể hiện chuỗi hàng hoá thảo quả khá phức tạp, với
nhiều đối tượng tham gia và trong một không gian
rộng lớn không chỉ ở vùng Tây Bắc mà còn rộng ra
miền xuôi, xuyên biên giới và đến nhiều nước khác
nhau. Vậy nên, phân tích mạng lưới xã hội trong
một không gian xã hội liên quan đến thương mại
thảo quả là điều quan trọng và có nhiều giá trị khoa
học cũng như thực tiễn. Bởi sự phân tích này cho
thấy vai trò của những nhóm tham gia vào mạng
lưới thương mại này là gì và nó ảnh hưởng như thế
nào đến hoạt động của cả mạng lưới thương mại đó.
Phân tích vốn văn hoá trong một không gian xã hội
nhất định cũng cho chúng ta rõ hơn về ảnh hưởng
của các nguồn vốn văn hoá vào phát triển kinh tế -
xã hội là như thế nào.
Qua những phân tích trên chúng ta cũng đặt ra
câu hỏi về vai trò của thảo quả đối với người Dao
trong tương lai sẽ như thế nào? Thảo quả là loại cây
hương liệu có giá trị kinh tế cao trong đời sống của
người Dao ở thị xã Sa Pa. Họ trồng nhiều thảo quả
trên nương và đến mùa thu hoạch thì mang về bán
cho các thương lái hay các đại lý. Nguồn thu nhập
từ thảo quả là nguồn tiền mặt quan trọng giúp họ
giải quyết được nhiều vấn đề trong gia đình. Nhưng
càng ngày, vai trò của thảo quả cũng giảm dần do
trồng thảo quả ngày càng hạn chế hơn vì diện tích
đất rừng không còn nhiều, nhất là rừng già, vốn là
nơi thuận lợi cho trồng thảo quả ngày càng giảm
xuống. Hơn nữa, khí hậu thay đổi làm ảnh hưởng
đến việc trồng thảo quả. Những đợt lạnh kéo dài,
tạo ra băng tuyết hay những đợt nắng nóng gay gắt
đều làm thảo quả chết, hư hại và ít quả, chất lượng
quả kém. Bên cạnh đó, sinh kế người Dao ở đây
cũng ngày càng được đa dạng. Người dân có nhiều
việc khác để kiếm ra nguồn tiền mặt hơn nên vị thế
của thảo quả cũng suy giảm.
6. Kết luận
Người Dao ở thị xã Sa Pa sản xuất và buôn bán
thảo quả từ rất sớm và thảo quả trở thành một phần
lịch sử trong hoạt động kinh tế của cộng đồng này.
Trong gần một thập kỷ qua, điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội có nhiều thay đổi kinh tế thảo quả
cũng gặp nhiều khó khăn, lúc thì mất mùa, lúc giảm
giá và thường xuyên bị ép giá từ phía thương nhân
Trung Quốc. Tuy nhiên, dù thay đổi thế nào thì thảo
quả vẫn có vai trò nhất định trong nền kinh tế người
Dao ở đây. Họ không ngừng mở rộng mạng lưới xã
hội, phát huy vốn văn hoá vào quá trình phát triển
thị trường thảo quả. Những nỗ lực đó, có lúc đã đạt
được nhiều kết quả đáng kể. Nhưng vì nhiều hạn
chế trong hầu hết các nguồn vốn nên sự phát triển
thị trường thảo quả của người Dao cũng gặp nhiều
khó khăn. Vậy nên, trong thời gian tới, để người
Dao tham gia chủ động và hiệu quả hơn vào mạng
lưới thương mại thảo quả cần có những biện pháp
để nâng cao nguồn vốn văn hoá cũng như phát huy
các nguồn vốn khác cho người Dao nhằm giúp họ
có vị thế quan trọng trong mạng lưới thương mại
thảo quả./.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
139Volume 9, Issue 4
Tài liệu tham khảo
Bonnin, C., & Turner, S. (2011). Livelihood
Vulnerability and Food Security among
Upland Ethnic Minorities in Northern
Vietnam. Kasarinlan: Philippine Journal of
Third World Studies, 26(1–2), pp.324-340.
Hồng, Q. (2018). Thoát nghèo nhờ trồng sa nhân
tím. Báo Nhân dân điện tử, cập nhật ngày
29/5/2018. https://nhandan.org.vn/dan-toc-
mien-nui/thoat-ngheo-nho-trong-sa-nhan-
tim-325613/
Michaud, J., & Turner, S. (2016). Tonkin’s
uplands at the turn of the 20th century:
Colonial military enclosure and local
livelihood effects. Asia Pacific Viewpoint,
57(2), pp.154-167.
Nam, H. (1998). Nghề trồng quế của người Dao
ở Văn Yên (Yên Bái). Trong Sự phát triển
văn hoá xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai (p. tr.208-213). Hà Nội: Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia.
Tình, V. X. (2019). Các dân tộc ở Việt Nam, tập
4, Nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao và Tạng-
Miến (Chủ biên). Hà Nội: Nxb. Chính trị
quốc gia.
Tugault-Lafleur, C., & Turner, S. (2009). The
price of spice: Ethnic minority livelihoods
and cardamom commodity chains in upland
northern Vietnam. Singapore Journal of
Tropical Geography, 30, pp.388-403.
Turner, S. (2012). Forever Hmong”: Ethnic
Minority Livelihoods and Agrarian
Transition in Upland Northern Vietnam. The
Professional Geographer, 64(4), pp.540-
553.
Turner, S. (2017). A Fortuitous Frontier
Opportunity Cardamom Livelihoods in
the SinoVietnamese Borderlands. In D. S.
Yü & J. Michaud (Eds.), Trans-Himalayan
Borderlands. Livelihoods, Territorialities,
Modernities (p. pp.263-283). Amsterdam:
Amsterdam University Press.
Turner, S., & Michaud, J. (2016). Sinh kế nơi
biên cương: Sự thích ứng của người Hmông
ở vùng biên giới Việt-Trung. Trong N. V.
Sửu, L. B. Nam, V. X. Tình, & N. V. Huy
(Eds.), Nhân học ở Việt Nam: Lịch sử, hiện
trạng và triển vọng (tr.315-333). Hà Nội:
Nxb. Tri thức.
CULTURAL CAPITAL IN DEVELOPING THE CARDAMOM
MARKET OF DAO PEOPLE IN SA PA TOWN, LAO CAI PROVINCE
Bui Minh Hao
University of Social Sciences and Humanities,
Vietnam National University, Hanoi
Email: buihao261@gmail.com
Received: 24/10/2020
Reviewed: 05/11/2020
Revised: 08/11/2020
Accepted: 09/11/2020
Released: 20/11/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/479
Abtract
Cardamom is a special flavoring with a high economic
value and a large market. Cardamom was planted by the
Dao people in Sa Pa for a long time in history and soon
played an important role in their economy. In the current
market economic development, cardamom also holds a
significant position. The Dao people in Sa Pa have applied
their cultural capital effectively in the process of developing
the flavoring market. From the analysis of social networks,
cardamom commodity chains and people's efforts in market
development, the paper examines the Dao people in Sa Pa
applying cultural capital to economic development.
Keywords
Cultural capital; Dao people in Sa Pa; Cardamom;
Flavoring market; Chain of goods.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- von_van_hoa_trong_phat_trien_thi_truong_thao_qua_cua_nguoi_d.pdf