Trong nghiên cứu này, tỷ lệ tăng tự nhiên (rm)
của NBM N. californicus khi nuôi bằng các loài
nhện hại như nhện đỏ nâu chè là 0,20; bằng
nhện đỏ son là 0,27; bằng nhện đỏ tươi là 0,20 là
xấp xỉ bằng nghiên cứu của Canlas et al. (2006)
(rm=0,209) và Vasconcelos (2006) (rm = 0,26) khi
nuôi bằng nhện đỏ hai chấm, của Taj and Jung
(2012) (rm = 0,25) khi nuôi bằng nhện đỏ táo
P. ulmi; và cao hơn rất nhiều khi nuôi bằng trứng,
giai đoạn trước trưởng thành và nhện cái trưởng
thành của nhện đỏ cam chanh P. citri lần lượt là
0,092; 0,149 và 0,042.
Khi nuôi bằng bọ trĩ T. dorsalis trong nghiên
cứu này chúng có rm là 0,130 cao hơn rất nhiều
so với nghiên cứu của (Rahmani et al. (2009) (rm
= 0,041) khi nuôi bằng bọ trĩ T. tabaci.
Khi nuôi bằng phấn hoa Typha trong nghiên
cứu này, NBM N. californicus có tỷ lệ tăng tự
nhiên rm là 0,11 thấp hơn so với nghiên cứu của
Rezaie (2017) khi nuôi bằng hỗn hợp phấn hoa
cây óc chó + trứng của nhện đỏ hai chấm
T. urticae (rm = 0,141), phấn hoa ngô + trứng của
nhện đỏ hai chấm T. urticae (rm = 0,152) và phấn
hoa (Date Pollen) + trứng của nhện đỏ hai chấm
T. urticae (rm = 0,201); Marafeli et. al. (2014) khi
nuôi bằng phấn hoa của cây thầu dầu (rm = 0,17).
Như vậy, loài nhện bắt mồi N. californicus
phát triển bình thường trên các loại thức ăn là
nhện hại, bọ trĩ và phấn hoa do đó chúng thuộc
Nhóm II về phổ thức ăn. Đối với thức ăn là các
loài sâu và nhện hại chủ yếu trên cây chè (bọ trĩ,
nhện đỏ nâu, nhện đỏ tươi) chúng có thể gia
tăng quần thể khá tốt, do đó có thể nghiên cứu
để sử dụng chúng trong phòng chống sinh học
các loài sâu hại này trên cây chè.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Võng đời và tỷ lệ tăng tự nhiên của loài nhện bắt mồi neoseiulus californicus mcgregor (Acari: Phytoseiidae) nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau ở điều kiện phòng thí nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
26
VÕNG ĐỜI VÀ TỶ LỆ TĂNG TỰ NHIÊN CỦA LOÀI NHỆN BẮT MỒI Neoseiulus
californicus McGregor (ACARI: PHYTOSEIIDAE) NUÔI BẰNG CÁC LOẠI THỨC
ĂN KHÁC NHAU Ở ĐIỀU KIỆN PHÕNG THÍ NGHIỆM
Life CPycle and Intrinsic Rate of Natural Increase of The Predatory Mite
Neoseiulus californicus McGregor (Acari: Phytoseiidae) Rearing on Different
Foods under Laboratory Conditions
Trần Thị Thuần
1
, Lê Thị Thảo
2
, Lƣơng Thị Huyền
3
, Cao Văn Chí
3
, Nguyễn Đức Tùng
2
,
Nguyễn Văn Liêm
4
và Nguyễn Văn Đĩnh
2
Ngày nhận bài: 24.07.2019 Ngày chấp nhận: 05.8.2019
Abstract
The experiment on influences of different foods on the intrinsic rates of natural increase of the predatory mite
Neoseiulus californicus McGregor was conducted at the laboratory of Entomology Department, Viet Nam National
University of Agriculture. The foods consisted of Tea red spider mite Oligonychus coffeae, Carmine spider mite
Tetranychus cinnabarinus, Scarlet mite Brevipalpus phoenicis, thrips Scirtothrips dorsalis and pollen Typha
latifolia.
The results showed that, at 27.5±1
o
C, 75±5% RH, the predatory mite N. californicus developed well on
different foods tested. The life cycle of predatory mite N. californicus was shortest when fed on T. cinnabarinus
(4.28 days), follows by those on O. coffeae (5.11 days), S. dorsalis (5.28 days), B. phoenicis (5.37 days) and was
longest when fed on pollen Typha (6.74 days). Total of eggs laid by the predatory mite N. californicus fed on O.
coffeae was 15.93 eggs/female, on T. cinnabarinus was 30.9 eggs/female, on B. phoenicis was 12.67 eggs/female,
on S. dorsalis was 9.00 eggs/female and on pollen Typha was 6.32 eggs/female. The intrinsic rate of increase (rm)
of the predatory mite on T. cinnabarinus was 0.27, follows by those on both O. coffeae and B. phoenicis was 0.20,
on S. dorsalis was 0.13 and on pollen Typha was 0.11.
Keywords: Foods, Predatory mite Neoseiulus californicus, the intrinsic rate of natural increase
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Cây chè là một cây cho sản phẩm thu hoạch
là búp non, cho nên để đảm bảo năng suất và
chất lượng chè thì búp non phải không bị sâu
bệnh gây hại. Tuy nhiên, trên cây chè có rất nhiều
sinh vật gây hại như nhện đỏ nâu chè, bọ trĩ, rầy
xanh, bọ xít muỗi hại chè, đều xuất hiện ở mức
độ trên 50% (Phạm Văn Lầm, 2013; Vũ Thị
Phương, 2018). Trong thực tế, lượng thuốc bảo
vệ thực vật trên chè ở nước ta hiện nay đang sử
dụng khá nhiều thậm chí còn bị lạm dụng. Do đó,
biện pháp sinh học trong đó việc sử dụng các loài
thiên địch để phòng chống sinh vật gây hại trên
chè là hướng ưu tiên nghiên cứu áp dụng.
Nhện bắt mồi N. californicus thuộc họ
Phytoseiidae, phân bố ở các nước như Mỹ (bang
Taxas), Mexico, Braxin, Guatemala, Peru,
1. NCS Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
2. Học viện Nông nghiệp Việt Nam
3. Trung tâm Nghiên cứu và phát triển Cây có múi
4. Viện Bảo vệ thực vật
Email: ttthuan.clc@gmail.com
Argentina, Chile, Cuba, Colombia, Nhật Bản, Đài
Loan, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp và Tây Ban Nha
(Moraes et al. 2004).
Trong nghiên cứu nhân nuôi số lượng lớn loài
nhện bắt mồi N. californicus, việc đánh giá ảnh
hưởng của các loại thức ăn đến các đặc điểm
sinh học của loài nhện bắt mồi này là rất quan
trọng. Trên thế giới, nhện bắt mồi N. californicus
đã được nghiên cứu nuôi bằng các loại thức ăn
là các loài nhện đỏ hại cây trồng như nhện đỏ hại
táo Panonychus ulmi (Taj and Jung, 2012), nhện
đỏ hai chấm Tetranychus urticae (Canlas et al.,
2006; Vasconcelos, 2006; Gotoh et al., 2004;
Rahmani et al., 2009), nhện đỏ cam chanh
Panonychus citri (Ebrahim et. al., 2014), bọ trĩ
Thrips tabaci (Rahmani, 2009) và phấn hoa
(Rezaie, 2017). Tuy nhiên, ở nước ta các nghiên
cứu này còn rất ít ỏi.
Bài bào này giới thiệu đến các bạn đọc kết
quả nghiên cứu về ảnh hưởng của các loại thức
ăn khác nhau đến tỷ lệ tăng tự nhiên của nhện
bắt mồi N. californicus McGregor ở điều kiện
phòng thí nghiệm.
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
27
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu nghiên cứu
Nhện bắt mồi Neoseiulus californicus; Các
loài nhện đỏ nâu chè Oligonychus coffeae, nhện
đỏ son Tetranychus cinnabarinus, nhện đỏ tươi
Brevipalpus phoenicis, bọ trĩ Scirtothrips dorsalis
và phấn hoa Typha latifolia sử dụng làm thức ăn
cho nhện bắt mồi N. californicus.
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Nhân nuôi nguồn nhện nhỏ bắt mồi N.
californicus
Trồng cây Ba bét (Mallotus sp.) trong nhà
lưới cách ly côn trùng với kích thước
15mx14m, nhà lưới được cách ly xung quanh
bằng lưới nhỏ 1mm x 1mm. Không sử dụng
bất kỳ loại thuốc bảo vệ thực vật nào trên cây
Ba bét. Cắt lá ba bét bánh tẻ (kích thước 10 x
15 cm) đặt lên miếng xốp (kích thước 22 x 14
x 3 cm) trong khay nhựa (kích thước 30 x 20 x
4 cm) được cách ly bằng một lớp nước. Sau
đó thả 100 cá thể nhện đỏ son T.cinnabarinus
lên trên lá Ba bét, khi nhện đỏ son phát triển
nhiều sử dụng làm thức ăn nuôi nguồn loài N.
californicus. Khay nuôi nhện thức ăn và cả
nhện bắt mồi được đặt trên giá inox
(1mx0,6mx1,2m) riêng biệt, bốn chân đặt
trong các khay nước nhỏ để cách ly (Huyen et
al., 2017).
2.2.2. Nghiên cứu sự phát triển và tỷ lệ tăng
tự nhiên của loài N. californicus
Nghiên cứu sự phát triển và tỷ lệ tăng tự
nhiên theo phương pháp nuôi cá thể trong điều
kiện ổn định về môi trường và thức ăn, không
gian là không hạn chế (Birch, 1948).
Điều kiện thí nghiệm: nhiệt độ 27,5±1
o
C, ẩm
độ 75±5%.
Nguồn thức ăn: Nhện đỏ nâu chè O. coffeae,
nhện đỏ son T. cinnabarinus, nhện đỏ tươi B.
phoenicis, bọ trĩ S. dorsalis và phấn hoa Typha
latifolia.
Nuôi cá thể được tiến hành từ trứng đến khi
nhện bắt mồi (NBM) N. californicus cái chết sinh
lý bằng lồng Munger cải tiến.
Lồng Munger cải tiến gồm 6 lớp, kích thước
các lớp bằng nhau là 4cm x 4cm. Lớp trên cùng
là tấm nhựa màu trắng được khoét lỗ với đường
kính 2,0 cm, cao 0,2 cm phía trên được dán nilon
trong có 15 lỗ thủng bằng kim côn trùng, tiếp
theo là tấm nhựa màu đen được khoét lỗ với
đường kính 2,0 cm, chiều cao 0,6 cm; lớp thứ 4
là lá chè bánh tẻ; lớp thứ 5 là giấy thấm và lớp
cuối cùng là tấm nhựa màu đen dầy 0,2 cm.
Trước khi thí nghiệm 8 giờ đặt một đoạn chỉ
màu đen vào đảo nuôi NBM N. californicus. Sau
8 giờ nhấc sợi chỉ để thu trứng nhện bắt mồi dính
vào sợi chỉ, rồi chuyển từng trứng nhện bắt mồi
vào trong lồng Munger cải tiến có sẵn từ 3-5
trưởng thành cái của một trong các loài vật mồi
O. coffeae, T. cinnabarinus, B. phoenicis,
S. dorsalis hoặc một lượng nhỏ phấn hoa Typha.
Hàng ngày theo dõi dưới kính lúp 1 lần để xác
định trứng nở, sự chuyển tuổi nhờ xác lột, tỷ lệ
sống sót, đồng thời bổ sung thức ăn. Sau 3 ngày
thay lồng nuôi mới. Khi nhện bắt mồi chuyển
sang tuổi 3 lựa chọn các cá thể đực và cái ở các
lồng nuôi để cho ghép đôi ở một lồng nuôi (mỗi
lồng một cặp). Hàng ngày chuyển hết toàn bộ
trứng đẻ ra ngoài lồng nuôi để tránh ảnh hưởng
của mật độ trứng đến sức sinh sản và nuôi riêng
rẽ mỗi trứng trong 1 lồng cho đến khi con cái thế
hệ sau đẻ quả trứng đầu tiên.
Chỉ tiêu theo dõi gồm: ngày trứng nở, ngày lột
xác qua các tuổi, ngày đẻ quả trứng đầu tiên, số
trứng đẻ trong 1 ngày, ngày chết sinh lý.
Thí nghiệm được bố trí mỗi loại thức ăn được
sử dụng để nuôi riêng rẽ từng cá thể nhện bắt
mồi N. californicus từ đến khi trưởng thành chết
sinh lý từ 60 trứng nguồn ban đầu, mỗi cá thể là
một lần nhắc lại và theo dõi số cá thể cái của thế
hệ sau.
Từ các số liệu thí nghiệm sẽ lập được bảng
sống của nhện bắt mồi, từ đó xác định được các
chỉ tiêu sinh học cơ bản của nhện bắt mồi bao
gồm tỷ lệ tăng tự nhiên (rm), hệ số nhân trong
một thế hệ (Ro), thời gian của một thế hệ (T) và
thời gian nhân đôi quần thể (DT) trên từng loại
thức ăn.
2.2.3. Phương pháp tính toán và xử lý số liệu
dN
- Tỷ lệ tăng tự nhiên (rm): rm = --------
N.dt
Trong đó: dN: số lượng chủng quần gia tăng
trong thời gian dt.
N: số lượng chủng quần ban đầu.
- Hệ số nhân của một thế hệ (Ro): Ro = ∑lx.mx
Trong đó: lx: tỷ lệ sống của các tuổi x
mx: sức sinh sản.
- Thời gian của một thế hệ: T = ∑x.lx.mx.e
-rx
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
28
Trong đó: T: Tuổi trung bình của mẹ khi đẻ
con, tính theo con.
- Thời gian nhân đôi quần thể (DT):
DT = ln(2)/rm
Sử dụng Microsoft Exel để tính toán các chỉ
số sinh học, so sánh các thông số về ảnh hưởng
của các loại thức ăn đến NBM được xử lý
ANOVA và phần mềm SPSS 20 để so sánh và
phân tích.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Thời gian các pha phát dục trƣớc
trƣởng thành của nhện cái NBM
N. californicus khi nuôi bằng các loại thức
khác nhau
Thời gian các pha phát dục của nhện cái
NBM N. californicus nuôi bằng các loại thức ăn
gồm: nhện đỏ nâu chè O. coffeae, nhện đỏ son
T. cinnabarinus, nhện đỏ tươi B. phoenicis, bọ trĩ
T. dorsalis và phấn hoa Typha được trình bày ở
bảng 1.
Bảng 1. Thời gian các pha phát dục của nhện cái loài Neoseiulus californicus
nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau (27,5 ± 1
o
C, 75±5%)
Thức ăn n
Thời gian phát dục (TB±SE) (ngày)
Trứng
Nhện non
tuổi 1
Nhện non
tuổi 2
Nhện non
tuổi 3
Trước trưởng
thành
Nhện đỏ nâu chè
(O. coffeae)
28 0,29±0,09
a
1,02±0,04
c
0,98±0,02
b
1,00±0,00
a
3,29±0,09
b
Nhện đỏ son
(T.cinnabarinus)
29 0,59±0,09
c
0,79±0,05
a
0,79±0,07
a
0,93±0,05
a
3,10±0,08
ab
Nhện đỏ tươi
(B. phoenicis)
30 0,30±0,09
ab
0,93±0,03
ab
0,8±0,07
ab
0,93±0,05
a
2,97±0,10
a
Bọ trĩ
(S. dorsalis)
25 1,28±0,11
d
1,00±0,05
b
1,00±0,08
c
0,96±0,04
a
4,24±0,20
d
Phấn hoa
Typha
34 0,56±0,10
b
1,04±0,04
d
1,16±0,07
d
0,85±0,06
a
3,62±0,11
c
F/ χ2 41,166 23,931 23,704 6,680 55,906
Df 4 4 4 4 4
P <0,001 <0,001 <0,001 0,154 <0,001
Ghi chú: n là số cá thể theo dõi; Các chữ giống nhau trong cùng một cột biểu diễn sự sai khác
không rõ rệt ở mức P > 0,05 với kiểm định Mann-Whitney; χ2-, Z-, và P- là giá trị của kiểm định Mann-
Whitney cho mẫu phân bố không chuẩn.
Kết quả bảng 1 cho thấy khi nuôi bằng các loại
thức ăn khác nhau, NBM N. californicus có thời
gian trước trưởng thành dài nhất là 4,24 ngày khi
nuôi bằng bọ trĩ hại chè, sau đó là đến khi nuôi
bằng phấn hoa là 3,62 ngày, nhện đỏ nâu chè là
3,29 ngày, nhện đỏ son là 3,10 ngày và ngắn nhất
là nuôi bằng nhện đỏ tươi là 2,97 ngày.
3.2 Các chỉ tiêu sinh sản của nhện cái NBM
N. californicus khi nuôi bằng các loại thức ăn
khác nhau
Các chỉ tiêu sinh sản của nhện cái NBM N.
californicus được trình bày ở bảng 2.
Thời gian đẻ trứng của nhện bắt mồi N.
californicus khi nuôi bằng nhện đỏ nâu chè là
18,36 ngày và số trứng đẻ được là 15,93 quả, số
trứng đẻ trung bình trong ngày 0,87 quả/ngày.
Tương ứng, khi nuôi bằng nhện đỏ son là 18,62
ngày và số trứng đẻ được là 30,9 quả, số trứng
đẻ trung bình trong ngày 1,67 quả/ngày; khi nuôi
bằng nhện đỏ tươi là 15,47 ngày và số trứng đẻ
được là 12,67 quả, số trứng đẻ trung bình trong
ngày 0,83 quả/ngày; khi nuôi bằng bọ trĩ là 12,76
ngày và số trứng đẻ được là 9,00 quả, số trứng
đẻ trung bình trong ngày 0,72 quả/ngày; cuối
cùng khi nuôi bằng phấn hoa là 10,21 ngày và số
trứng đẻ được là 6,32 quả. số trứng đẻ trung
bình trong ngày 0,64 quả/ngày.
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
29
Bảng 2. Các chỉ tiêu sinh sản của loài Neoseiulus californicus
nuôi bằng thức ăn khác nhau (27,5 ± 1
o
C, 75 ± 5%)
Thức ăn N
Thời gian tiền
đẻ trứng
(ngày)
Thời gian đẻ
trứng (ngày)
Tuổi thọ
trưởng thành
cái (ngày)
Số trứng đẻ trong
ngày (quả/nhện
cái/ngày)
Tổng số
trứng đẻ
(quả/nhện
cái)
Nhện đỏ nâu
chè
(O. coffeae)
28 1,82±0,07
b
18,36±0,51
c
21,04±0,52
d
0,87±0,02
c
15,93±0,48
c
Nhện đỏ son
(T.cinnabarinus)
29 1,27±0,07
a
18,62±0,48
d
20,31±0,47
c
1,66±0,03
d
30,9±0,89
d
Nhện đỏ tươi
(B. phoenicis)
30 2,40±0,18
c
15,47±0,56
b
18,67±0,53
b
0,83±0,02
b
12,67±0,45
b
Bọ trĩ
(S. dorsalis)
25 1,52±0,35
ab
12,76±0,90
ab
15,32±0,85
ab
0,72±0,02
ab
9,00±0,57
ab
Phấn hoa
Typha
34 3,12±0,28
d
10,21±0,58
a
14,41±0,38
a
0,64±0,03
a
6,32±0,37
a
F/ χ2 0,296 0,471 0,421 2,852 2,333
Df 4 4 4 4 4
P 0,287 <0,001 <0,001 <0,001 <0,001
Ghi chú: n là số cá thể theo dõi; Các chữ giống nhau trong cùng một cột biểu diễn sự sai khác
không rõ rệt ở mức P> 0,05 với kiểm định Mann-Whitney, kiểm định Kruskal-Wallis Test; F-, df-, và P-
là giá trị của kiểm định Mann-Whitney cho mẫu phân bố không chuẩn; χ2-, df- và P- là giá trị của kiểm
định One Way ANOVA cho mẫu phân bố chuẩn.
Tuổi thọ trung bình của trưởng thành cái loài
N. californicus khi nuôi bằng nhện đỏ nâu chè là
cao nhất (21,04 ngày), sau đó là đến khi nuôi
bằng nhện đỏ son là 20,31 ngày, nhện đỏ tươi là
18,67 ngày, bọ trĩ là 15,32 ngày và thấp nhất là
14,41 ngày khi nuôi trên phấn hoa.
Hình 1. Nhịp điệu đẻ trứng của loài
Neoseiulus californicus
nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau
(27,5 ± 1
o
C, 75 ± 5%)
Nhịp điệu đẻ trứng trung bình của các cá thể
trưởng thành cái nhện bắt mồi N. californicus
được trình bày ở hình 1.
Nhịp điệu đẻ trứng của nhện bắt mồi N.
californicus khi nuôi bằng các loại thức ăn khác
nhau có sự chênh lệch đáng kể. Khi nuôi bằng
nhện đỏ son T. cinnabarinus, nhện bắt mồi
N. californicus bắt đầu đẻ trứng vào ngày tuổi
thứ 2 sau khi hóa trưởng thành và đạt trung
bình là 1,24 quả/ngày, đạt số trứng trung bình
cao nhất 2,59 quả vào ngày tuổi thứ 6, sau đó
giảm dần và kết thúc đẻ trứng vào ngày tuổi
thứ 24. Khi nuôi bằng nhện đỏ nâu chè O.
coffeae, nhện bắt mồi bắt đầu đẻ trứng vào
ngày tuổi thứ 2 sau khi hóa trưởng thành đạt
trung bình là 0,21 quả/ngày, đạt số trứng trung
bình là trên 1 quả vào thứ 3 (1,11 quả), ngày
thứ 6 (1,00 quả) và ngày thứ 16 (1,07 quả),
các ngày còn lại số trứng trung bình được đẻ
là dưới 1 quả, kết thúc đẻ trứng vào ngày tuổi
thứ 25. Khi nuôi bằng nhện đỏ tươi B.
phoenicis, nhện bắt mồi N. californicus bắt đầu
đẻ trứng vào ngày tuổi thứ 2 sau khi hóa
trưởng thành đạt trung bình là 0,23 quả, đạt số
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
30
trứng trung bình cao nhất 1,03 quả vào ngày
tuổi thứ 8, sau đó giảm dần và kết thúc đẻ
trứng vào ngày tuổi thứ 23. Khi nuôi bằng bọ
trĩ S. dorsalis, nhện bắt mồi N. californicus bắt
đầu đẻ trứng vào ngày tuổi thứ 3 sau khi hóa
trưởng thành đạt trung bình là 0,32 quả, đạt số
trứng trung bình cao nhất 0,92 quả vào ngày
tuổi thứ 7, sau đó giảm dần và kết thúc đẻ
trứng vào ngày tuổi thứ 22. Khi nuôi bằng phấn
hoa Typha, nhện bắt mồi N. californicus có số
trứng đẻ trung bình trong ngày ít nhất và thời
gian đẻ trứng ngắn nhất, NBM bắt đầu đẻ
trứng vào ngày tuổi thứ 2 sau khi hóa trưởng
thành đạt trung bình là 0,15 quả, đạt số trứng
trung bình cao nhất 0,83 quả vào ngày tuổi thứ
17 và kết thúc đẻ trứng vào ngày tuổi thứ 18.
3.3 Các chỉ số sinh học chủ yếu của nhện
bắt mồi N. Californicus khi nuôi bằng các loại
thức ăn khác nhau
Từ kết quả nuôi sinh học nhện bắt mồi N.
californicus đã tính được các chỉ số sinh học chủ
yếu như thời gian vòng đời, tỷ lệ tăng tự nhiên
(rm), thời gian của một thế hệ (T), hệ số nhân lên
của một thế hệ (Ro) và thời gian nhân đôi quần
thể của chúng. Các kết quả này được trình bày ở
bảng 3.
Bảng 3. Vòng đời và các chỉ số sinh học nhện bắt mồi Neoseiulus californicus
nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau (27,5 ± 1
o
C, 75 ± 5%)
Chỉ tiêu n
Vòng đời
(ngày)
Tỷ lệ tăng tự
nhiên (rm)
Thời gian
của một thế
hệ (T) (ngày)
Hệ số nhân
của một thế
hệ (Ro)
Thời gian
nhân đôi quần
thể (DT)
(ngày)
Nhện đỏ nâu chè
(O. coffeae)
28 5.11±0.06c 0,20±0,003c 11,58±0,13b 10,28±0,23c 3.44±0.05c
Nhện đỏ son
(T.cinnabarinus)
29 4.28±0.11d 0,27±0,003d 11,25±0,10a 20,42±0,52d 2.58±0.03d
Nhện đỏ tươi
(B. phoenicis)
30 5.37±0.14b 0,20±0,003c 11,56±0,14ab 9,54±0,35b 3.55±0.06c
Bọ trĩ (S. dorsalis) 25 5.28±0.20bc 0,13±0,004b 13,47±0,24d 6,06±0,42ab 5.17±0.15b
Phấn hoa Typha 34 6.74±0.30a 0,11±0,005a 12,80±0,23c 4,13±0,27a 6.24±0.26a
F/ χ2 59.045 5,686 0,993 4,209 101.140
df 4 4 4 4 4
P <0.001 <0,001 <0,001 <0,001 <0.001
Ghi chú: Các chữ số giống nhau trong cùng một cột biểu diễn sự sai khác không rõ rệt ở mức
P>0,05 với kiểm định Mann-Whitney U test (vòng đời, tỷ lệ gia tăng tự nhiên rm thời gian 1 thế hệ T);
kiểm định Tukey test (tỷ lệ sinh sản R0 ,DT); F-, df- và P- là giá trị của kiểm định One Way ANOVA
cho mẫu phân bố chuẩn và là giá trị của kiểm định Mann-Whitney cho mẫu phân bố không chuẩn
Kết quả bảng 3 cho thấy, trong các loại thức
ăn thì nhện bắt mồi N. californicus phát triển tốt
khi nuôi bằng nhện đỏ son, nhện đỏ nâu chè và
nhện đỏ tươi, phát triển kém hơn khi nuôi bằng
bọ trĩ và phấn hoa Typha. Thời gian vòng đời
nhện bắt mồi N. californicus ngắn nhất khi nuôi
trên nhện đỏ son (4,28 ngày), sau đó là nuôi trên
nhện đỏ nâu chè (5,11 ngày), bọ trĩ (5,28 ngày),
nhện đỏ tươi (5,37 ngày) và dài nhất khi nuôi
bằng phấn hoa Typha (6,74 ngày). Thời gian của
một thế hệ (T) của nhện bắt mồi N. californicus
nuôi bằng nhện đỏ son là 11,25 ngày, bằng nhện
đỏ nâu chè là 11,58 ngày, bằng nhện đỏ tươi là
11,56 ngày, bằng bọ trĩ là 13,47 ngày và bằng
phấn hoa Typha là 12,80 ngày. Hệ số nhân của
một thế hệ (Ro) của nhện bắt mồi N. californicus
cao nhất khi nuôi bằng nhện đỏ son là 20,42; sau
đó đến khi nuôi bằng nhện đỏ nâu chè là 10,28;
nhện đỏ tươi là 9,54, bọ trĩ là 6,06; thấp nhất là
khi nuôi bằng phấn hoa là 4,13. Tỷ lệ tăng tự
nhiên (rm) của nhện bắt mồi N. californicus cao
nhất khi nuôi bằng nhện đỏ son là 0,27; sau đó
đến nhện đỏ nâu chè và nhện đỏ tươi hại chè
đều là 0,20; bọ trĩ hại chè và cuối cùng phấn hoa
Typha lần lượt là 0,13 và 0,11.
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
31
Trong nghiên cứu này, NBM N. californicus
phát triển và sinh sản bình thường trên các loài
nhện hại cây trồng như nhện đỏ nâu chè O.
coffeae, nhện đỏ son T. cinnabarinus, nhện đỏ
tươi B. phoenicis, bọ trĩ T. dorsalis và phấn hoa
Typha phù hợp với các kết quả nghiên cứu của
Taj and Jung (2012) nuôi bằng nhện đỏ hại táo
P. ulmi; Canlas et al. (2006), Vasconcelos
(2006), Gotoh et al. (2004) và Rahmani et al.
(2009) nuôi bằng nhện đỏ hai chấm T. urticae;
Ebrahim et. al. (2014) nuôi bằng nhện đỏ cam
chanh P. citri; Rahmani (2009) nuôi bằng bọ trĩ
Thrips tabaci; và Vasconcelos (2006), Canlas et
al. (2006), Bellini (2008), Marafeli et. al. (2014) và
Rezaie (2017) nuôi bằng các loại phấn hoa.
Tổng hợp các kết quả của nghiên cứu về các
chỉ số sinh học của NBM N. californicus được
trình bày trong bảng 4.
Bảng 4. Các chỉ số sinh học của loài N. californicus của các nghiên cứu
Nhện vật mồi
Nhiệt độ
(
o
C)/ẩm độ(%)
Các chỉ số sinh học của NBM N. californicus
rm Ro T (ngày) Nguồn
O. coffeae 27,5±1/75±5 0,200 10,280 11,580 Nghiên cứu này
T.cinnabarinus 27,5±1/75±5 0,270 20,420 11,250 Nghiên cứu này
B. phoenicis 27,5±1/75±5 0,200 9,540 11,560 Nghiên cứu này
T. dorsalis 27,5±1/75±5 0,130 6,060 13,470 Nghiên cứu này
Phấn hoa Typha 27,5±1/75±5 0,110 4,130 12,800 Nghiên cứu này
T.urticae 25/60-70 0,209 22,920 17,550 Canlas et al. (2006)
T urticae 27,54/72,71 0,260 34,400 16,900 Vasconcelos (2006)
T.urticae 25 0,274 28,558 15,303 Gotoh et al. (2004)
T. tabaci 25/65-5 0,041 1,950 18,620 Rahmani et al. (2009)
P. ulmi 25/70-80 0,250 49,240 15,310 Taj and Jung (2012)
Trứng của P. citri 25/70±5 0,092 11,280 19,610 Ebrahim (2014)
Trước trưởng thành
của P. citri
25/70±5 0,149 17,130 18,380 Ebrahim (2014)
Trưởng thành P. citri 25/70±5 0,042 5,190 19,770 Ebrahim (2014)
Phấn ngô + trứng của
T. Urticae
27±1/70±5 0,152 3,36 9,708 Rezaie (2017)
Phấn hoa + trứng của
T. Urticae
27±1/70±5 0,201 3,132 9.095 Rezaie (2017)
Phấn hoa óc chó +
trứng của T. Urticae
27±1/70±5 0,141 3,782 9,872 Rezaie (2017)
Phấn hoa thầu dầu 25±2/70±10 0,170 18,70 17,200 Marafeli et. al. (2014)
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ tăng tự nhiên (rm)
của NBM N. californicus khi nuôi bằng các loài
nhện hại như nhện đỏ nâu chè là 0,20; bằng
nhện đỏ son là 0,27; bằng nhện đỏ tươi là 0,20 là
xấp xỉ bằng nghiên cứu của Canlas et al. (2006)
(rm=0,209) và Vasconcelos (2006) (rm = 0,26) khi
nuôi bằng nhện đỏ hai chấm, của Taj and Jung
(2012) (rm = 0,25) khi nuôi bằng nhện đỏ táo
P. ulmi; và cao hơn rất nhiều khi nuôi bằng trứng,
giai đoạn trước trưởng thành và nhện cái trưởng
thành của nhện đỏ cam chanh P. citri lần lượt là
0,092; 0,149 và 0,042.
Khi nuôi bằng bọ trĩ T. dorsalis trong nghiên
cứu này chúng có rm là 0,130 cao hơn rất nhiều
so với nghiên cứu của (Rahmani et al. (2009) (rm
= 0,041) khi nuôi bằng bọ trĩ T. tabaci.
Khi nuôi bằng phấn hoa Typha trong nghiên
cứu này, NBM N. californicus có tỷ lệ tăng tự
nhiên rm là 0,11 thấp hơn so với nghiên cứu của
Rezaie (2017) khi nuôi bằng hỗn hợp phấn hoa
cây óc chó + trứng của nhện đỏ hai chấm
T. urticae (rm = 0,141), phấn hoa ngô + trứng của
nhện đỏ hai chấm T. urticae (rm = 0,152) và phấn
hoa (Date Pollen) + trứng của nhện đỏ hai chấm
T. urticae (rm = 0,201); Marafeli et. al. (2014) khi
nuôi bằng phấn hoa của cây thầu dầu (rm = 0,17).
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019
32
Như vậy, loài nhện bắt mồi N. californicus
phát triển bình thường trên các loại thức ăn là
nhện hại, bọ trĩ và phấn hoa do đó chúng thuộc
Nhóm II về phổ thức ăn. Đối với thức ăn là các
loài sâu và nhện hại chủ yếu trên cây chè (bọ trĩ,
nhện đỏ nâu, nhện đỏ tươi) chúng có thể gia
tăng quần thể khá tốt, do đó có thể nghiên cứu
để sử dụng chúng trong phòng chống sinh học
các loài sâu hại này trên cây chè.
4. KẾT LUẬN
- Loài nhện bắt mồi Neoseiulus californicus
Evans có thể phát triển bình thường trên các loại
thức ăn là nhện đỏ son, nhện đỏ nâu chè, nhện
đỏ tươi, bọ trĩ và phấn hoa Typha. Thời gian
vòng đời của chúng ngắn nhất khi nuôi trên nhện
đỏ son (4,28 ngày), sau đó đến nuôi trên nhện đỏ
nâu chè (5,11 ngày), bọ trĩ (5,28 ngày), nhện đỏ
tươi (5,37 ngày) và dài nhất khi nuôi bằng phấn
hoa Typha (6,74 ngày).
- Tổng số trứng đẻ của nhện bắt mồi
N. californicus khi nuôi bằng nhện đỏ nâu chè là
15,93 quả, nuôi bằng nhện đỏ son là 30,9 quả, nuôi
bằng nhện đỏ tươi là 12,67 quả, nuôi bằng bọ trĩ là
9,00 quả và nuôi bằng phấn hoa là 6,32 quả.
- Tỷ lệ tăng tự nhiên (rm) của nhện bắt mồi
N. californicus cao nhất khi nuôi bằng nhện đỏ
son là 0,27; sau đó đến nhện đỏ nâu chè và nhện
đỏ tươi hại chè đều là 0,20; bọ trĩ hại chè và
phấn hoa Typha lần lượt là 0,13 và 0,11.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Bộ môn
Côn trùng, Khoa Nông học, Học Viện Nông
Nghiệp Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Cây có múi, Viện Nghiên cứu Rau quả
đã giúp đỡ và tạo điều kiện để chúng tôi hoàn
thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Birch L.C., 1948. The intrinsic rate of natural
increase of an insect population. Journal of Animal
Ecology 17:15-26.
2. Canlas L.J., Mamano H., Ochiai M. and Takeda
M., 2006. Biology and predation of the strain Japanese
of Neoseiulus californicus (McGregor) (Acari:
Phytoseiidae). Systematic and Applied Acarology, vol.
11, no. 2, p. 141-157.
3. Ebrahim A.A., A.A.M. Abdallah and A.M.
Halawa, 2014. Potential of Neoseiulus californicus
(Mc-Gregor) as a Biocontrol Agent of Panonychus citri
(Mc-Gregor) (Phytoseiidae-Tetranychidae). Acarines,
8(1):13-17, 2014.
4. Gotoh T., Yamaguchi K. and Mori K., 2004.
Effect of temperature on life history of the predatory
mite Amblyseius (Neoseiulus) californicus (Acari:
Phytoseiidae). Experimental & Applied Acarology, vol.
32, no. 1-2, p. 15-30.
5. Huyen L.T., N.D. Tung, D.H. Lan, C.V. Chi,
D.C. Patrick and N.V. Dinh, 2017. Life table
parametersand development of Neoseiulus
longispinosus (Acari: Phytoseiidae) reared on citrus
red mite, Panonychus citri (Acari: Tetranychidae) at
different temperatures. Systematic & Applied
Acarology, 22 (9): 1316-1326.
6. Moraes G.J.d.; Lopes, P.C. and Fernando, L.C.P.,
2004. Phytoseiid Mites (Acari: Phytoseiidae) of Coconut
Growing Areas in Sri Lanka, with Descriptions of Three
New Species. J.Acarol. Soc. Jpn., 13 (2): 141 – 160.
7. Phạm Văn Lầm, 2013. Thành phần loài chân
khớp đã phát hiện trên cây chè ở Việt Nam. Hội Nghị
Khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật làn thứ V năm 2013, tr.530-537
8. Vũ Thị Phương, 2018. Nghiên cứu thành phần,
mối quan hệ của các loài côn trùng bắt mồi với sâu hại
trên cây Chè ở Phú Thọ và ảnh hưởng của một số yếu tố
sinh thái lên chúng. Tóm tắt Luận án Tiến sĩ sinh học,
Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
9. Rahmani H., Fathipour Y. and Kamali K., 2009.
Life history and population growth parameters of
Neoseiulus californicus (Acari: Phytoseiidae) fed on
Thrips tabaci (Thysanoptera: Thripidae) in laboratory
conditions. Systematic and Applied Acarology, vol.14,
p. 91-100.
10. Rezaie M., 2017. Effect of three pollen grains on
life table parameters of Neoseiulus californicus (Acari:
Phytoseiidae). International Journal of Engineering and
Applied Sciences (IJEAS) ISSN: 2394-3661, Volume-4,
pp 21-24, Issue-9, September 2017.
11. Taj H.F.El. and C. Jung, 2012. Effect of
temperature on the life-history traits
of Neoseiulus californicus (Acari: Phytoseiidae) fed on
Panonychus ulmi. Exp Appl Acarol (2012) 56:247–260.
DOI 10.1007/s10493-012-9516-2.
12. Vasconcelos G.J.N., 2006. Eficiência dos
ácaros predadores Phytoseiulus fragariae e
Neoseiulus californicus (Acari: Phytoseiidae) em
Licopersicon esculentum e Solanum americanum.
Piracicaba: Escola Superior de Agricultura Luiz de
Queiroz, Universidade de São Paulo. 81 p.
Phản biện: TS. Nguyễn Thị Nhung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
vong_doi_va_ty_le_tang_tu_nhien_cua_loai_nhen_bat_moi_neosei.pdf