Môi trường
Thành tích nổi bật của vùng TDMNBB thể
hiện ở sự duy trì chất lượng tương đối cao về
môi trường so với các vùng khác trong cả nước.
So với mức trung bình của cả nước đạt 41,67%,
vùng Tây Bắc và Đông Bắc, hai tiểu vùng của
vùng TDMNBB, đều có tỷ lệ che phủ rừng cao
hơn. Còn khi so với các vùng khác, hai tiểu
vùng này thuộc nhóm cao của cả nước. Riêng
vùng Đông Bắc đạt 56,72%, chỉ thấp hơn mức
57,65% của Bắc Trung Bộ [9]. Điều này thể
hiện rõ nét vai trò đảm bảo an ninh sinh thái của
vùng TDMNBB. Về vị trí địa lý, vùng này giáp
với vùng Đồng bằng sông Hồng, nơi có tỷ lệ
che phủ rừng rất thấp, đạt 6%. So với vùng
Đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ che phủ rừng của
tiểu vùng Tây Bắc cao gấp hơn 7 lần, còn tiểu
vùng Đông Bắc cao gấp hơn 9 lần. Như vậy,
vùng TDMNBB đóng vai trò như lá phổi xanh
cho vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng và cả
nước nói chung.
Tuy vậy, so với các vùng khác, chỉ duy nhất
vùng TDMNBB bị tụt giảm về tỷ lệ hộ có
nguồn nước hợp vệ sinh, từ mức 89,3% năm
2008 xuống còn 86,8% năm 2018 [1]. Điều này
đặt ra thách thức cho vùng về công tác đảm bảo
an sinh xã hội trong thời gian tới.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vùng Trung Du và miền núi Bắc Bộ trong không gian phát triển bền vững của cả nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
18
Original Article
Sustainable Development in the Northen Midland
and Mountainous Areas of Vietnam
Ly Dai Hung*
Vietnam Central Economic Commission,
A4 Building, Nguyen Canh Chan street, Ba Dinh district, Hanoi city, Vietnam
Received 05 November 2020
Revised 12 December 2020; Accepted 12 December 2020
Abstract: The paper analyzes the social, economic, and environmental development of the
northen midland and montainous area in comparision with other areas in Vietnam. On sustainable
development, this area achieves a relatively good performance in social and environmental aspects,
but quite poor results in an economic aspect. Moreover, there exist a fragmentation within the area:
a group of provinces is growing faster than the others. Thus, the policy for this area should be
constructed to well reflect its social and environmental fundamentals while addressing the
fragmentation of development within the area
Keywords: Sustainable development, regional linkage, Northern Midland and Mountainous Area.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: hunglydai@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4434
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
19
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ trong không gian
phát triển bền vững của cả nước
Lý Đại Hùng*
Ban Kinh tế Trung ương, Nhà A4, Nguyễn Cảnh Chân, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 11 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 12 năm 2020
Tóm tắt: Bài viết phân tích tình hình phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của vùng Trung du
và miền núi Bắc Bộ, so sánh tương quan với các vùng khác trong cả nước. Trong bối cảnh phát
triển bền vững, vùng này đã đạt được thành tích tương đối tốt về xã hội và môi trường, nhưng còn
yếu về kinh tế so với các vùng khác. Hơn nữa, kinh tế nội bộ vùng cũng đang bị phân mảnh với
một số tỉnh thuộc nhóm dẫn đầu, dần bỏ xa các tỉnh còn lại. Vì vậy, chính sách đối với vùng này
nên được thiết kế để phù hợp với thế mạnh về nền tảng xã hội và điều kiện môi trường, khắc phục
sự chênh lệch phát triển trong nội vùng.
Từ khóa: Liên kết vùng, phát triển bền vững, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
1. Mở đầu *
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
(TDMNBB) có tổng diện tích khoảng
115.153,4 km2, chiếm hơn 35% diện tích tự
nhiên của cả nước. Theo thống kê năm 2018,
TDMNBB có hơn 30 dân tộc đang sinh sống,
dân số toàn vùng khoảng 14.349 nghìn người
(chiếm khoảng 15,1% dân số cả nước), mật độ
dân số gần 125 người/km2 (bằng 43,7% mật độ
dân số trung bình cả nước) [1]. TDMNBB có vị
trí nằm ở cửa ngõ giao thương thông ra biển của
các khu vực sâu trong lục địa Trung Quốc và
Campuchia, đồng thời, đảm bảo an ninh sinh
thái cho vùng đồng bằng Bắc Bộ và cả nước.
Với sự đa dạng về sắc tộc, vùng này càng khẳng
định vai trò quan trọng về kinh tế, chính trị và
xã hội đối với cả quốc gia. Vì vậy, việc phân
tích tình hình kinh tế, xã hội của vùng
TDMMBB, cùng với sự đối chiếu với các vùng
khác trở nên cần thiết trong chiến lược phát
triển bền vững của cả nước.
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: hunglydai@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4434
Vùng TDMNBB đã nhận được sự quan tâm
trong nghiên cứu và hoạch định chính sách. Về
kết quả nghiên cứu, Trần Quang Huy và cộng
sự (2019) chỉ ra tăng trưởng kinh tế của vùng
TDMNBB đã đạt được thành tựu đáng ghi
nhận, nhưng đang có xu hướng chững lại trong
các năm gần đây, nguyên nhân chính nằm ở sự
suy giảm tốc độ tăng năng suất lao động và việc
làm, cùng với sự chưa hợp lý trong tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế [2]. Bàn về khía
cạnh văn hóa - xã hội, Dương Quỳnh Phương
và Thân Thị Huyền (2015) nhận định
TDMNBB là một vùng văn hóa tộc người vừa
đa dạng vừa thống nhất theo không gian và thời
gian, với hơn 30 dân tộc cư trú đan xen [3]. Nền
tảng văn hóa với bản sắc riêng đã hình thành
các không gian lãnh thổ đặc thù theo đai cao,
gồm có vùng với đặc trưng văn hóa núi cao
(Hmông, Dao), vùng văn hóa thung lũng (Tày,
Nùng, Thái) và vùng văn hóa trung du gò đồi
(Kinh). Về khía cạnh môi trường, Vũ Thị
Thanh Minh (2015) ghi nhận, cùng với sự phát
triển kinh tế, vùng TDMNBB phải đối diện với
sự biến đổi môi trường tự nhiên, suy giảm đa
dạng sinh học và sự gia tăng của các sự cố môi
trường [4]. Như vậy, mỗi trụ cột của phát triển
bền vững, gồm kinh tế, xã hội và môi trường,
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
20
đều đang tồn tại những bất cập tại vùng
TDMNBB trong thời gian qua.
Về cơ chế chính sách, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 37/NQ-TW ngày 1/7/2004
về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và
bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng TDMNBB
đến năm 2020, theo đó xác định phương hướng
phát triển vùng này nhằm bắt kịp với các vùng
khác trong cả nước, thông qua gia tăng nhịp độ
phát triển kinh tế - xã hội đạt cao hơn mức
trung bình của cả nước [5]. Tiếp đó, Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 980/QĐ-TTg ngày
21/6/2013 về việc phê duyệt Quy hoạch xây
dựng vùng TDMNBB đến năm 2030 [6]. Trong
đó, vùng này được phân ra thành 3 vùng không
gian, gồm vùng biên giới Việt - Trung, vùng
biên giới Việt - Lào và vùng trung du gò đồi.
Mỗi tiểu vùng không gian gắn với phát triển các
đô thị trung tâm vùng, cụm đô thị động lực với
các cực tăng trưởng chủ đạo, có sự liên kết tầng
bậc theo cấp, loại đô thị. Ngoài ra, vùng
TDMNBB cũng thuộc các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của vùng miền núi, dân tộc
thiểu số như Chương trình phát triển kinh tế -
xã hội các xã đặc biệt khó khăn, và gần đây là
Nghị quyết số 120/2020/QH14 của Quốc hội về
việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình
mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai
đoạn 2021-2030.
Dựa trên bộ số liệu của Tổng cục Thống kê,
bài viết tập trung khai thác đặc điểm riêng của
các tỉnh thuộc vùng TDMNBB, từ đó so sánh
với các vùng khác trong cả nước. Trong nội bộ
vùng, sự hình thành của nhóm dẫn đầu với các
thành tích nổi trội về kinh tế, văn hóa, xã hội so
với nhóm các tỉnh còn lại là đặc trưng tiêu biểu
của vùng. Cụ thể, nhóm 5 tỉnh, gồm Thái
Nguyên, Lào Cai, Bắc Giang, Phú Thọ và Hoà
Bình đang dần bỏ xa nhóm các tỉnh còn lại. Khi
so sánh với cả nước, vùng TDMNBB chưa
thành công trong việc đuổi kịp các vùng khác
về mức sống, thể hiện ở sự kéo dài khoảng cách
về thu nhập, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất và sự cải
thiện chậm về y tế, xã hội so với các vùng khác.
Tựu trung, sự phân mảnh trong vùng, kết hợp
với sự tụt hậu so với các vùng khác, đã đặt ra
yêu cầu cấp thiết trong công tác hoạch định
chính sách riêng cho vùng trong thời gian tới.
2. Các tỉnh trong vùng Trung du và miền núi
Bắc Bộ
2.1. Kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các tỉnh
trong vùng TDMNBB đều cao hơn mức trung
bình của cả nước trong cùng giai đoạn
(6,64%/năm). Tỉnh có tốc độ tăng trưởng thấp
nhất là Cao Bằng, với 7,56%/năm, và tỉnh có
tốc độ tăng trưởng cao nhất là Sơn La, đạt
13,20%/năm (Hình 1).
Quy mô nền kinh tế của các tỉnh trong vùng
đều được mở rộng trong giai đoạn 2004-2018.
Tổng sản lượng quốc nội theo địa phương
(GRDP - Gross Regional Domestic Products)
theo giá hiện hành của các tỉnh đều gia tăng, và
thứ tự về quy mô tổng sản lượng dường như
khá ổn định. Cụ thể, năm 2004, Thái Nguyên,
Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ và Lào Cai có
sản lượng nội tỉnh cao nhất. Đến năm 2018,
nhóm này vẫn dẫn đầu, nhưng chỉ có Lạng Sơn
được thay thế bởi Sơn La, và Hòa Bình bám
đuổi rất sát, gần bằng với Lào Cai [7].
Phân phối về GRDP bình quân đầu người
của các tỉnh trong vùng không đồng đều. Tỉnh
cao nhất là Thái Nguyên, với giá trị 77,7
triệu/người/năm, gấp 1,8 lần so với trung bình
vùng (43,6 triệu) và thấp nhất là Hà Giang với
26,1 triệu/người/năm, giá trị trung bình của
vùng là 43,6 triệu/người/năm. Xếp sau Thái
Nguyên lần lượt là các tỉnh: Lào Cai (61,8
triệu), Bắc Giang (52,2 triệu), Hòa Bình (50,7
triệu) và Phú Thọ (40,8 triệu). Các tỉnh còn lại
có GRDP bình quân đầu người trong khoảng từ
26 đến 40 triệu như Cao Bằng (26,9 triệu), Điện
Biên (26,8 triệu), Bắc Kạn (30,4 triệu) [7]. Như
vậy, dải GRDP bình quân đầu người của vùng
này vẫn phổ biến ở quanh mức 35 triệu, trong khi
tỉnh dẫn đầu vượt xa hẳn so với các tỉnh còn lại.
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
21
O
Hình 1. Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2004-2018 (đơn vị: %).
Nguồn: Niên giám Thống kê qua các năm, Tổng cục Thống kê [1].
P
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng diễn ra sôi
động tại các tỉnh trong vùng TDMNBB. Trong
giai đoạn 2004-2012, vùng này liên tục nhập
siêu. Bước chuyển xảy ra vào năm 2013, khi
vùng này đạt được cân bằng trong cán cân
thương mại, với xuất khẩu gần như bằng nhập
khẩu. Kể từ năm 2014 đến nay, vùng này có xu
hướng gia tăng xuất khẩu nhanh hơn nhập khẩu,
dẫn đến sự cải thiện ngày càng rõ rệt về xuất
siêu. Kết quả này có thể chủ yếu dựa trên các
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài về lắp ráp
linh kiện điện tử đã đi vào hoạt động tại các
tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang. Trong đó, vào
năm 2018, Thái Nguyên có xuất khẩu đạt gần
25 tỷ USD, còn nhập khẩu đạt gần 14 tỷ USD;
Bắc Giang xuất khẩu đạt 5,8 tỷ USD, còn nhập
khẩu gần 5,4 tỷ USD. Như vậy, vùng
TDMNBB đang có bước phát triển đáng kể về
xuất nhập khẩu, đặc biệt từ năm 2014 đến
nay [8].
2.2. Xã hội
Thu nhập của người dân trong vùng
TDMNBB đều có sự cải thiện theo thời gian.
Năm 2018, bình quân mỗi người dân trong
vùng có thu nhập 2.254 nghìn đồng/tháng, cao
gấp 7,48 lần so với mức 305 nghìn vào năm
2004. Trong đó, tỉnh Thái Nguyên có mức thu
nhập cao nhất trong vùng, đạt 4.014 nghìn
đồng/tháng, cao gần gấp đôi so với trung bình
cả vùng. Tỉnh này cũng gia tăng thu nhập nhanh
nhất trong vùng, với mức thu nhập năm 2018
gấp 10,12 lần so với năm 2004. Tuy vậy, vị trí
tỉnh có mức thu nhập thấp nhất lại không ổn
định: tỉnh Lai Châu trong giai đoạn 2004-2014,
và Điện Biên từ năm 2016 đến nay. Còn tỉnh có
mức gia tăng thu nhập thấp nhất là Sơn La, với
mức thu nhập năm 2018 gấp 5,35 lần của năm
2004 [1].
Tốc độ tăng trưởng thu nhập của các tỉnh
trong vùng có xu hướng giảm dần theo thời
gian. Theo Hình 2, khi xét tỷ lệ của tốc độ gia
tăng trong năm 2018 so với năm 2006, mức
giảm ít nhất (0,97) thuộc về Bắc Giang, và
nhiều nhất (0,32) là Cao Bằng. Ngoài ra, theo
Bảng 1, nhóm các tỉnh có thu nhập cao hơn
mức trung bình cả vùng gồm Tuyên Quang,
Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Giang,
Phú Thọ và Hòa Bình. Trong nhóm này, các
tỉnh có tốc độ tăng trưởng hàng năm về thu
nhập cao hơn mức trung bình của vùng
(15%/năm) gồm Lào Cai (16%), Thái Nguyên
(18%), Bắc Giang (17%), Phú Thọ (16%) và
Hòa Bình (16%). Đáng lưu ý là các tỉnh dẫn
đầu này đều có giao thông thuận lợi kết nối
nhanh với thủ đô Hà Nội.
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
22
Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người/tháng của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (đơn vị: nghìn VNĐ)
Địa phương\
Năm
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016 2018
2018/
2004
Cả vùng 305 414 619 843 1166 1484 1813 2254 7,40
Hà Giang 247 329 475 610 850 1121 1324 1725 6,98
Cao Bằng 279 395 586 749 1054 1252 1643 1856 6,66
Bắc Kạn 272 388 558 776 1142 1216 1401 1945 7,15
Tuyên Quang 341 450 669 887 1162 1571 1759 2261 6,62
Lào Cai 280 400 611 819 1085 1468 1856 2324 8,30
Yên Bái 328 424 636 844 1114 1386 1805 2289 6,98
Thái Nguyên 397 555 851 1149 1747 2238 3005 4014 10,12
Lạng Sơn 349 455 691 929 1212 1437 1684 2047 5,87
Bắc Giang 392 490 711 1103 1568 2174 2778 3450 8,79
Phú Thọ 370 520 793 1126 1579 1954 2375 2892 7,81
Điện Biên 224 305 485 611 819 1200 1221 1477 6,59
Lai Châu 216 273 414 567 758 987 1312 1492 6,92
Sơn La 277 394 572 802 1020 1178 1288 1483 5,35
Hòa Bình 292 416 612 829 1219 1598 1925 2295 7,86
Nguồn: Niên giám Thống kê qua các năm, Tổng cục Thống kê.
Hình 2. Tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người hàng năm (đơn vị: %)
tại vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ giai đoạn 2006-2018.
Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm, Tổng cục Thống kê [1].
Các tỉnh trong vùng TDMNBB đang dần
thu hẹp khoảng cách về thu nhập so với thành
phố Hà Nội. Trong Hình 3, biểu đồ hình tam
giác thể hiện 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang và
Phú Thọ dẫn đầu cả vùng, có tỷ lệ thu nhập so
với mức của Hà Nội cao nhất. Theo sau 3 tỉnh
này là một nhóm các tỉnh có tỷ lệ thu nhập so
với mức của Hà Nội tương đồng nhau, và cùng
gần với mức trung bình của cả vùng, gồm Lào
Cai, Hòa Bình, Yên Bái, Tuyên Quang. Hơn
nữa, khi tính đến thành tích thu hẹp khoảng
cách về thu nhập so với Hà Nội, biểu đồ hình
cột đã thể hiện rõ nhóm 5 tỉnh dẫn đầu, gồm
Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ, Lào Cai và
Hòa Bình. So mức trung bình của cả vùng,
nhóm 5 tỉnh này có thành tích thu hẹp khoảng
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
23
cách thu nhập cao hơn và tiến đến với mức thu
nhập của Hà Nội nhanh hơn so với các tỉnh còn
lại trong vùng.
Đặc biệt, bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập của các tỉnh trong vùng TDMNBB có xu
hướng gia tăng. Khi so sánh năm 2018 và 2004,
sự gia tăng của chênh lệch thu nhập cao nhất
đạt 1,53 lần tại Yên Bái, và thấp nhất đạt 1,14
lần tại Lạng Sơn. Về giá trị tuyệt đối, mức
chênh lệch thu nhập cao nhất vào năm 2018 đạt
10,04 tại Cao Bằng, còn thấp nhất đạt 6,72 tại
Hà Giang. Nếu so với năm 2004, vị trí tỉnh có
mức chênh lệch thu nhập cao nhất lại thuộc về
Bắc Kạn, và thấp nhất thuộc về Hà Giang. Đáng
lưu ý là trong danh sách 5 tỉnh có mức thu nhập
và tốc độ tăng trưởng thu nhập cao nhất vùng
(Lào Cai, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ và
Hoà Bình), chỉ có hai tỉnh có mức gia tăng
chênh lệch thu nhập thấp hơn trung bình cả
vùng (1,32) giai đoạn 2004-2018, gồm Thái
Nguyên (1,24) và Hòa Bình (1,15). Như vậy, sự
bất bình đẳng về phân phối thu nhập có xu hướng
gia tăng cùng với sự gia tăng trong thu nhập bình
quân [1].
K
Hình 3. Thu hẹp khoảng cách về thu nhập so với thành phố Hà Nội: 2004-2018.
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
l
Các tỉnh trong vùng TDMNBB đã đạt được
thành tích đáng kể về giảm nghèo. Khi so sánh
tỷ lệ nghèo của năm 2016 với 2006, thành tích
giảm nghèo mạnh nhất tại tỉnh Phú Thọ (0,14)
và yếu nhất tại tỉnh Yên Bái (0,94). Năm 2016,
khi so với mức trung bình của cả vùng (13,8%),
hầu hết các tỉnh có tỷ lệ nghèo cao hơn, chỉ có
một số tỉnh có tỷ lệ nghèo thấp hơn, gồm Tuyên
Quang (12%), Thái Nguyên (7,1%), Bắc Giang
(6,3%), Phú Thọ (6,3%) và Hòa Bình (13,4%).
Ngoài ra, số liệu về tỷ lệ nghèo đa chiều vào
năm 2018, tính đến các yếu tố ngoài thu nhập
như chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, cũng cho
thấy những nét tương đồng như số liệu về
nghèo theo chuẩn quốc gia. Cụ thể, danh sách
các tỉnh có tỷ lệ nghèo thấp hơn mức trung bình
cả vùng (18,4%), gồm Tuyên Quang (17,5%),
Thái Nguyên (6,0%), Bắc Giang (3,8%), Phú Thọ
(7,5%) và Hòa Bình (12,7%) [1]. Tóm lại, tỷ lệ
nghèo đói của vùng có xu hướng giảm trong giai
đoạn 2006-2016.
Bên cạnh đó, chất lượng đời sống văn hóa
và xã hội của người dân trong vùng TDMNBB
cũng đang dần được nâng lên. Về dịch vụ y tế,
số giường bệnh đều gia tăng tại tất cả các tỉnh
trong vùng. Trong đó, nổi bật là Thái Nguyên
và Phú Thọ, với số lượng giường bệnh tăng
mạnh, trở thành hai trung tâm về khám chữa
bệnh của vùng. Ngoài ra, tất cả các tỉnh đều đạt
được sự gia tăng về số bác sĩ. Đặc biệt, các tỉnh
nghèo của vùng lại có sự bứt phá mạnh mẽ về
số bác sĩ/1 vạn dân, điển hình như Cao Bằng,
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
24
Bắc Kạn, Điện Biên, Hà Giang, trở thành các
tỉnh có tỷ lệ bác sĩ cao nhất cả vùng, vượt qua
các tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ. Còn về văn
hóa, các tỉnh trong vùng đều có tỷ lệ phủ điện
cao, từ 80% trở lên, với một số tỉnh đã đạt được
100% gồm Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang,
Phú Thọ và Hòa Bình. Ngoài ra, tốc độ gia tăng
phủ điện sinh hoạt đạt được bước tiến rất đáng
kể tại hai tỉnh Điện Biên (năm 2018 gấp 1,55
lần so với năm 2004) và Lai Châu (con số
tương ứng là 2,5 lần) [1]. Nhìn chung, dịch vụ
về y tế và xã hội của vùng đã đạt được cải thiện
đáng kể giai đoạn 2004-2018.
2.3. Môi trường
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn (năm 2019),
hầu hết các tỉnh trong vùng đều tăng tỷ lệ che
phủ rừng theo thời gian, điển hình là Bắc Kạn
và Lạng Sơn, với mức gia tăng đạt lần lượt là
19% và 23%. Năm 2018, Bắc Kạn đạt tỷ lệ che
phủ rừng cao nhất cả vùng (73%). Ngoài ra, chỉ
có 2 tỉnh có sự sụt giảm về tỷ lệ che phủ rừng,
gồm Bắc Giang và Phú Thọ, với sự suy giảm
nhẹ theo thời gian [9].
Chất lượng an sinh xã hội của vùng đã đạt
được cải thiện đáng kể giai đoạn 2004-2018.
Tất cả các tỉnh đều có tỷ lệ dân số đô thị được
cung cấp nước sạch với mức cao, đạt từ 73%
trở lên. Trong đó, Sơn La có tỷ lệ cao nhất, còn
Điện Biên có tỷ lệ thấp nhất [1].
Mặc dù vậy, vùng TDMNBB cũng có
những điều kiện bất lợi về môi trường tự nhiên,
do vị trí địa lý, khí hậu và đặc điểm địa hình,
địa chất [8]. Các loại tai biến thiên nhiên có thể
chia làm ba nhóm chính: i) Động đất và các
hoạt động đứt gãy tân kiến tạo. Từ năm 1900
đến nay, vùng này đã chứng kiến một số trận
động đất đáng kể như tại Điện Biên, đạt 6,8 độ
Richte vào năm 1935 và 5,3 độ Richte vào năm
2001, tại Tuần Giáo đạt 6,7 độ Richte vào năm
1983; ii) Hiện tượng trượt lở, sụt lún đất đá, xói
lở, bồi tụ bờ sông, xảy ra chủ yếu ở khu vực hồ
chứa nước thủy điện Hòa Bình, tại Sơn La, Lai
Châu, Cao Bằng và ở vùng than Quảng Ninh,
dọc các đường quốc lộ; và iii) Các dạng tai biến
địa chất khác, như lũ ống, lũ quyét và hiện
tượng thời tiết cực đoan như mưa bão, rét đậm,
diễn biến thất thường khó dự báo, gia tăng về
tần suất, quy mô và cường độ. Như vậy, tai biến
thiên nhiên cũng tạo rào cản lớn đối với phát
triển kinh tế xã hội của vùng này.
3. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ trong
tổng thể cả nền kinh tế
3.1. Kinh tế
Vùng TDMNBB đang có mức thu nhập
bình quân thấp nhất so với các vùng khác. Năm
2004, thu nhập bình quân của vùng đạt 327
nghìn/tháng, thấp nhất so với các vùng trong cả
nước. Đến năm 2018, vùng này đạt gần 2,5
triệu/tháng, vẫn giữ vị trí thấp nhất về thu nhập
bình quân so với cả nước [1]. Cùng với đó,
trong nhóm dẫn đầu về thu nhập, thứ hạng
không đổi khi so năm 2018 với năm 2004: vùng
Đông Nam Bộ xếp hạng cao nhất, theo sau bởi
vùng Đồng bằng sông Hồng. H
Quá trình bắt kịp về thu nhập bình quân của
vùng TDMNBB với các vùng còn lại chưa đạt
được kết quả khả quan trong giai đoạn 2004-
2018. Theo Hình 4, so với mức chung của cả
nước, thu nhập bình quân tháng của một người
dân tại vùng TDMNBB có xu hướng giảm
xuống tương đối, từ mức 67,5% năm 2004
xuống còn 63,3% năm 2018. Còn khi so với
từng vùng trong cả nước, vùng TDMNBB thu
hẹp khoảng cách về thu nhập với các vùng
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, nhưng kéo dài
khoảng cách với các vùng khác. Đáng lưu ý là
mối tương quan giữa vùng TDMNBB với vùng
Đồng bằng sông Hồng, với thực tế là vùng
TDMNBB được coi như vùng đệm sinh thái,
đảm bảo an ninh môi trường cho vùng Đồng
bằng Bắc Bộ. Thu nhập bình quân của vùng
TDMNBB đạt 65,6% so với vùng Đồng bằng
Bắc Bộ năm 2004, nhưng giảm chỉ còn 50,8%
năm 2018. Đây là mức giảm mạnh nhất khi so
thu nhập vùng TDMNBB với các vùng khác
nhau trong cả nước. Như vậy, thu nhập bình
quân của vùng TDMNBB có xu hướng bị cả
nước bỏ lại phía sau, và xa nhất là vùng Đồng
bằng sông Hồng.
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
25
Hình 4. Tỷ lệ thu nhập của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ với các vùng khác: 2004-2018.
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
3.2. Xã hội
Bất bình đẳng về phân phối thu nhập của
vùng TDMNBB thuộc nhóm dẫn đầu các vùng
trong cả nước. Năm 2004, vùng TDMNBB có
tỷ lệ chênh lệch đạt 6,7, chỉ cao hơn mức chênh
lệch của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung (6,25). Năm 2018, sự chênh lệch thu
nhập của vùng TDMNBB gia tăng đạt 9,7, cao
hơn nhiều vùng khác, và chỉ thấp hơn vùng Tây
Nguyên (9,9). Ngoài ra, năm 2008, hệ số Gini
về phân phối thu nhập của vùng TDMNBB đạt
0,4, thấp hơn mức trung bình cả nước (0,43),
chỉ cao hơn vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung, và Đồng bằng sông Cửu long. Đến
năm 2018, sự bất bình đẳng về phân phối thu
nhập gia tăng tại vùng TDMNBB, đạt 0,443 [1].
Đáng lưu ý là mức này cao hơn trung bình cả
nước, và cao nhất so với các vùng khác. Nhìn
chung, sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập
của vùng TDMNBB đã gia tăng nhanh chóng
và đang dẫn đầu cả nước.
Hình 5. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia theo vùng: 2004-2016.
Nguồn: Tổng cục Thống kê [1].
Vùng TDMNBB cũng có tỷ lệ hộ nghèo
theo chuẩn quốc gia cao nhất cả nước. Hình 5
cho thấy, năm 2004, vùng này có tỷ lệ nghèo
đạt 29,4%, gấp 7 lần so với tỷ lệ thấp nhất cả
nước tại vùng Đông Nam Bộ (4,6%), và đến
năm 2016, vùng này có tỷ lệ nghèo đạt 13,8%,
cao gấp gần 14 lần so với con số 0,6% của vùng
Đông Nam Bộ. Về tốc độ giảm nghèo, vùng
TDMNBB giảm 15,6% tỷ lệ hộ nghèo trong
giai đoạn 12 năm từ 2004 đến 2016. Thành tích
này chỉ thấp hơn con số giảm nghèo tại vùng
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (giảm
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
26
17,3%) và Tây Nguyên (giảm 20,1%). Ngoài ra,
theo số liệu về tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2018,
vùng TDMNBB có tỷ lệ nghèo đạt 18,4%, cao
nhất so với các vùng khác, và cao gấp 3 lần so
với mức trung bình cả nước (6,8%). Tóm lại,
vùng TDMNBB vẫn đang là vùng nghèo nhất
của cả nước.
Chất lượng cuộc sống của người dân vùng
TDMNBB vẫn chưa ngang bằng với các vùng
khác trong cả nước. Về xu hướng chung, tất cả
các vùng đều tăng số giường bệnh qua các năm.
Trong đó, vùng TDMNBB có 39.728 giường
bệnh năm 2018, tăng gấp 1,4 lần so với 27.962
giường bệnh năm 2004. Tuy vậy, mức tăng này
thấp hơn con số tương ứng của cả nước (tăng
1,77 lần) trong cùng giai đoạn 2004-2018 [1].
Xét về tương quan với các vùng khác, vùng
TDMNBB bị tụt hạng về số giường bệnh: năm
2004, vùng này có số giường bệnh cao hơn
vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long, và Tây Nguyên, nhưng đến năm 2018,
vùng này chỉ có số giường bệnh cao hơn vùng
Tây Nguyên. Như vậy, sự cải thiện về cơ sở vật
chất phục vụ chữa bệnh tại vùng TDMNBB
diễn ra chậm hơn so với cả nước.
Ngoài ra, tất cả các vùng đều gia tăng tỷ lệ
hộ gia đình sử dụng điện sinh hoạt giai đoạn
2008-2018. Trong đó, vùng TDMNBB đạt mức
gia tăng cao nhất so với các vùng khác: năm
2018, tỷ lệ hộ dùng điện đạt 96,4%, tăng 1,05
lần so với mức 91,1% năm 2008. Tuy vậy, khi
xét con số tuyệt đối, vùng TDMNBB vẫn nằm ở
vị trí thấp nhất về tỷ lệ hộ gia đình được sử
dụng điện, so với các vùng khác. Như vậy, tốc
độ gia tăng về tỷ lệ phủ điện tại vùng
TDMNBB chưa đủ nhanh, do đó, vùng này vẫn
đang kém hơn các vùng khác.
3.3. Môi trường
Thành tích nổi bật của vùng TDMNBB thể
hiện ở sự duy trì chất lượng tương đối cao về
môi trường so với các vùng khác trong cả nước.
So với mức trung bình của cả nước đạt 41,67%,
vùng Tây Bắc và Đông Bắc, hai tiểu vùng của
vùng TDMNBB, đều có tỷ lệ che phủ rừng cao
hơn. Còn khi so với các vùng khác, hai tiểu
vùng này thuộc nhóm cao của cả nước. Riêng
vùng Đông Bắc đạt 56,72%, chỉ thấp hơn mức
57,65% của Bắc Trung Bộ [9]. Điều này thể
hiện rõ nét vai trò đảm bảo an ninh sinh thái của
vùng TDMNBB. Về vị trí địa lý, vùng này giáp
với vùng Đồng bằng sông Hồng, nơi có tỷ lệ
che phủ rừng rất thấp, đạt 6%. So với vùng
Đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ che phủ rừng của
tiểu vùng Tây Bắc cao gấp hơn 7 lần, còn tiểu
vùng Đông Bắc cao gấp hơn 9 lần. Như vậy,
vùng TDMNBB đóng vai trò như lá phổi xanh
cho vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng và cả
nước nói chung.
Tuy vậy, so với các vùng khác, chỉ duy nhất
vùng TDMNBB bị tụt giảm về tỷ lệ hộ có
nguồn nước hợp vệ sinh, từ mức 89,3% năm
2008 xuống còn 86,8% năm 2018 [1]. Điều này
đặt ra thách thức cho vùng về công tác đảm bảo
an sinh xã hội trong thời gian tới.
4. Kết luận và hàm ý chính sách
Kết quả đánh giá thực trạng phát triển kinh
tế - xã hội của vùng TDMNBB đã làm nổi bật
hai điểm chính về cấu trúc nền tảng của vùng.
Thứ nhất, tồn tại sự phân mảnh về phát triển
kinh tế giữa các tỉnh trong vùng, với một số tỉnh
vượt lên hẳn so với các tỉnh còn lại. Thứ hai,
xét về mức sống thể hiện qua thu nhập bình
quân, vùng này đang bị bỏ lại phía sau so với
các vùng khác trong cả nước. Nhưng điểm sáng
của vùng đó là sự cải thiện ở hầu hết các chỉ
tiêu thể hiện chất lượng cuộc sống như y tế, văn
hóa, giáo dục.
Giải pháp đưa ra cho vùng cần tập trung
vào các điểm nghẽn về cấu trúc kinh tế - xã hội.
Cần thiết kế chính sách khung cho vùng, nhưng
vẫn đảm bảo độ mở phù hợp với sự phân mảnh
về trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong
vùng. Nhóm 5 tỉnh dẫn đầu cần được tiếp tục hỗ
trợ theo hướng bứt phá, đuổi kịp và thậm chí
vượt mức trung bình của cả nước. Theo đó,
nguồn lực nhà nước chỉ cần tạo xúc tác, còn
nguồn lực tư nhân là chủ yếu. Còn nhóm các
tỉnh còn lại cần được hỗ trợ chủ yếu từ ngân
sách nhà nước.
Thêm nữa, cần đưa ra quan điểm phát triển
phù hợp với vùng, trong tương quan với các
L.D. Hung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 18-27
27
vùng khác trong cả nước. Dựa trên đặc thù về vị
trí địa lý, điều kiện thổ nhưỡng và văn hóa - xã
hội, vùng này không nhất thiết phải chú trọng
vào phát triển “nhanh”, mà có thể nghiêng
nhiều hơn về phát triển “bền vững”. Theo đó,
thực trạng bị tụt hậu về mức thu nhập của vùng so
với các vùng khác vẫn được chấp thuận, nhưng cần
chú trọng đến cải thiện triệt để mức sống của người
dân ở các khía cạnh văn hóa, y tế và giáo dục.
Tài liệu tham khảo
[1] Vietnam General Statistics Office, the online
database available at gso.gov.vn.
[2] T.Q. Huy, B.N.H. Anh, T.V. Nguyen, “The
challenge for economic growth in the northen
midland and moutainous area”, The Journal of
Economic and Business Administration 10 (2019)
15-24.
[3] D.Q. Huong, T.T. Huyen, “The cultural
characteristics and the interaction between the
geographic space of different ethic minority in
northen midland and moutainous area in
Vietnam”, Memorandum of International
Conference on Vietnamese Studies, Instutute of
Vietnamese Studies and Development Science,
2015, pp. 397-404.
[4] V.T.T. Minh, “Some environmental solutions for
substainable development in northen midland and
moutainous area in Vietnam”, Journal of Ethic
Minority 169 (2015).
11/5449fa8048b3d4b9b920b93dff8aa4c6-
cema.htm/, 2015 (accessed 05 November 2020).
[5] Vietnam Politburo of Communist Party,
Resolution number 37/NQ-TW issued on
1/7/2004 on the economic-social devlopment and
security enhancement of northen midland and
mountainous area until 2020, 2004.
[6] Vietnam Government, Decision number 980/QĐ-
TTg issued on 21/6/2013 on the implementation
of construction plan for the northen midland and
moutainous area until 2030.
idungquyhoachvung?docid=1895&substract=&str
utsAction=ViewDetailAction.do>'/, 2013
(accessed 05 November 2020).
[7] Vietnam General Statistics Office, “Economic-
Social Database of 63 Provinces, Cities of
Vietnam”.hhttps://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=
512&idmid=5&ItemID=19611/, 2019 (accessed
06 October 2020).
[8] Memorandum of Conference on "Economic-
Social Development and Security Enhancement of
Northen Mildland and Mountainous Area Until
2030, and Projecting to 2045".
[9] Vietnam Admistration of Forestry, Decision
number 911/QĐ-BNN-TCLN issued on
19/03/2019 on the foresty situation.
x/quyet-dinh-so-911qd-bnn-tcln-ngay-19032019-
cua-bo-nong-nghiep-va-phat-trien-nong-thon-
cong-bo-hien-trang-rung-toan-quoc-nam-2018-
3959>/, 2019 (accessed 05 November 2020).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vung_trung_du_va_mien_nui_bac_bo_trong_khong_gian_phat_trien.pdf