Xã hội học - Hệ tư tưởng: Nguồn gốc, nội hàm

Theo K. Marx, chủ thể sản xuất ra “hệ t- t-ởng” và cũng là lập tr-ờng xuất phát của K. Marx là từ con ng-ời đang hành động, có nghĩa là điểm xuất phát của K. Marx là “từ d-ới đất đi lên” để có thể sản sinh ra “hệ t- t-ởng”. Nó hoàn toàn có thể kiểm nghiệm đ-ợc bằng con đ-ờng kinh nghiệm thuần túy. Hoạt động thực tiễn sản xuất luôn biến đổi đã làm cho con ng-ời không ngừng biến đổi. Và nh- vậy thì dĩ nhiên sản phẩm t- duy của con ng-ời - “hệ t- t-ởng” cũng biến đổi theo. Theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thì hoạt động sản xuất chính là nhân tố làm biến đổi “hệ t- t-ởng” chứ không phải ng-ợc lại “hệ t- t-ởng” làm biến đổi hoạt động sản xuất vật chất. “Hệ t- t-ởng” không phải là không có sự biến đổi, mà là sự biến đổi của “hệ t- t-ởng” phụ thuộc vào sự biến đổi của hoạt động sản xuất thực tiễn của con ng-ời. Vì vậy, có thể khẳng định “hệ t- t-ởng” không có tính độc lập tuyệt đối ngoài lịch sử. Sự phát triển phụ thuộc của nó làm cho nó mất đi tính độc lập thật sự. Lịch sử phát triển của “hệ t- t-ởng” chỉ phản ánh lịch sử phát triển của hoạt động thực tiễn của con ng-ời, không tồn tại “hệ t- t-ởng” nào thoát ly khỏi cuộc sống hiện thực: “Những sự trừu t-ợng này, tách rời khỏi lịch sử hiện thực thì tự bản thân chúng hoàn toàn chẳng có giá trị gì hết” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.39). Do đó, nó mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài và nó không có lịch sử, không có sự phát triển. Trong Hệ t- t-ởng Đức, K. Marx khẳng định: “Nh- vậy thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ t- t-ởng cùng với những hình thái ý thức t-ơng ứng với chúng, liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển; chính con ng-ời, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả t- duy lẫn sản phẩm t- duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.38). Nếu chúng ta tách đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và dạng khác của “hệ t- t-ởng” cùng những hình thái ý thức t-ơng ứng với chúng ra khỏi quá trình cuộc sống thực tiễn của con ng-ời để khảo sát tính độc lập tuyệt đối của chúng, chúng ta cũng sẽ khẳng định rằng “không có lịch sử, không có sự phát triển” bởi chúng mất đi h-ớng phát triển về phía tr-ớc. Thực tế thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học vẫn có lịch sử phát triển thể hiện qua quá trình ra đời và phát triển. Nếu phủ nhận lịch sử phát triển của chúng thì chẳng khác gì chúng ta phủ nhận khoa học đạo đức, siêu hình học ở đây, “hệ t- t-ởng” không có tính độc lập tuyệt đối đ-ợc xem xét d-ới góc độ phát triển độc lập của “hệ t- t-ởng”

pdf8 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Hệ tư tưởng: Nguồn gốc, nội hàm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hệ tư tưởng: Nguồn gốc, nội hàm Đinh Thị Ph−ợng(*) Tóm tắt: Hơn 2 thế kỷ ra đời đến nay, “hệ t− t−ởng” vẫn là một trong những khái niệm khó nắm bắt và lý giải. De Tracy, Napoleon là những đại diện tiêu biểu và đầu tiên sử dụng thuật ngữ “hệ t− t−ởng” với hàm nghĩa “lành mạnh” và “không lành mạnh”. K. Marx và F. Engels cũng đã khách quan thừa nhận hai hàm nghĩa trên. Bài viết tìm về nguồn gốc xuất hiện thuật ngữ “hệ t− t−ởng”, đồng thời làm rõ nội hàm khái niệm “hệ t− t−ởng” của K. Marx trên cơ sở phân tích các đặc tr−ng cơ bản của “hệ t− t−ởng”, bao gồm: sự thống nhất giữa tính ảo t−ởng và tính chân thực, sự thống nhất giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, tính giai cấp, tính lịch sử độc lập t−ơng đối... Qua đó, khẳng định trong xã hội có giai cấp, “hệ t− t−ởng” đồng nhất với kiến trúc th−ợng tầng quan niệm và trở thành vũ khí lý luận bảo vệ quyền lực và quyền lợi kinh tế của giai cấp thống trị. Từ khóa: Hệ t− t−ởng, Khoa học về t− t−ởng, Kiến trúc th−ợng tầng, De Tracy, Napoleon, K. Marx, F. Engels “Hệ t− t−ởng” là khái niệm có nhiều cách lý giải khác nhau và ch−a thống nhất. Nhà tâm lý học ng−ời Mỹ McCLelland từng khẳng định: “Hệ t− t−ởng” là khái niệm khó nắm bắt nhất trong toàn bộ khoa học xã hội” (D. McCLelland, 2005, tr.1). Xuất phát từ lập tr−ờng, góc độ phân tích, tiếp cận khác nhau, thậm chí ở các quốc gia khác nhau “hệ t− t−ởng” có nội hàm, đặc tr−ng và chức năng khác nhau. Để có thể giải thích và định nghĩa khái niệm “hệ t− t−ởng” một cách khoa học, chúng ta cần truy về nguồn gốc xuất hiện và làm rõ nội hàm của khái niệm “hệ t− t−ởng”. (*) (*) ThS., NCS. Khoa Triết học và Quản lý công, Tr−ờng Đại học Liêu Ninh, Trung Quốc; Email: noraininthesteppe@gmail.com 1. Nguồn gốc khái niệm “hệ t− t−ởng” Trong tiếng Pháp, thuật ngữ “hệ t− t−ởng” (idéologie) do hai bộ phận là idéo và hậu tố -logie hợp thành. Trong tiếng Hy Lạp, idéo chính là ἰδέα, có nghĩa là t− t−ởng hoặc quan niệm; hậu tố -logie chính là -λογία (lý luận, lý tính). Hậu tố -logie đứng sau tiền tố có tác dụng chỉ một ngành khoa học, một học thuyết. Và nh− vậy, phân tích từ sự cấu thành của từ vựng thì “hệ t− t−ởng” có nghĩa ban đầu là “quan niệm luận” hoặc “quan niệm học” (Zhou MinFeng, 2008, tr.36). Theo giải thích trong Tân từ điển xã hội học do D. K. Mitchell chủ biên (G. D. Mitchell, 1986, tr.168), các kết quả nghiên cứu về “hệ t− t−ởng” đều cho rằng ng−ời sử dụng khái niệm “hệ t− Hệ t− t−ởng... 27 t−ởng” sớm nhất chính là nhà t− t−ởng, nhà triết học thời kỳ đại cách mạng Pháp Antoine Destutt De Tracy (1754- 1836). ông chính là ng−ời đ−a ra khái niệm “hệ t− t−ởng” trong lịch sử triết học ph−ơng Tây. Thuật ngữ “hệ t− t−ởng” lần đầu tiên đ−ợc De Tracy chính thức sử dụng trong tác phẩm Những thành phần của hệ t− t−ởng xuất bản năm 1801-1815, để biểu đạt học thuyết về các nguyên tắc phổ biến và các quy luật phát sinh của t− t−ởng - một bộ môn khoa học mới, “khoa học về t− t−ởng” đ−ợc ông gọi là Ideology. Nhiệm vụ cơ bản của “khoa học về t− t−ởng” là nghiên cứu nguồn gốc, ranh giới và tính tin cậy của t− duy. De Tracy cho rằng, chỉ cần “hệ t− t−ởng” thâm nhập vào bên trong con ng−ời thì con ng−ời có thể vứt bỏ đ−ợc thành kiến và sai lầm vô căn cứ. Theo De Tracy, “hệ t− t−ởng” không chỉ là lý luận giải thích thuần túy mà còn gánh vác sứ mệnh cứu vãn loài ng−ời và phục vụ loài ng−ời, làm cho loài ng−ời thoát khỏi thành kiến. Sử dụng khái niệm “hệ t− t−ởng” vào thời kỳ đầu của thế kỷ XIX khi phong trào Khai sáng đang còn ảnh h−ởng mạnh mẽ, cũng nh− nhiều nhà t− t−ởng cùng thời, De Tracy hoàn toàn tin t−ởng rằng chính phong trào Khai sáng đã giải phóng con ng−ời, giải phóng tính cách con ng−ời, nhân quyền thay thế cho thần quyền, lý tính khoa học thay thế cho chủ nghĩa tín ng−ỡng và lòng tin mù quáng. Nhờ ảnh h−ởng của phong trào Khai sáng mà con ng−ời luôn h−ớng đến các giá trị tự do, bình đẳng, bác ái. Có thể khẳng định phong trào Khai sáng đã tấn công vào cơ sở vững chắc nhất của đêm tr−ờng Trung cổ. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy sự ra đời khái niệm “hệ t− t−ởng”. Là ng−ời theo chủ nghĩa duy cảm, De Tracy luôn đề cập đến các khái niệm: tri giác, hồi t−ởng, phán đoán, ý muốn. Ông cho rằng, mọi hoạt động t− t−ởng của chúng ta chỉ là hoạt động của hệ thống thần kinh và sự sáng tạo của cảm giác mà thôi. Cơ sở và điểm xuất phát trong quan niệm của De Tracy là từ thế giới bên ngoài mà con ng−ời có đ−ợc kinh nghiệm cảm giác. Nói cách khác, con ng−ời thông qua cơ quan cảm giác mà có đ−ợc kinh nghiệm cảm giác. Trong lý luận về “hệ t− t−ởng” của De Tracy không chỉ bao hàm lý luận nhận thức triết học và khoa học ngôn ngữ, mà còn có mối quan hệ mật thiết giữa con ng−ời với hiện thực. Đây chính là điều mà De Tracy muốn thiết lập cơ sở lý luận cho các lĩnh vực nh−: kinh tế, chính trị, đạo đức, tôn giáo. Học thuyết của De Tracy đã đ−ợc nhà chính trị ng−ời Pháp Napoleon ủng hộ. Trong thời gian đầu nắm quyền, Napoleon và các nhà t− t−ởng giữ mối quan hệ hòa thuận. Trong khi Napoleon có ý đồ xây dựng tôn giáo, khôi phục lại chế độ quân chủ thì các nhà t− t−ởng lại có thái độ phê phán và phủ định tôn giáo, thái độ này không chỉ đe dọa tôn giáo mà còn đe dọa quyền uy của cả những ng−ời không theo tôn giáo. Quan niệm của De Tracy đã gặp phải chỉ trích của Napoleon. Ông gọi De Tracy là nhà t− t−ởng “thoát ly thực tế”, “nhà không t−ởng” với quan niệm h− cấu. Đặc biệt năm 1812, thất bại của n−ớc Pháp trong cuộc chiến tranh với n−ớc Nga đã bị quy kết do sự mê hoặc học thuyết của “các nhà t− t−ởng”. Napoleon công khai chỉ trích rằng các nhà t− t−ởng không chỉ sai lầm trong nhận thức hiện thực chính trị và xã hội mà còn là những “ng−ời phá hoại” trật tự nhà n−ớc, tôn giáo. Từ đó, hàm nghĩa của “hệ t− t−ởng” đã có 28 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 sự thay đổi từ nghĩa “lành mạnh” sang “không lành mạnh”. Sau này, thuật ngữ “hệ t− t−ởng” đ−ợc sử dụng khá rộng rãi ở các n−ớc nh−: Pháp, Đức, Anh, Italia Tuy nhiên vẫn tồn tại song song hai nghĩa là “lành mạnh” và “không lành mạnh”, cũng thích hợp với hai nghĩa “nhà t− t−ởng” và “nhà không t−ởng”. Chính sự chuyển biến từ hàm nghĩa “lành mạnh” sang “không lành mạnh” đã làm cho khái niệm này về sau đ−ợc các nhà t− t−ởng và nhà triết học ở mỗi quốc gia lý giải theo những cách khác nhau tùy thuộc vào góc độ tiếp cận và ph−ơng pháp phân tích. “Trong các tác phẩm của K. Marx và F. Engels, khái niệm “hệ t− t−ởng” có địa vị mới, trở thành ph−ơng tiện phê phán và là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống lý luận mới” (John B. Thompson, 2012, tr.36). Hai tác phẩm Hệ t− t−ởng Đức và Lời tựa góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị đã thể hiện tập trung nhất cách lý giải của K. Marx và F. Engels về “hệ t− t−ởng”. Trong Hệ t− t−ởng Đức, K. Marx dùng ph−ơng pháp luận chiến với mục đích làm sáng tỏ quan điểm của phái Hegel trẻ, vì vậy “hệ t− t−ởng” đ−ợc dùng nh− từ mang nghĩa phê phán. Quan điểm của phái Hegel trẻ cho rằng: “Những quan niệm, ý niệm, khái niệm, nói chung những sản phẩm của ý thức mà họ gán cho là có một sự tồn tại độc lập, đều là những xiềng xích thực sự đối với con ng−ời, giống nh− phái Hegel già tuyên bố rằng chúng là những sợi dây ràng buộc thực sự đối với xã hội loài ng−ời” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.27). Phái Hegel trẻ đã dùng khái niệm để phản đối khái niệm, dùng ngôn từ để phản đối ngôn từ. Kết quả là họ chẳng làm thay đổi đ−ợc gì trong hiện thực mà chỉ mang lại cách giải thích khác về hiện thực. Nói cách khác, sự đấu tranh của họ không có sức mạnh cải tạo hiện thực. ở đây, khái niệm “hệ t− t−ởng” đã trở về với nghĩa mà Napoleon dùng để chỉ những t− t−ởng xa rời thực tế, thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử, chính trị - xã hội. Trong Hệ t− t−ởng Đức, thông qua phê phán triết học Đức hiện đại qua các đại diện tiêu biểu (Feuerback, B. Bauer, Stirner), K. Marx không những đ−a “hệ t− t−ởng Đức” trở thành đối t−ợng phân tích đặc biệt mà còn đ−a “hệ t− t−ởng thông th−ờng” trở thành đối t−ợng phân tích phổ biến. Và “hệ t− t−ởng thông th−ờng” đ−ợc chúng ta th−ờng gọi là “hệ t− t−ởng”. Tuy nhiên, K. Marx ch−a chỉ rõ cho chúng ta biết khái niệm “hệ t− t−ởng” là gì. Khi đề cập đến xã hội công dân, K. Marx có nhắc đến “kiến trúc th−ợng tầng t− t−ởng” và khi phê phán sở hữu t− nhân và cạnh tranh, ông đề cập đến khái niệm “tất cả kiến trúc th−ợng tầng t− t−ởng”. ở đây, “tất cả kiến trúc th−ợng tầng t− t−ởng” chúng ta có thể hiểu là: “kiến trúc th−ợng tầng” tức là toàn bộ quan niệm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,v.v... Trong Lời tựa góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, có hai đoạn trích tiêu biểu bàn về “hệ t− t−ởng”. Thứ nhất: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc th−ợng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định t−ơng ứng với cơ sở hiện thực đó” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 13, 2004, tr.15); Thứ hai: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc th−ợng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Khi xét những cuộc Hệ t− t−ởng... 29 đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân biệt cuộc đảo lộn vật chất - mà ng−ời ta có thể xác nhận với một sự chính xác của khoa học tự nhiên - trong những điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại, với những hình thái t− t−ởng trong đó con ng−ời ý thức đ−ợc cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết cuộc xung đột ấy” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 13, 2004, tr.15). Trong hai đoạn trích trên, K. Marx dùng “hình thái ý thức” (hình thái biểu hiện của tinh thần hay ý thức loài ng−ời) và “hình thái t− t−ởng” (toàn bộ hình thái pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học...) để lý giải trực tiếp về “hệ t− t−ởng”. Nh− vậy, “hệ t− t−ởng” là một khái niệm có tính tổng thể bao gồm các hình thái t− t−ởng nh− t− t−ởng chính trị, t− t−ởng pháp lý, t− t−ởng đạo đức, t− t−ởng triết học, t− t−ởng nghệ thuật, t− t−ởng tôn giáo,v.v... đ−ợc hình thành trên cơ sở kinh tế-xã hội nhất định và phản ánh cơ sở kinh tế-xã hội đó. Từ De Tracy, Napoleon đến K. Marx, khái niệm “hệ t− t−ởng” có sự chuyển biến từ hàm nghĩa “lành mạnh”, “tích cực” sang “không lành mạnh”, “không tích cực”. Nếu các nhà triết học Marx ph−ơng Tây bám vào hàm nghĩa “không lành mạnh” để lý giải “hệ t− t−ởng” thì ng−ợc lại triết học Marx đều khách quan khẳng định cả hai hàm nghĩa này. 2. Nội hàm cơ bản của khái niệm “hệ t− t−ởng” của K. Marx Là khái niệm có tính tổng thể phản ánh xã hội có giai cấp, “hệ t− t−ởng” đ−ợc đồng nhất với kiến trúc th−ợng tầng t− t−ởng và trở thành vũ khí lý luận quan trọng của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích kinh tế giai cấp và quyền lực địa vị thống trị. Các kết quả nghiên cứu về “hệ t− t−ởng” đều thống nhất cho rằng, “hệ t− t−ởng” có tính ảo t−ởng, tính giai cấp và đặc biệt là không có tính độc lập tuyệt đối. D−ới đây xin phân tích một số đặc tr−ng cơ bản của “hệ t− t−ởng”. Thứ nhất, sự thống nhất giữa tính ảo t−ởng và tính chân thực của “hệ t− t−ởng” Đặc tr−ng tổn hại nhất của “hệ t− t−ởng” là tính ảo t−ởng. Trong Lời tựa tác phẩm Hệ t− t−ởng Đức, K. Marx đã đề cập đến tính ảo t−ởng của “hệ t− t−ởng”, những ảo t−ởng này đã giày vò con ng−ời, thống trị con ng−ời: “Cho đến nay, con ng−ời luôn luôn tạo ra cho mình những quan niệm sai lầm về bản thân, về mình hiện đang là nh− thế hoặc sau này sẽ là nh− thế nào. Họ đã xây dựng những quan hệ của họ căn cứ vào những quan niệm của họ về thần, về kiểu mẫu của con ng−ời,v.v... Những sản phẩm của bộ óc của họ đã trở thành kẻ thống trị họ. Là những ng−ời sáng tạo, họ lại phải cúi mình tr−ớc những cái họ sáng tạo ra” (C. Mác và Ph. Ăng- Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.19). Tại sao “hệ t− t−ởng” lại có đặc tr−ng này? Đi sâu phân tích lợi ích, ý chí, mong muốn của giai cấp thống trị, chúng ta mới có thể kết luận rằng “hệ t− t−ởng” đó có tính ảo t−ởng hay không. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, K. Marx nhấn mạnh: “luật pháp, đạo đức, tôn giáo đều bị ng−ời vô sản coi là những thành kiến t− sản che giấu những lợi ích t− sản” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 4, 2004, tr.611). Lý do giải thích tại sao luật pháp, đạo đức, tôn giáo là những thành kiến của giai cấp t− sản thống trị là vì những 30 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 thành kiến này phản ánh mối quan hệ xã hội, tuy nhiên đó là phản ánh bị đảo ng−ợc: “ý thức [das Bewuβtsein] không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại đ−ợc ý thức [das bewuβt Sein], và tồn tại của con ng−ời là quá trình đời sống hiện thực của con ng−ời. Nếu nh− trong toàn bộ hệ t− t−ởng, con ng−ời và những quan hệ của họ bị đảo ng−ợc nh− trong một camera obscura(*) thì hiện t−ợng đó cũng sinh ra từ quá trình đời sống lịch sử của con ng−ời, hoàn toàn đúng y nh− hình ảnh đảo ng−ợc của những vật trên võng mạc là sinh ra từ quá trình đời sống thể chất trực tiếp của con ng−ời” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.37). Nh− vậy, có hai nguyên nhân chính làm cho “hệ t− t−ởng” thống trị có tính ảo t−ởng. Thứ nhất là phản ánh bị đảo ng−ợc và thứ hai là hợp lý hóa lợi ích của giai cấp thống trị. Hai nguyên nhân này song song cùng tồn tại làm cho tính ảo t−ởng trở thành đặc tr−ng không thể thiếu của “hệ t− t−ởng” thống trị. Sự khác biệt lớn của “hệ t− t−ởng” mác xít với các “hệ t− t−ởng” khác là ở chỗ, tính ảo t−ởng trong “hệ t− t−ởng” mác xít không mâu thuẫn với tính chân thực. Tính chân thực của “hệ t− t−ởng” đ−ợc thể hiện ngay trong tiền đề xuất phát. Không xuất phát từ tôn giáo, trong Hệ t− t−ởng Đức, K. Marx khẳng định: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền đề hiện thực mà ng−ời ta chỉ có thể bỏ qua trong trí t−ởng t−ợng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng nh− những điều (*) Buồng tối của máy ảnh. kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Nh− vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm đ−ợc bằng con đ−ờng kinh nghiệm thuần túy” (C. Mác và Ph. Ăng- Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.28-29). Xuất phát từ con ng−ời hiện thực luôn hoạt động sản xuất theo một ph−ơng thức nhất định và nằm trong những quan hệ xã hội, chính trị nhất định nên “hệ t− t−ởng” đúng nh− nó biểu hiện trong ngôn ngữ của chính trị, của luật pháp, của tôn giáo, của siêu hình học,v.v... phản ánh những quan hệ hiện thực đó. Tính chân thực của “hệ t− t−ởng” đ−ợc kiểm nghiệm bằng kinh nghiệm thuần túy. Trong “hệ t− t−ởng”, tính ảo t−ởng và tính chân thực gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu nh− tính ảo t−ởng đ−ợc giai cấp thống trị sử dụng để che giấu đi lợi ích, ý muốn thì ng−ợc lại tính chân thực làm cho “hệ t− t−ởng” trở thành hệ thống lý luận đáng tin cậy. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Marx - Lenin xứng đáng là “hệ t− t−ởng” khoa học, là vũ khí lý luận cho loài ng−ời nhận thức và cải tạo thế giới. Thứ hai, “hệ t− t−ởng” với sự thống nhất giữa lợi ích riêng và lợi ích chung Do có sự phân công lao động xã hội mà xã hội phân chia thành các ngành nghề khác nhau. Có ng−ời hoạt động trong lĩnh vực tinh thần, có ng−ời hoạt động trong lĩnh vực vật chất. Sản phẩm lao động đ−ợc phân chia không đồng đều cả về mặt số l−ợng và chất l−ợng sẽ tất yếu xuất hiện những mâu thuẫn lợi ích: lợi ích của cá nhân riêng biệt hay lợi ích của gia đình riêng biệt với lợi ích của tập thể. Lợi ích của tập thể tồn tại với t− cách là “lợi ích chung”. Vì “hệ t− t−ởng” có tính ảo t−ởng nên lợi ích chung đã Hệ t− t−ởng... 31 nhanh chóng tách khỏi lợi ích thực tế của cá nhân và tập thể và mang hình thức của cộng đồng ảo. Vì vậy chỉ còn cách biến lợi ích riêng thành lợi ích chung thì giai cấp thống trị mới “hợp lý hóa” đ−ợc ý chí, nguyện vọng và lợi ích của giai cấp mình. “Hệ t− t−ởng” trở thành công cụ hữu hiệu nhất để đạt đ−ợc mục đích trên. Do đó, trong “hệ t− t−ởng” có sự thống nhất giữa lợi ích riêng và lợi ích chung: “Mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị tr−ớc mình, muốn thực hiện đ−ợc mục đích của mình, đều nhất thiết phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội hay nói một cách trừu t−ợng: phải gắn cho những t− t−ởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những t− t−ởng đó thành những t− t−ởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.68). Thứ ba, tính giai cấp của “hệ t− t−ởng” và “hệ t− t−ởng” của giai cấp thống trị. “Hệ t− t−ởng” bao giờ cũng là của một giai cấp, một bộ phận ng−ời nhất định trong xã hội. Xét về nguồn gốc, bản chất thì mọi “hệ t− t−ởng” đều bảo vệ lợi ích, ý chí của một giai cấp xã hội nhất định. Trong Hệ t− t−ởng Đức, K. Marx khẳng định: “Trong mọi thời đại, những t− t−ởng của giai cấp thống trị là những t− t−ởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực l−ợng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực l−ợng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những t− liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những t− liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung t− t−ởng của những ng−ời không có t− liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.66). Trong xã hội có phân chia giai cấp, “hệ t− t−ởng” của giai cấp thống trị luôn giữ vị trí chủ đạo. Nó điều khiển quan niệm, t− t−ởng của giai cấp khác trong xã hội. Không tồn tại cái gọi là “hệ t− t−ởng” đứng ngoài giai cấp, đứng trên giai cấp. Giai cấp thống trị luôn gắn với t− t−ởng thống trị. Giải thích nh− thế nào về luận điểm này? Con ng−ời luôn là chủ thể tích cực và sáng tạo của mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Giai cấp thống trị cũng là chủ thể t− duy và sáng tạo. Họ sáng tạo ra t− t−ởng, ý thức. Khi họ trở thành giai cấp thống trị trong xã hội thì họ có đầy đủ công cụ, điều kiện để che giấu, để “hợp lý hóa”, để thực hiện những t− t−ởng thống trị. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, K. Marx một lần nữa khẳng định: “Những t− t−ởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những t− t−ởng của giai cấp thống trị” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 4, 2004, tr.625). Giai cấp thống trị ở bất cứ xã hội nào cũng mong muốn thành lập ra tổ chức đặc biệt để bảo vệ quyền lợi thống trị của mình. Và Nhà n−ớc chính là tổ chức đặc biệt đó, là công cụ hữu hiệu để duy trì sự thống trị. Nhà n−ớc với các công cụ đặc tr−ng (quân đội, cảnh sát, tòa án...) đ−ợc ví nh− cánh tay đắc lực giúp giai cấp thống trị thực hiện đ−ợc mục đích thống trị của mình. Bất cứ giai cấp nào muốn thoát khỏi sự thống trị đó đều bị trừng phạt. “Hệ t− t−ởng” và giai cấp thống trị luôn gắn bó mật thiết với nhau. “Hệ t− t−ởng” trở thành công cụ của giai cấp thống trị, giai cấp thống trị thông qua “hệ t− t−ởng” bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của mình. Do vậy, sẽ không 32 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 bao giờ tồn tại một “hệ t− t−ởng” nào đứng bên ngoài giai cấp. Tách “hệ t− t−ởng” ra khỏi giai cấp thống trị chính là chúng ta lại quay về với triết học t− biện. Thứ t−, “hệ t− t−ởng” không có tính độc lập tuyệt đối mà có tính lịch sử t−ơng đối. Theo K. Marx, chủ thể sản xuất ra “hệ t− t−ởng” và cũng là lập tr−ờng xuất phát của K. Marx là từ con ng−ời đang hành động, có nghĩa là điểm xuất phát của K. Marx là “từ d−ới đất đi lên” để có thể sản sinh ra “hệ t− t−ởng”. Nó hoàn toàn có thể kiểm nghiệm đ−ợc bằng con đ−ờng kinh nghiệm thuần túy. Hoạt động thực tiễn sản xuất luôn biến đổi đã làm cho con ng−ời không ngừng biến đổi. Và nh− vậy thì dĩ nhiên sản phẩm t− duy của con ng−ời - “hệ t− t−ởng” cũng biến đổi theo. Theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thì hoạt động sản xuất chính là nhân tố làm biến đổi “hệ t− t−ởng” chứ không phải ng−ợc lại “hệ t− t−ởng” làm biến đổi hoạt động sản xuất vật chất. “Hệ t− t−ởng” không phải là không có sự biến đổi, mà là sự biến đổi của “hệ t− t−ởng” phụ thuộc vào sự biến đổi của hoạt động sản xuất thực tiễn của con ng−ời. Vì vậy, có thể khẳng định “hệ t− t−ởng” không có tính độc lập tuyệt đối ngoài lịch sử. Sự phát triển phụ thuộc của nó làm cho nó mất đi tính độc lập thật sự. Lịch sử phát triển của “hệ t− t−ởng” chỉ phản ánh lịch sử phát triển của hoạt động thực tiễn của con ng−ời, không tồn tại “hệ t− t−ởng” nào thoát ly khỏi cuộc sống hiện thực: “Những sự trừu t−ợng này, tách rời khỏi lịch sử hiện thực thì tự bản thân chúng hoàn toàn chẳng có giá trị gì hết” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.39). Do đó, nó mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài và nó không có lịch sử, không có sự phát triển. Trong Hệ t− t−ởng Đức, K. Marx khẳng định: “Nh− vậy thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ t− t−ởng cùng với những hình thái ý thức t−ơng ứng với chúng, liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển; chính con ng−ời, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả t− duy lẫn sản phẩm t− duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.38). Nếu chúng ta tách đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và dạng khác của “hệ t− t−ởng” cùng những hình thái ý thức t−ơng ứng với chúng ra khỏi quá trình cuộc sống thực tiễn của con ng−ời để khảo sát tính độc lập tuyệt đối của chúng, chúng ta cũng sẽ khẳng định rằng “không có lịch sử, không có sự phát triển” bởi chúng mất đi h−ớng phát triển về phía tr−ớc. Thực tế thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học vẫn có lịch sử phát triển thể hiện qua quá trình ra đời và phát triển. Nếu phủ nhận lịch sử phát triển của chúng thì chẳng khác gì chúng ta phủ nhận khoa học đạo đức, siêu hình học ở đây, “hệ t− t−ởng” không có tính độc lập tuyệt đối đ−ợc xem xét d−ới góc độ phát triển độc lập của “hệ t− t−ởng”. Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, K. Marx đã từng khẳng định: “Tôn giáo, gia đình, nhà n−ớc, pháp luật, đạo đức, khoa học, nghệ thuật,v.v... chỉ là những hình thức đặc biệt của sản xuất và phục tùng quy luật chung của sản xuất” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 42, 2004, tr.291). Đoạn trích trên thể hiện tính Hệ t− t−ởng... 33 lịch sử t−ơng đối của “hệ t− t−ởng”. Phân công lao động thành lao động vật chất và lao động tinh thần là tiền đề cho tính lịch sử t−ơng đối của “hệ t− t−ởng”: “Phân công lao động chỉ trở thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần. Bắt đầu từ lúc đó, ý thức có thể thực sự t−ởng t−ợng rằng nó là một cái gì khác chứ không phải là ý thức về thực tiễn hiện có, rằng nó có thể thực sự đại biểu cho cái gì đó mà không đại biểu cho một cái gì hiện thực cả; bắt đầu từ lúc đó, ý thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và chuyển sang xây dựng lý luận ‘thuần túy’, thần học, triết học, đạo đức,v.v...” (C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập, Tập 3, 2004, tr.45). * * * Tại sao trong bối cảnh hiện nay chúng ta cần phải nghiêm túc nghiên cứu về “hệ t− t−ởng”? D−ới tác động của xu thế hòa bình và phát triển, xu thế toàn cầu hóa cùng với ảnh h−ởng trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, nhiều t− t−ởng cũ trở nên không còn phù hợp, nhiều t− t−ởng mới đua nhau xuất hiện thâm nhập vào đời sống tinh thần của con ng−ời, chi phối trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - cơ sở quyết định trực tiếp sự ra đời và phát triển của “hệ t− t−ởng”. Do đó, chúng ta cần có nhận thức khách quan, đúng đắn về “hệ t− t−ởng”, cần phân biệt đ−ợc đâu là “hệ t− t−ởng” chính thống, tiên tiến, khoa học với các “hệ t− t−ởng” không chính thống, phản khoa học. Kỳ tích trong công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay có dấu ấn sâu đậm của “hệ t− t−ởng”. “Hệ t− t−ởng” Marx- Lenin là ngọn đuốc soi đ−ờng cho nhân loại tiến bộ, cho sự nghiệp xây dựng và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  TàI LIệU trích dẫn 1. C. Mác và Ph. Ăng-Ghen, Toàn tập (2004), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. D. McCLelland (2005), Hệ t− t−ởng, Nxb. Nhân dân Cát Lâm, Tr−ờng Xuân (tiếng Trung). 3. G. D. Mitchell (chủ biên, 1986), Tân từ điển xã hội học (dịch giả: L−u Quang Hoa, Đặng Chí Vĩ), Nxb. Th−ợng Hải (tiếng Trung). 4. Zhou MinFeng (2008), “Hai nguồn gốc và hai tầng nghĩa khái niệm hệ t− t−ởng của K. Marx”, Tạp chí Nghiên cứu học thuật, số 8 (tiếng Trung). 5. John B. Thompson (2012), Hệ t− t−ởng và Văn hóa hiện đại, Nxb. Tập đoàn truyền thông Ph−ợng Hoàng, Nam Kinh (tiếng Trung).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf26149_87806_1_pb_7078.pdf
Tài liệu liên quan