Xã hội học - Hồi lưu chảy máu tinh hoa chất xám: Tiền đề giải quyết tình trạng thiếu lao động lành nghề của châu Âu

Cùng với sự bùng nổ của bong bóng Internet năm 2001 và việc áp dụng nhiều chính sách hạn chế nhập c- hơn do d- chấn của các cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9, số ng-ời di c- từ châu Âu sang Hoa Kỳ đã giảm nhẹ (Ahmed Tritah, 2008, tr.19-21). Tr-ớc tình hình khủng hoảng của Eurozone, tất nhiên, nhiều nhân tài châu Âu lại khăn gói lên đ-ờng. Trong năm năm qua, các n-ớc phải hứng chịu khủng hoảng trên lãnh thổ châu Âu đã chứng kiến một cuộc hành quân về miền đất hứa của những lao động chất l-ợng cao.

pdf9 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 679 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Hồi lưu chảy máu tinh hoa chất xám: Tiền đề giải quyết tình trạng thiếu lao động lành nghề của châu Âu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồi lưu chảy mỏu tinh hoa chất xỏm: Tiền đề giải quyết tỡnh trạng thiếu lao động lành nghề của chõu Âu Edoardo Campanella (2015), “Reversing the elite brain drain: A firt step to address Europe’s skills shortage”, Journal of International Affairs, Spring/Summer 2015, Vol. 68, No. 2, pp.195-209. Tôn Quang Hòa dịch Tóm tắt: Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, làn sóng chảy máu chất xám với c−ờng độ khác nhau tùy theo thời điểm và quốc gia đã làm châu Âu phải nhiều lần khốn đốn. Tuy nhiên, sự thất thoát nguồn vốn con ng−ời này ít khi đ−ợc chuyển hóa thành trao đổi chất xám hoặc đ−ợc bù đắp bằng nguồn nhân tài n−ớc ngoài nhập c− t−ơng xứng. Giờ đây, cách mạng kỹ thuật số và công cuộc tái cấu trúc kinh tế, hệ lụy của khủng hoảng triền miên trong khu vực Eurozone đang khiến cái giá phải trả cho những tổn thất về nguồn vốn con ng−ời ngày càng tăng. Điều này tạo ra sự thiếu hụt lao động lành nghề, làm suy yếu năng lực cạnh tranh toàn cầu của châu Âu. Đến nay, ủy ban châu Âu (EC) đã có những b−ớc đi nới lỏng chính sách nhập c− nhằm thu hút ng−ời n−ớc ngoài có tay nghề cao từ các khu vực trên thế giới. Tuy vậy, phân tích quá khứ thấu đáo chỉ ra rằng đã đến lúc các chính phủ châu Âu phải thu hút những nhân tài ra đi quay trở lại. Các chính sách tập trung vào hồi h−ơng, chứ không phải nhập c−, sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế và chính trị(*). Trong một thế giới mà biên giới quốc gia dần mờ đi và đòi hỏi các kỹ năng lao động ngày càng phức tạp, các chính phủ phải nỗ lực để giữ lại đội ngũ tinh hoa trí tuệ của mình.(*)Khi thể chế kém cỏi, công nghệ trì trệ hay chính trị dựa vào “quan hệ thân tín” khống chế không cho ng−ời ta bộc lộ hết khả năng của mình thì không một đất n−ớc nào, kể cả (*) Bài báo thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phản ánh quan điểm của bất kỳ công ty nào hoặc nơi tuyển dụng mà tác giả đang công tác. những quốc gia phát triển nhất có thể miễn nhiễm tr−ớc tình trạng chảy máu tinh hoa chất xám. Châu Âu là một điển hình với nghĩa này. Trong hơn nửa thế kỷ, những học giả lỗi lạc, những doanh nhân nhiều hoài bão và những nhà khoa học khôn ngoan đã giáng đòn lên chủ nghĩa bảo thủ của châu Âu bằng cách v−ợt Đại Tây D−ơng, tìm đến những tr−ờng đại học xán lạn và hứa hẹn nhiều cơ hội nghề nghiệp. Những ng−ời di c− này không chỉ là những lao động có tay nghề cao nhất của châu Âu, 48 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2016 mà theo nhiều phân tích đánh giá, còn là những nhân tài trong lĩnh vực của mình trên quy mô toàn cầu. “Chất l−ợng” của họ, thể hiện ở quá trình đào tạo và công tác, ngày càng tăng đáng kể theo thời gian. Tóm lại, đây là sự chảy máu chất xám của đội ngũ “tinh hoa nhất” (Frédéric Doquier, Hillel Rapoport, 2009, tr.679-705). Tồi tệ hơn, sự thất thoát nguồn vốn con ng−ời của châu Âu hiếm khi đ−ợc bù đắp xứng đáng bằng nguồn nhân tài n−ớc ngoài nhập c− t−ơng xứng về trình độ từ những nền kinh tế phát triển hoặc đang phát triển. Một châu Âu h−ớng nội, không thích đổi mới không phải là miền đất hứa cho những nhân tài ngoại quốc, những ng−ời dấn thân di c−. Số lao động Mỹ có tay nghề quyết định di c− đến châu Âu thấp hơn nhiều so với số ng−ời châu Âu hiện đang phục vụ trong lực l−ợng lao động của Hoa Kỳ (OECD, 2007, tr.304-307). Đồng thời, những chuyên gia có tay nghề cao nhất của các n−ớc đang phát triển nh− các nhà khoa học, kỹ s−, nghiên cứu viên bậc đại học, th−ờng h−ớng tới Hoa Kỳ nh− quê h−ơng thứ hai của họ (Giovanni Peri, 2005, tr.21-22). Giờ đây, cách mạng kỹ thuật số và công cuộc tái cấu trúc kinh tế, hệ lụy của khủng hoảng trong khu vực Eurozone đang khiến cái giá phải trả cho những tổn thất về nguồn vốn con ng−ời ngày càng tăng cao do đẩy mạnh cầu về nguồn nhân lực có trình độ t−ơng đ−ơng, th−ờng là dân châu Âu di c−. Một mặt, sự sinh sôi nảy nở của các công ty đang khởi nghiệp trong lĩnh vực kỹ thuật số và sự xuất hiện của những công nghệ mang tính đột phá nh− công nghệ robot tiên tiến hay trí tuệ nhân tạo đã thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp một cách triệt để. Mặt khác, bong bóng bất động sản quá cỡ phát nổ và tình trạng thiếu sức cạnh tranh trên diện rộng trong biên giới Eurozone đòi hỏi phải cải tổ kinh tế triệt để. Hai động lực thay đổi này cùng nhau tạo ra sự mất cân bằng về tay nghề lao động khiến chi phí xã hội tăng cao, thất nghiệp dài hạn đối với lao động dôi d− của những khu vực thoái trào, những ng−ời này rất khó tìm việc trong những ngành mới xuất hiện. Thiếu hụt lao động có tay nghề cao đang gia tăng và đã làm tổn th−ơng nền kinh tế châu Âu. Dù đã tận dụng tối đa nguồn nhân lực không đúng tay nghề, hàng năm vẫn còn khoảng 27% chỗ làm trong các nền kinh tế chủ chốt của châu Âu không đ−ợc khỏa lấp vì mất cân bằng tay nghề lao động (Mona Mourshed, Jigar Patel, Katrin Suder, 2014). Chỉ số mất cân bằng tay nghề lao động (Skills Mismatch Index, SMI) của toàn Eurozone - đ−ợc EC và Ngân hàng Trung −ơng châu Âu cùng sử dụng để đo l−ờng tình trạng thiếu hụt tay nghề lao động - hiện đã cao gấp 5 lần so với năm 2007(*). Trái với quy luật thông th−ờng, tình trạng mất cân bằng tay nghề lao động ảnh h−ởng tới cả những lao động có tay nghề cao lẫn lao động không có tay nghề. Điều này chỉ ra rằng, các tr−ờng đại học th−ờng không trang bị cho sinh viên những năng lực thích hợp, theo yêu cầu của thị tr−ờng. Tình trạng này sẽ còn xấu hơn nữa trong t−ơng lai gần. Đến năm 2020, chỉ tính riêng ngành kỹ (*) Chỉ số SMI đo chênh lệch giữa tỷ lệ lao động có học vấn tiểu học, trung học và cao đẳng, đại học trong dân số ở độ tuổi lao động (chúng ta quy −ớc là nguồn cung lao động t−ơng ứng có tay nghề thấp, trung bình và cao) và tỷ lệ tuyển dụng (chúng ta quy −ớc là cầu cho mỗi trình độ học vấn). Để biết thêm chi tiết, xem Edoardo Campanella, Marco Valli (2014), “Labor Market in EMU: Watch Out for Skill Mismatch”, UniCredit Weekly Focus, No. 128 (13/11/2014), tr.3-11. Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 49 thuật số của châu Âu sẽ thiếu hụt 900.000 chuyên gia, trong đó, nền kinh tế năng động của Đức sẽ cần 1 triệu lao động có tay nghề trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) (Monica Houston-Waeach, 2014; European Commission, 2015). Giải quyết tình trạng thiếu lao động có tay nghề của châu Âu đòi hỏi phải có các chiến l−ợc trung và dài hạn. Chính phủ các quốc gia do ủy ban châu Âu điều phối, phải đầu t− vào những ch−ơng trình học tập suốt đời và cải cách hệ thống giáo dục để đáp ứng tốt hơn yêu cầu hiện nay của các nhà tuyển dụng. Nh−ng đào tạo toàn bộ nguồn nhân lực là một nhiệm vụ đầy khó khăn, thách thức, cần nhiều năm mới thu đ−ợc kết quả đầu t−, nếu có. Trong khi chờ đợi, châu Âu cần tập trung thu hút nhân tài từ ngoài n−ớc - dù không hẳn là ng−ời n−ớc ngoài. Một phân tích thấu đáo về nguồn nhập c− và di c− khỏi châu Âu đã chỉ ra: hồi h−ơng có hiệu quả kinh tế và chính trị cao hơn nhiều so với nhập c− mới (Edoardo Campanella, 2014). Làn sóng tinh hoa di c− từ châu Âu Nói một cách không chút c−ờng điệu, vấn đề chảy máu chất xám của châu Âu mang tính hệ thống và vẫn còn bỏ ngỏ. Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, nó là hiện t−ợng xảy ra theo chu kỳ trên lục địa này, dĩ nhiên là với c−ờng độ không giống nhau ở những thời điểm và quốc gia khác nhau. Tập trung vào những giai đoạn đặc thù với những thất thoát lớn về nguồn vốn con ng−ời, bài báo này nêu ra ba làn sóng chảy máu chất xám lớn của châu Âu trong vòng 80 năm qua. Bảng 1 tóm tắt theo dạng biểu các đặc điểm những đợt di c− lớn của nhân tài theo thời gian (mốc bắt đầu đ−ợc xác định dựa trên những biến động làm phát sinh làn sóng di c−); nhân tố đẩy (những điều kiện không thuận lợi trong n−ớc khiến lao động di c−); nhân tố kéo (lực hấp dẫn thu hút ng−ời nhập c− tới một địa điểm nhất định); và n−ớc đến chủ yếu của làn sóng di c−. Bảng 1. Làn sóng chuyên gia có tay nghề cao di c− từ châu Âu Giai đoạn Nhân tố đẩy Nhân tố kéo Nơi đến Làn sóng tái thiết 1945-1965 Hồi phục sau Chiến tranh thế giới thứ Hai; Thiếu nguồn lực cho nghiên cứu khoa học Môi tr−ờng nghiên cứu thân thiện; Chuyển giao ổn thỏa từ chiến tranh sang hòa bình; Tăng c−ờng hỗ trợ nghiên cứu để chạy đua với Liên Xô Hoa Kỳ; Canada Làn sóng Internet 1995-2001 Tình hình kinh tế khá thất vọng Lĩnh vực Internet bùng nổ; Mức l−ơng của lao động có tay nghề cao chênh lệch ngày càng lớn so với lao động có tay nghề thấp; Nền hòa bình kiểu Mỹ (Pax Americana) Hoa Kỳ Làn sóng khủng hoảng châu Âu 2008-đến nay Tái thiết kinh tế hậu khủng hoảng; Các nền kinh tế trì trệ; Các biện pháp thắt l−ng buộc bụng Cách mạng kỹ thuật số Hoa Kỳ; T−ơng đồng ngôn ngữ tại các thuộc địa cũ Hoa Kỳ; Nam Mỹ; châu Phi 50 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2016 Làn sóng di c− lớn đầu tiên của những lao động có tay nghề cao của châu Âu trong thế kỷ XX (Làn sóng tái thiết) bắt đầu từ năm 1945 và kéo dài đến tận năm 1965. Trong giai đoạn 20 năm này, nhiều nhà khoa học và kỹ s− từ Bắc và Tây Âu đã trốn khỏi cảnh bần hàn thời hậu chiến (nhân tố đẩy) bằng cách di c− đến bờ bên kia của Đại Tây D−ơng. Họ cũng khát khao tận dụng nhiều cơ hội nghiên cứu do Mỹ tài trợ để giành chiến thắng trong cuộc chạy đua với Liên Xô (nhân tố kéo) (Jan Vilcek, Bruce Cronstein, 2006, tr.1281-1283). Để gây sự chú ý và chặn đứng sự chảy máu nguồn vốn con ng−ời, năm 1963, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Anh đã xuất bản cuốn Dòng di c− của các nhà khoa học từ V−ơng quốc Anh, báo cáo chỉ rõ tổn thất do các nhà khoa học và kỹ s− Anh chạy sang Hoa Kỳ và Canada (Royal Society, 1963). Sau cuộc tranh biện xã hội nảy lửa, lần đầu tiên thuật ngữ “chảy máu chất xám” đã ra đời trong một bài đăng trên báo Evening Standard (Brian Balmer, Matthew Godwin, Jane Gregory, 2009, tr.339-353). Trong giai đoạn đầu của làn sóng thứ nhất, những tổn thất nguồn vốn con ng−ời tập trung ở những quốc gia châu Âu thịnh v−ợng nhất; tuy nhiên, đến năm 1970, các n−ớc Đông và Nam Âu đã gia nhập đội quân nhập c− có tay nghề cao vào Hoa Kỳ (David M. Reimers, 1981, tr.1-12). Nhờ tình hình kinh tế khá khả quan trong những năm 1970 và 1980, châu Âu đã lấy lại sự hấp dẫn của mình, và các n−ớc thế giới thứ ba đã thay thế châu Âu, trở thành nguồn cung cấp lao động có tay nghề cao cho Hoa Kỳ (David M. Reimers, 1981, tr.1-3). Tuy vậy, sự khốc liệt của chảy máu chất xám th−ờng phụ thuộc vào giá trị nguồn vốn con ng−ời mà dân di c− mang lại (chất l−ợng của dòng ng−ời di c−) chứ không chỉ là số ng−ời di c− (số l−ợng). Vì thế, khi loại trừ các giai đoạn có tỷ lệ lao động di c− thấp, chúng ta có thể sẽ đánh giá không đúng mức những tổn thất về nguồn vốn con ng−ời mà một quốc gia phải gánh chịu, nếu ng−ời di c− có chất l−ợng đặc biệt cao. Khi Bức t−ờng Berlin sụp đổ, cạnh tranh toàn cầu về nhân tài một lần nữa lại ngáng trở châu Âu. Về chính trị, nền Hòa bình kiểu Mỹ (Pax Americana) đã thúc đẩy hội nhập kinh tế và hợp tác lao động. Về kinh tế, sự bành tr−ớng nhanh chóng của Internet đã gia tăng cầu đối với lao động có kỹ năng phức tạp, nâng cao mức l−ơng của những công việc đòi hỏi chất xám và nới rộng khoảng cách về l−ơng bổng giữa hai lục địa (David Autor, Lawrence Katz, Melissa S. Kearney, 2006, tr.189-194). Sự kết hợp giữa hai động lực chính trị và kinh tế này (nhân tố kéo) làm khởi phát “Làn sóng Internet”, tạo ra dòng chảy máu nguồn vốn con ng−ời một chiều từ châu Âu sang Hoa Kỳ trong giai đoạn 1995- 2001 (Gilles Saint-Paul, 2004). Trong giai đoạn này, số ng−ời di c− tăng mạnh so với thập kỷ tr−ớc, nh−ng ch−a đến mức tạo ra nỗi lo nh− một cuộc hành quân về miền đất hứa. Trung bình, xét tổng thể các nền kinh tế chủ chốt châu Âu, ch−a đến 2% nguồn nhân lực di c− ra n−ớc ngoài (Ahmed Tritah, 2008, tr.18-21). Hơn nữa, những thất thoát này phần nào đ−ợc bù đắp bằng nguồn lao động nhập c− từ các khu vực khác của thế giới. Theo một vài tính toán, đến năm 2000, 15 n−ớc thành viên của Liên minh châu Âu (EU15) phải gánh chịu sự ra đi của 120.000 lao động có trình độ đại học tới các khu vực khác của thế giới (chỉ chiếm 0,3% nguồn nhân lực có tay nghề cao của Liên minh) (Frédéric Docquier, Hillel Rapoport, 2012, tr.681-730). Điều Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 51 Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã tạo ra các cơ hội hiếm có cho những lao động có tay nghề cao tại Hoa Kỳ này có thể lý giải sức ì của các nhà hoạch định chính sách. Cùng với sự bùng nổ của bong bóng Internet năm 2001 và việc áp dụng nhiều chính sách hạn chế nhập c− hơn do d− chấn của các cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9, số ng−ời di c− từ châu Âu sang Hoa Kỳ đã giảm nhẹ (Ahmed Tritah, 2008, tr.19-21). Tr−ớc tình hình khủng hoảng của Eurozone, tất nhiên, nhiều nhân tài châu Âu lại khăn gói lên đ−ờng. Trong năm năm qua, các n−ớc phải hứng chịu khủng hoảng trên lãnh thổ châu Âu đã chứng kiến một cuộc hành quân về miền đất hứa của những lao động chất l−ợng cao. Tại Hy Lạp, nơi ngay cả Chính phủ cũng không thể trả chi phí đặt báo đối với các tạp chí học thuật chủ yếu, khoảng một phần m−ời cộng đồng học giả Hy Lạp đang làm việc ở n−ớc ngoài, phần lớn là ở V−ơng quốc Anh và Hoa Kỳ (Varvara Trachana, 2013, tr.271). Trong năm 2011, 100.000 lao động có tay nghề rời khỏi Bồ Đào Nha, theo lời kêu gọi của Thủ t−ớng Pedro Passos Coelho hối thúc thanh niên thất nghiệp di c− ra n−ớc ngoài trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm giải quyết tình trạng thiếu việc làm trong n−ớc (Edoardo Campanella, 2012). Hiện nay, dân châu Âu ngày càng di c− nhiều hơn đến châu Phi và Nam Mỹ chứ không chỉ đến Hoa Kỳ nh− tr−ớc đây. Lao động Tây Ban Nha và Đồ Đào Nha th−ờng di c− đến các thuộc địa cũ của mình, tận dụng lợi thế t−ơng đồng ngôn ngữ tại các n−ớc đến (Edoardo Campanella, 2012). Trong khi tình hình kinh tế châu Âu ảm đạm chắc chắn là nhân tố chủ yếu kích hoạt dòng chảy máu chất xám mới này, những thay đổi công nghệ sâu rộng cũng góp phần vào việc ra đi của nhân tài. Cụ thể là, cuộc cách mạng kỹ thuật số đã tạo ra các cơ hội hiếm có cho những lao động có tay nghề cao tại Hoa Kỳ. Nhiều doanh nhân châu Âu đã tái định c− tại Thung lũng Silicon ở California, nhiều nhà nghiên cứu và nghiên cứu sinh trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học đã chuyển địa điểm nghiên cứu. Ví dụ, trong năm 2009, 16% số tiến sĩ của Ireland và 18% nghiên cứu viên của Đức đã di chuyển tới bờ bên kia của Đại Tây D−ơng (Frédéric Docquier, Hillel Rapoport, 2012, tr.715). Rốt cuộc, các dự án nghiên cứu đ−ợc triển khai tại các cơ sở của Mỹ đã cho ra đời nhiều bằng sáng chế hơn và đ−ợc trích dẫn nhiều hơn (Ahmed Tritah, 2008, tr.21-25). Phân tích quá khứ ở trên chỉ là một phần thông tin về quy mô chảy máu chất xám của châu Âu bởi ít nhất hai lý do. Thứ nhất, nó chỉ xem xét đến dòng lao động di c− và nhập c− vào châu Âu mà không tính đến chảy máu chất xám ngay trong châu lục này. Nếu chỉ xét riêng nội bộ châu lục, thì cuộc hành quân của nhân tài từ n−ớc này sang n−ớc khác chỉ là “lọt sàng xuống nia”, bên đ−ợc nhận h−ởng lợi đúng bằng cái mất của bên cho. Do đó, cần phải loại bỏ những hiện t−ợng nh− dòng lao động tay nghề cao từ khối Xô viết tr−ớc đây sang áo và Đức do d− chấn sự sụp đổ của Bức t−ờng Berlin (Dietrich Thranhardt, 2009). Thứ hai, luận điểm của bài báo này tập trung vào vấn đề di c− do động lực kinh tế, loại bỏ dòng di c− của thiểu số ng−ời châu Âu (đặc biệt là ng−ời Do Thái) có trình độ cao, bị ng−ợc đãi trong hai cuộc Chiến tranh thế giới (Jan Vilcek, Bruce Cronstein, 2006, tr.1281-1283). 52 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2016 Đánh mất tinh hoa Mỗi làn sóng chảy máu chất xám đều có những đặc tr−ng riêng. Trong một số tr−ờng hợp, nhân tố đẩy giữ vai trò lớn hơn nhân số kéo. Cả làn sóng tái thiết và làn sóng khủng hoảng Eurozone đều khởi phát từ tình trạng tuyệt vọng của kinh tế châu Âu. Trái lại, làn sóng Internet lại khởi phát từ các cơ hội cực kỳ hấp dẫn ở Hoa Kỳ. Đồng thời, điểm đến chủ yếu của làn sóng tái thiết và làn sóng Internet đều là Hoa Kỳ, trong khi toàn cầu hóa hiện đang đẩy những ng−ời châu Âu bất đắc dĩ tới bất kỳ ngõ ngách nào của địa cầu. Dù đặc điểm của mỗi đoàn quân tinh hoa có khác nhau tùy từng giai đoạn, nh−ng động lực khiến những ng−ời châu Âu có tay nghề cao phải di c− thì hầu nh− không thay đổi theo thời gian. Nh− đã đ−ợc miêu tả rộng rãi trong các tài liệu học thuật về di c−, những ng−ời di c− có tay nghề cao di chuyển đến các n−ớc nơi trình độ của họ đ−ợc trả công cao nhất (“sàng lọc tích cực”) (George Borjas, 1999, tr.1697- 1760). Các tr−ờng đại học và tập đoàn Mỹ trả l−ơng cao hơn là nhân tố then chốt của “làn sóng tái thiết” (Brian Balmer, Matthew Godwin, Jane Gregory, 2009, tr.351-353). Trong những năm 1990, sự khác biệt ngày càng lớn về l−ơng bổng giữa Hoa Kỳ và châu Âu do trả công cao hơn cho những lao động có hàm l−ợng chất xám cao và cơ chế thuế thuận lợi hơn đã khích lệ nhiều ng−ời châu Âu rời khỏi lục địa này (Ahmed Tritah, 2008, tr.9). Theo khảo sát gần đây của Nature, một tạp chí khoa học quốc tế, l−ơng bổng cao hơn vẫn là một nhân tố quan trọng đối với những nhà khoa học đang muốn di c− hiện nay (Richard Van Noorden, 2012, tr.326-329). Nh−ng những điều kiện kinh tế hấp dẫn hơn ch−a đủ để áp chế cái giá phải trả cho sự di c−. Còn có những động lực mạnh mẽ hơn l−ơng bổng cao, th−ờng liên quan đến sự kém cỏi của cơ chế ở cấp độ quốc gia, khiến ng−ời ta ra đi. Theo báo cáo đã đề cập ở trên của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Anh, trong những năm 1950 và 1960, các nhà khoa học đã rời Quần đảo Anh để tìm đến các cơ sở nghiên cứu tốt hơn và nguồn kinh phí do Hoa Kỳ đài thọ (Brian Balmer, Matthew Godwin, Jane Gregory, 2009, tr.352-353). Ngày nay, các nhà nghiên cứu châu Âu th−ờng phàn nàn về đầu t− thấp vào nghiên cứu và phát triển, những công việc nghiên cứu không hấp dẫn hoặc không ổn định, và bị quá tải trong nhiệm vụ quản lý hành chính (Frédéric Doquier, Hillel Rapoport, 2012, tr.716). Đội quân này không chỉ bao gồm giới học thuật. Nhiều doanh nhân châu Âu muốn tới Thung lũng Silicon để phá vỡ hàng rào điều tiết quá cao từng bóp nghẹt đổi mới ở châu Âu (“European Entrepreneurs”, com/node/21559618). Tuy nhiên, có một điều đã thay đổi kể từ những làn sóng chảy máu chất xám đầu tiên. “Chất l−ợng” của ng−ời di c−, tức là mức độ chọn lọc ng−ời di c− trên thang chất l−ợng lao động, đã tăng lên đáng kể theo thời gian. Theo một vài chỉ số hiệu quả lao động, quy số năm đào tạo thành mức l−ơng t−ơng ứng, trong giai đoạn 1985-2006, tổng số vốn con ng−ời do ng−ời di c− châu Âu mang lại đã tăng lên (Ahmed Tritah, 2008, tr.31-35). Hơn thế, tại thị tr−ờng lao động Hoa Kỳ, ng−ời di c− châu Âu đ−ợc trả các khoản ngoài l−ơng khá lớn so với những lao động Mỹ, và khoản chênh lệch này đã tăng lên trong hai thập kỷ Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 53 vừa qua đối với ng−ời di c− từ các nền kinh tế chủ chốt của châu Âu, trừ Italia. Mặc dù các khoản ngoài l−ơng có thể là một hình thức bù đắp cho cái giá của di c−, nh−ng nó cũng thể hiện trình độ tay nghề trung-cao cấp của nhiều ng−ời di c− châu Âu (Ahmed Tritah, 2008, tr.37- 41). Chất l−ợng về trình độ học vấn và kinh nghiệm chuyên môn đ−ợc ng−ời di c− tích lũy không phải là yếu tố liên quan mật thiết nhất quyết định tính khốc liệt của chảy máu chất xám. Những đặc điểm khác của các dòng di c− nh− tính sáng tạo hay tinh hoa trí tuệ của ng−ời di c− mới quan trọng hơn nh−ng cũng rất khó đo đếm. Hình 1 thể hiện chất l−ợng trung bình của các nhà khoa học ở lại trong n−ớc và di c− (lần thứ nhất) tại một quốc gia cụ thể từ năm 1996 đến năm 2011(*). Chất l−ợng (*) Để biết thêm chi tiết chỉ số chất l−ợng của các nhà khoa học đ−ợc xây dựng nh− thế nào, xem OECD (2013), “Science, Technology and Industry Scoreboard 2013”, report, Paris, của một nhà nghiên cứu đ−ợc thể hiện bằng tác động của những ấn phẩm của mình và giúp đo trục chủ quan của tình trạng chảy máu chất xám. Trạng thái lý t−ởng là, một đất n−ớc có vị trí ở d−ới đ−ờng xiên 45 độ và ở góc phần t− phía d−ới, bên phải của đồ thị, điều này khẳng định các nhà khoa học ở lại trong n−ớc có chất l−ợng tốt hơn những nhà khoa học di c−. Biểu đồ cho thấy những nền kinh tế lớn nhất châu Âu không chỉ mất đi một số nhà nghiên cứu có trình độ cao nhất mà còn mất cả những lao động có chuyên môn cao nhất trong lĩnh vực của mình. Chỉ Hoa Kỳ là có khả năng giữ lại những nhà khoa học có trình độ t−ơng đ−ơng với những nhà khoa học di c−. Các nghiên cứu tập trung vào những nhà vật lý đ−ợc trích dẫn nhiều nhất thế giới cũng đi đến kết luận t−ơng tự. Những ng−ời di c− từ châu Âu đến Bắc Mỹ có năng suất cao nhất với chỉ số H- index(*) trung bình là 63,1 (Rosalind S. Hunter, Andrew J. Oswald, Bruce G. Charlton, 2009, tr.231-251). Nhìn vào các nhà khoa học có ảnh h−ởng nhất đến thế giới, V−ơng quốc Anh (là quốc gia châu Âu duy nhất có cơ 134–135. (*) H-index là chỉ số cho biết năng suất và tầm ảnh h−ởng của các ấn phẩm của nhà nghiên cứu. 54 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2016 sở nghiên cứu có thể sánh đ−ợc với Hoa Kỳ) đã đánh mất khả năng thu hút những ng−ời nhập c− từ khắp nơi đạt giải Nobel trong t−ơng lai nh− tr−ớc đây, thay vào đó đã trở thành nhà “chuyên cung cấp” những ng−ời đạt giải Nobel trong các ngành khoa học. Trong giai đoạn 1967-1986, khoảng 25% những ng−ời đạt giải Nobel ở V−ơng quốc Anh là ng−ời nhập c−, trong khi những năm từ 1987-2006, tỷ lệ này giảm xuống còn 0% (Rosalind S. Hunter, Andrew J. Oswald, Bruce G. Charlton, 2009, tr.234-240). (còn nữa) Tài liệu trích dẫn 1. Ahmed Tritah (2008), “The Brain Drain between Knowledge-Based Economies: the European Human Capital Outflow to the US”, Working paper No.8, Centre d’études Prospectives et d’Informations Internationales, Paris, /wp2008-08.pdf 2. Brian Balmer, Matthew Godwin, Jane Gregory (2009), “The Royal Society and the ‘Brain Drain’: Natural Scientists Meet Social Science”, Notes and Records of the Royal Society 63, No.4, /content/roynotesrec/63/4/339.full.pdf 3. Daron Acemoðlu (2002), “Technical Change, Inequality and the Labor Market”, Journal of Economic Literature 40, No.1. 4. David Autor, Lawrence Katz, Melissa S. Kearney (2006), “The Polarization of the US Labor Market”, American Economic Review 96, No.2. 5. David M. Reimers (1981), “Post- World War II Immigration to the United States: America’s Latest Newcomers”, Annals of the American Academy of Political and Social Science 454, No.1. 6. Dietrich Thranhardt (2009), “The Future of International Migration to OECD Countries: Regional Note Russia and South East Europe”, in OECD (2009), “The Future of International Migration”, International Futures Programme Report, Paris. 7. Edoardo Campanella (2012), “Europe’s Crisis of Tongues”, Project Syndicate (6/8/2012), project- syndicate.org/commentary/europe-s- crisis-of-tongues-by-edoardo- campanella 8. Edoardo Campanella (2014), “Come Home, Europeans”, Foreign Affairs (16/10/2014), foreignaffairs.com/articles/142218/e doardo-campanella/come-home- europeans 9. European Commission (2015), “Grand Coalition for Digital Jobs”, Digital Agenda for Europe: A Europe 2020 Initiative, 3/2/2015, agenda/en/ digital-jobs-0#Article 10. “European Entrepreneurs: Les Misérables”, Economist (28/7/2012), node/21559618 11. Frédéric Doquier, Hillel Rapoport (2009), “Documenting the Brain Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 55 Drain of la ‘crème de la crème’: Three Case Studies on International Migration”, Journal of Economics and Statistics 229, No.6, 10.1257/jel.50.3.681 12. Frédéric Docquier, Hillel Rapoport (2012), “Globalization, Brain Drain and Development”, Journal of Economic Literature 50, No.3. 13. George Borjas (1999), “The Economic Analysis of Immigration”, in Handbook of Labor Economics, ed. Orley C. Ashenfelter, David Card, Elsevier, Amsterdam. 14. Gilles Saint-Paul (2004), “The Brain Drain: Some Evidence from European Expatriates in the United States”, Discussion Paper, No.1310, Institute for the Study of Labor (IZA), Bonn, Germany. 15. Giovanni Peri (2005), “Skills and Talent of Immigrants: a Comparison between the European Union and the United States”, working paper AY0503-4, Institute of European Studies, UC Berkeley, Berkeley, CA, 4/3/2005. 16. Jan Vilcek, Bruce Cronstein (2006), “A Prize for the Foreign- born”, FASEB Journal 20, No.9 (7/2014). 17. Mona Mourshed, Jigar Patel, Katrin Suder (2014), “Education to Employment: Getting Europe’s Youth into Work”, report, McKinsey & Company, New York, 1/2014. 18. Monica Houston-Waeach (2014), “Germany Grapples with Growing Shortage of Skilled Labor”, Wall Street Journal, 6/6/2014, ny-grapples-with-growing- shortage-of- skilled-labor- 1402064223 19. OECD (2007), “Organization for Economic Co-operation and Development (OECD), Education at a Glance 2007”, Paris. 20. OECD (2013), “Science, Technology and Industry Scoreboard 2013”, report, Paris, 2013.pdf 21. Richard Van Noorden (2012), “Science on the Move”, Nature 490 (18/10/2012), com/polopoly_fs/1.11602!/menu/m ain/topColumns/topLeftColumn/p df/490326a.pdf 22. Rosalind S. Hunter, Andrew J. Oswald, Bruce G. Charlton (2009), “The Elite Brain Drain”, Economic Journal 119, No.538 (6/2009), ct.com/content/bpl/ecoj/2009/000001 19/00 000538/art00001 23. Royal Society (1963), “Emigration of Scientists from the United Kingdom: Report of a Committee Appointed by the Council of the Royal Society”, London. 24. Varvara Trachana (2013), “Austerity-led Brain Drain is Killing Greek Science”, Nature 496 (18/4/2013).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf26136_87754_1_pb_7599.pdf
Tài liệu liên quan