Quan điểm hiện đại hoặc/và
quan điểm hậu hiện đại về Nghiên
cứu cơ bản
Quan điểm hiện đại chủ nghĩa
(Modernism) dựa trên hệ quan
điểm/tiếp cận cổ điển trong triết học và
khoa học cụ thể. Theo đó thì các Khung
mẫu (Paradigm) lý thuyết, các Đại tự sự
(Grands Récit = Thuật ngữ của J. F.
Lyotard) mới xứng tầm nghiên cứu cơ
bản. Khuynh h-ớng nổi trội của quan
điểm hiện đại chủ nghĩa về Nghiên cứu
cơ bản là đề cao Quy giản luận
(Reductionism) và Tất định luận
(Determinism). Đây là cơ sở cho các
quan điểm duy/vị cực đoan nh- Chủ
nghĩa duy vật khoa học (Scientific
Materalism)
8 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 703 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Khái niệm và quan niệm về Nghiên cứu cơ bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khỏi niệm và quan niệm về Nghiờn cứu cơ bản
Tô Duy Hợp(*)
Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích 3 cấp độ từ nội hàm sơ bộ, nội hàm cơ bản
đến nội hàm đầy đủ của khái niệm Nghiên cứu cơ bản, qua đó chỉ rõ tình trạng nan
đề thể hiện d−ới dạng cặp đối/hợp khái niệm. Đồng thời, làm rõ một số quan điểm
về Nghiên cứu cơ bản nh−: Quan điểm giản đơn hoặc/và Quan điểm phức hợp,
Quan điểm mác xít hoặc/và Quan điểm phi mác xít, Quan điểm thực chứng
hoặc/và Quan điểm phản thực chứng, Quan điểm hiện đại hoặc/và Quan điểm hậu
hiện đại; chỉ ra tình trạng song đề giữa các quan điểm về Nghiên cứu cơ bản. Hai
tình trạng này có thể đ−ợc thấu hiểu và hóa giải dựa trên cơ sở một số khung lý
thuyết nền tảng của triết học và khoa học đ−ơng đại nh− khung mẫu t− duy phức
hợp của Edgar Morin và khung lý thuyết khinh - trọng của Tô Duy Hợp và cộng sự.
Từ khóa: Nghiên cứu cơ bản (Nghiên cứu cơ bản thuần túy, Nghiên cứu cơ bản
định h−ớng), Nghiên cứu ứng dụng, Nghiên cứu triển khai
1. Định nghĩa khái niệm Nghiên cứu cơ bản
Nội hàm sơ bộ của khái niệm
Nghiên cứu cơ bản(*)
Theo Đại Từ điển tiếng Việt:
“Nghiên cứu” có nghĩa là “xem xét, làm
cho việc nắm vấn đề dễ nhận thức, tìm
cách giải quyết”; còn “cơ bản” có nghĩa
là “có tác dụng làm nền, làm gốc trong
hệ thống nào đó” (Đại Từ điển tiếng
Việt, 1998, tr.464, 1197). Nghiên cứu
(Study, Research, Investigation, Inquiry)
là một dạng hoạt động của con ng−ời,
nh−ng không phải mọi hoạt động đều là
nghiên cứu. Dạy và học không phải là
(*) GS.TS., Giám đốc Trung tâm Khoa học T− duy,
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam;
Email: toduyhop42@yahoo.com
nghiên cứu(*). Nhận thức thông th−ờng
hàng ngày không phải là nghiên cứu.
Lao động chân tay, giản đơn không phải
là nghiên cứu. Hoạt động tái tạo không
phải là nghiên cứu. Giao tiếp hàng
ngày, vui chơi giải trí không phải là
nghiên cứu. Nghỉ ngơi thì càng không
phải là nghiên cứu. Bởi vì, nghiên cứu là
một dạng hoạt động đặc biệt, một năng
lực nhận thức, t− duy và hành động
chuyên tâm, chuyên cần, chuyên môn
nhằm tạo ra sản phẩm mới so với những
khuôn mẫu sẵn có của nhận thức, t− duy
và hành động thông th−ờng hàng ngày.
Nghiên cứu trong triết học và khoa học
cụ thể là dạng hoạt động sáng tạo, hoặc
(*) Cái gọi là “Nghiên cứu tài liệu” trong quá trình
học tập không phải là nghiên cứu theo đúng
nghĩa của nó; đó chẳng qua chỉ là nhận thức lại
thành quả của nghiên cứu đích thực.
4 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016
là phát hiện hoặc là tổng kết để có tri
thức mới, ph−ơng pháp mới, công nghệ
mới. Theo quan niệm phổ biến hiện nay,
một cách sơ bộ ng−ời ta có thể xác định
rằng Nghiên cứu cơ bản (Fundamental
Research) không phải là Nghiên cứu ứng
dụng (Applied Research), càng không
phải là Nghiên cứu triển khai
(Development Research). Ng−ời ta đã tạo
ra đ−ờng phân ranh sơ bộ giữa Nghiên
cứu cơ bản và Nghiên cứu không cơ bản
(bao gồm Nghiên cứu ứng dụng và
Nghiên cứu triển khai). Nhìn vào cơ cấu
đội ngũ những nhà nghiên cứu có thể
nhận thấy tình trạng năng lực nghiên
cứu cơ bản chỉ có ở một số rất ít ng−ời,
đó là năng lực quý hiếm(*). Nghiên cứu
ứng dụng thì nhiều ng−ời có thể tham
gia ở các cấp độ và công đoạn khác
nhau, đây là năng lực đại trà. Nghiên
cứu triển khai càng để ngỏ khả năng
cho nhiều ng−ời tham gia cùng một lúc
hoặc vào các giai đoạn khác nhau, là
năng lực phổ thông.
Nội hàm cơ bản của khái niệm
Nghiên cứu cơ bản
Ta hãy xem xét định nghĩa về
Nghiên cứu cơ bản trong Từ điển Bách
khoa Việt Nam: “Nghiên cứu cơ bản
những hoạt động khoa học nhằm phát
hiện các thuộc tính, các mối quan hệ,
các quy luật khách quan của sự vật hay
hiện t−ợng. Kết quả của nó biểu hiện ở
việc tìm ra các thuộc tính, các hiện
t−ợng mới, các mối quan hệ, các quy
(*) Trong triết học ph−ơng Tây, đó là Aristotle,
Plato, Democrit, Heraclit, Socrat, F. Bacon, R.
Descartes, G. Berkeley, I. Kant, G.W.F. Hegel, K.
Marx, A. Comte, Trong khoa học ph−ơng Tây,
đó là Euclid, N.I. Lobachevsky, Pythagoras, G.
Cantor, G.W. Leibniz, Galileo Galilei, I. Newton,
A. Einstein, N. Bohr, W. Heisebgerg, D. I.
Mendeleyev, C. R. Darwin, A. Comte, K. Marx,
M. Weber,
luật mới của hiện thực khách quan, xây
dựng nên các suy luận logic, khái niệm,
quan niệm, giả thuyết, lý thuyết mới
nhằm phản ánh ngày càng sâu sắc hơn
các thuộc tính khách quan vốn có của sự
vật và hiện t−ợng” (Từ điển Bách khoa
Việt Nam, Tập 3, 2003, tr.116). Trong
định nghĩa này ta thấy có sự đồng nhất
“Nghiên cứu nói chung” với “Nghiên cứu
khoa học”, không phân biệt rõ Nghiên
cứu cơ bản với Nghiên cứu không cơ
bản. Tuy có ghi nhận đặc tr−ng quan
trọng của Nghiên cứu cơ bản là “ xây
dựng nên các suy luận logic, khái niệm,
quan niệm, giả thuyết, lý thuyết mới
nhằm phản ánh sâu sắc hơn các thuộc
tính khách quan vốn có của sự vật và
hiện t−ợng”, nh−ng không phân biệt rõ
“cái mới cơ bản” và “cái mới không cơ
bản”. Ngoài ra, định nghĩa này vẫn
ch−a làm rõ đ−ợc những đặc tr−ng cơ
bản của Nghiên cứu cơ bản trong triết
học và khoa học cụ thể. PGS.TS. Vũ Cao
Đàm đã làm rõ đ−ợc sự khác biệt giữa
Nghiên cứu khoa học và Nghiên cứu cơ
bản. Trả lời câu hỏi: “Nghiên cứu khoa
học là gì?”, ông cho rằng: “Nghiên cứu
khoa học nói cho cùng là nhằm thỏa
mãn về nhu cầu nhận thức và cải tạo
thế giới: 1- Khám phá những thuộc tính
bản chất của sự vật hoặc hiện t−ợng
(sau đây gọi chung là sự vật); 2- Phát
hiện quy luật vận động của sự vật; 3-
Vận dụng quy luật để sáng tạo giải
pháp tác động vào sự vật” (Vũ Cao Đàm,
1996, tr.23). Theo ông, Nghiên cứu khoa
học có một số chức năng cơ bản sau: a-
Mô tả, b- Giải thích(*), c- Tiên đoán; d-
Sáng tạo (Vũ Cao Đàm, 1996, tr.23-26).
Nghiên cứu khoa học nói chung có
những đặc điểm sau: i- Tính mới, ii-
(*) Theo M. Weber thì tr−ớc khi giải thích cần tìm
hiểu và mục đích của nghiên cứu là phải h−ớng tới
Verstehen (= thấu hiểu ý nghĩa) của các sự kiện.
Khái niệm và quan niệm về 5
Tính tin cậy, iii- Tính thông tin(*), iv-
Tính khách quan, v- Tính rủi ro (Risk),
vi- Tính kế thừa, vii- Tính cá nhân, viii-
Tính phi kinh tế (Vũ Cao Đàm, 1996,
tr.28-32).
Vậy xét về thực chất, Nghiên cứu cơ
bản và Nghiên cứu không cơ bản chủ
yếu khác nhau ở điểm nào? Với t− cách
là một loại hình nghiên cứu, “Nghiên
cứu cơ bản là những nghiên cứu nhằm
phát hiện về bản chất và quy luật của
các sự vật hoặc hiện t−ợng trong tự
nhiên, xã hội, con ng−ời Kết quả của
nghiên cứu cơ bản luôn là những phân
tích lý luận, những kết luận về quy luật,
những định luật, định lý,v.v Cuối
cùng, trên cơ sở những nghiên cứu này,
ng−ời nghiên cứu đ−a ra đ−ợc những
phát hiện, phát kiến, phát minh, xây
dựng nên những cơ sở lý thuyết có giá
trị tổng quát cho lĩnh vực hoạt động”
(Vũ Cao Đàm, 1996, tr.33-34).
Nghiên cứu ứng dụng là một loại
hình nghiên cứu khác với Nghiên cứu cơ
bản: “Nghiên cứu ứng dụng là sự vận
dụng các quy luật từ trong Nghiên cứu
cơ bản (th−ờng là Nghiên cứu cơ bản
định h−ớng) để đ−a ra nguyên lý về giải
pháp, có thể bao gồm công nghệ, sản
phẩm, vật liệu, thiết bị; Nghiên cứu áp
dụng các kết quả nghiên cứu ứng dụng
vào trong một môi tr−ờng mới của sự
vật và hiện t−ợng. Giải pháp đ−ợc hiểu
theo một nghĩa rộng nhất của thuật ngữ
này: có thể là một giải pháp công nghệ,
vật liệu, tổ chức, quản lý” (Vũ Cao Đàm,
1996, tr.38). Nghiên cứu triển khai là
loại hình nghiên cứu khác với hai loại
(*) Trong tháp thông tin theo nghĩa mở rộng thì ở
d−ới đáy tháp là dữ liệu (Data), trên đáy là cấp
độ thông tin (Information), trên cấp độ thông tin
là tri thức (Knowledge), trên cấp độ tri thức là
minh triết (Wisdom).
hình nêu trên: “Trong một số tài liệu
của UNESCO, hoạt động triển khai
(Development) còn đ−ợc gọi là triển khai
thực nghiệm (Experimental Development)
hoặc triển khai thực nghiệm kỹ thuật;
trong Đ−ơng đại Khoa học Từ điển còn
đ−ợc gọi là Nghiên cứu phát triển. Đặc
tr−ng của triển khai là sự vận dụng các
quy luật (thu đ−ợc từ trong Nghiên cứu
cơ bản) và các nguyên lý (thu đ−ợc từ
trong Nghiên cứu ứng dụng) để đ−a ra
các hình mẫu với những tham số đủ
mang tính khả thi về kỹ thuật” (Vũ Cao
Đàm, 1996, tr.39-40).
Sự khác biệt giữa Nghiên cứu cơ bản
và Nghiên cứu không cơ bản thể hiện ở
đặc tr−ng đầu vào (các câu hỏi và giả
thuyết nghiên cứu), và ở đặc tr−ng đầu
ra (các kết quả nghiên cứu). Tóm lại,
thực chất của Nghiên cứu cơ bản là một
loại hình nghiên cứu tập trung chú ý
vào các sự kiện cơ bản, tìm hiểu các vấn
đề cơ bản, đặt ra các giả thuyết cơ bản
nhằm khám phá bản chất sâu xa, phát
hiện các quy luật nền tảng của sự vật,
hiện t−ợng trong tự nhiên, xã hội và t−
duy; trên cơ sở đó, xây dựng các lý
thuyết nền tảng làm kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của
con ng−ời và loài ng−ời(*).
(*) Thí dụ điển hình về các công trình nghiên cứu
cơ bản:
- Trong triết học, đó là “Metaphysics” (Siêu hình
học) và “Organon” (Bộ công cụ) của Aristotle,
“Novumorganon” (Bộ công cụ mới) của F. Bacon,
“Phê phán lý tính thuần tuý” của I. Kant, “Khoa
học về Logic” của G.W.F. Hegel, “Triết học thực
chứng” của A. Comte, “Biện chứng của Tự nhiên”
của F. Engels, “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa
phê phán kinh nghiệm” của V.I. Lenin,
- Trong khoa học cụ thể, đó là hệ tiên đề hình học
Euclid, hệ nguyên lý cơ học Newton, Thuyết
t−ơng đối Einstein, Thuyết l−ợng tử của Bohr-
Heisenberg, Bảng tuần hoàn Mendeleyev, Thuyết
tiến hoá Darwin, Bộ “T− bản” của Marx,
6 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016
Nội hàm đầy đủ của khái niệm
Nghiên cứu cơ bản
Trong định nghĩa cơ bản chỉ vạch ra
những đặc tr−ng cơ bản của đối t−ợng
mà khái niệm phản ánh hoặc/và sáng tạo.
Muốn có định nghĩa đầy đủ phải bổ
sung thêm các đặc tr−ng không cơ bản
của đối t−ợng đó. Đối với khái niệm
Nghiên cứu cơ bản, ngoài các dấu hiệu
chủ yếu đã nêu trên ta có thể bổ sung
thêm các dấu hiệu quan trọng sau đây:
Trong sách đã trích dẫn của Vũ Cao
Đàm, ta thấy ông đã ghi nhận rằng:
“Nghiên cứu cơ bản có thể thực hiện
trên cơ sở những nghiên cứu thuần túy
lý thuyết Nghiên cứu cơ bản cũng có
thể thực hiện dựa trên cơ sở những
quan sát hoặc thí nghiệm, đo đạc những
biểu hiện, ảnh h−ởng và tác động của
một quy luật ch−a biết nào đó, Các
hoạt động nghiên cứu lý thuyết hoặc
thực nghiệm trên đây đ−ợc lặp đi lặp lại
nhiều lần với những tham số thay đổi,
cho đến khi tính đúng đắn của giả
thuyết đ−ợc khẳng định hoặc phủ định”
(Vũ Cao Đàm, 1996, tr.33-34).
Nh− vậy, ta thấy rằng Nghiên cứu
cơ bản là một quá trình mâu thuẫn biện
chứng, nghĩa là bao gồm 2 quá trình
Nghiên cứu lý thuyết cơ bản và Nghiên
cứu thực nghiệm cơ bản vừa đối lập, vừa
thống nhất với nhau. Tình trạng này có
bản chất logic kép (Dialogic), tức là
đối/hợp: một mặt là nhị đối (phép tuyển
logic) theo công thức “hoặc là Nghiên
cứu lý thuyết cơ bản hoặc là Nghiên cứu
thực nghiệm cơ bản”, mặt khác là l−ỡng
hợp (phép hội logic) theo công thức “vừa
là Nghiên cứu lý thuyết cơ bản, vừa là
Nghiên cứu thực nghiệm cơ bản”(*).
(*) Trong vật lý học chẳng hạn, Nghiên cứu thực
nghiệm cơ bản của A.A. Michelson (đo l−ờng
chính xác tốc độ của ánh sáng trong chân không)
“Nghiên cứu cơ bản đ−ợc phân ra
thành hai loại: Nghiên cứu cơ bản thuần
túy (Nghiên cứu cơ bản tự do) và Nghiên
cứu cơ bản định h−ớng (Nghiên cứu
thăm dò). Nghiên cứu cơ bản thuần túy
còn đ−ợc gọi là Nghiên cứu cơ bản tự do,
hoặc Nghiên cứu cơ bản không định
h−ớng. Đây là nghiên cứu chỉ mới nhằm
mục đích duy nhất là tìm ra bản chất và
quy luật của các hiện t−ợng tự nhiên và
xã hội để nâng cao nhận thức, ch−a có
sự vận dụng nào vào một hoạt động cụ
thể của con ng−ời. Nghiên cứu cơ bản
thuần túy nói chung mang tính chất cá
nhân hoặc ít ra cũng do một nhà nghiên
cứu có uy tín giữ vai trò chủ yếu. Trong
tr−ờng hợp này, nhà nghiên cứu là
ng−ời có thể quyết định việc chọn lựa
đối t−ợng nghiên cứu và tổ chức công
việc nghiên cứu một cách độc lập, có thể
không phụ thuộc vào một cấp quyết
định nào(*). Nghiên cứu cơ bản định
là quá trình độc lập hoàn toàn với Nghiên cứu lý
thuyết cơ bản của A. Einstein (xây dựng cơ sở lý
thuyết t−ơng đối hẹp); trong khi Galileo Galilei
đã kết hợp Nghiên cứu thực nghiệm cơ bản (đo
l−ờng chính xác tốc độ viên bi lăn trên một mặt
phẳng nghiêng) và Nghiên cứu lý thuyết cơ bản
(phát hiện quy luật quán tính của chuyển động
cơ giới) trong một Nghiên cứu vật lý cơ bản, góp
phần xây dựng hệ Nguyên lý cơ học Newton.
(*) Sản phẩm của Nghiên cứu cơ bản thuần túy
chính là những phát minh (= Phát hiện cơ bản),
thí dụ nh− I. Newton phát minh định luật hấp
dẫn vũ trụ, G. Galilei phát hiện các vệ tinh của
sao Mộc, Marie và Pierre Curie phát hiện nguyên
tố phóng xạ Radium, Adam Smith phát hiện
“Bàn tay vô hình” của thị tr−ờng, K. Marx phát
hiện quy luật bóc lột giá trị thặng d− của ph−ơng
thức sản xuất TBCN, Nhiều phát hiện không
đ−ợc coi là phát minh, nghĩa là không thuộc
phạm trù nghiên cứu cơ bản thuần túy, chẳng
hạn nh− phát kiến về địa lý tự nhiên; phát hiện
khảo cổ học; phát hiện trong điền dã dân tộc học
hay trong khảo sát, điều tra xã hội học.
Sản phẩm của Nghiên cứu cơ bản thuần túy còn
có thể là những tổng kết lớn tạo ra những lý
thuyết nền tảng hoặc khung lý thuyết cơ bản,
chẳng hạn nh− Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của K. Marx và F.
Khái niệm và quan niệm về 7
h−ớng là những nghiên cứu cơ bản đã
dự kiến tr−ớc mục đích ứng dụng còn
đ−ợc gọi là Nghiên cứu thăm dò, ví dụ
Pasteur đã làm một loạt thí nghiệm để
kiểm chứng giả thuyết của ông về một
quy luật gây bệnh do vi khuẩn. Đây là
một Nghiên cứu cơ bản định h−ớng.
Nghiên cứu này đã xác định rõ mục đích
áp dụng là tìm cơ chế gây bệnh. Ông đã
đi đến một giả thuyết rằng, nếu cơ thể
bị nhiễm vi khuẩn yếu, thì động vật có
khả năng đề kháng với loại bệnh do
chính vi khuẩn đó gây ra. UNESCO
chia Nghiên cứu cơ bản định h−ớng
thành Nghiên cứu nền tảng
(Background Research) và Nghiên cứu
chuyên đề (Thematic Research). Nghiên
cứu nền tảng là những nghiên cứu dựa
trên các quan sát, đo đạc để thu số liệu
và dữ kiện nhằm mục đích tìm hiểu và
khám phá quy luật của tự nhiên. Thuộc
loại hình nghiên cứu nền tảng này có
thể liệt kê một số dạng nh−: Nghiên cứu
dịch tễ học trong y học nhằm mô tả sự
phân bố sức khoẻ trong một cộng đồng
dân c−; Điều tra cơ bản tài nguyên và
các điều kiện thiên nhiên (điều tra địa
chất); Nghiên cứu đại d−ơng, khí quyển,
khí t−ợng, tổng hợp các hóa chất;
Nghiên cứu bản chất vật lý, hóa học,
sinh học của vật chất. Nghiên cứu
chuyên đề là nghiên cứu có hệ thống
một hiện t−ợng đặc biệt của tự nhiên, ví
dụ trạng thái plasma của vật chất, bức
xạ vũ trụ, gen di truyền. Những loại
nghiên cứu cơ bản định h−ớng thuộc
dạng này không chỉ dẫn đến những cơ
sở lý thuyết quan trọng, mà còn có thể
dẫn đến những ứng dụng có ý nghĩa lớn
lao trong hoạt động kinh tế và các lĩnh
Engels; Lý thuyết hệ thống tổng quát của L.
Bertalanffy; Khung mẫu T− duy phức hợp của E.
Morin;
vực khác nhau của đời sống xã hội” (Vũ
Cao Đàm, 1996, tr.34-38).
Qua các b−ớc định nghĩa khái niệm
Nghiên cứu cơ bản từ nội hàm sơ bộ đến
nội hàm cơ bản và nội hàm đầy đủ, ta
thấy rõ tình trạng nan đề (= vấn đề nan
giải) thể hiện d−ới dạng cặp đối/hợp
khái niệm; chí ít là có 3 cặp đối/hợp khái
niệm sau đây: 1- Cặp đối/hợp Nghiên
cứu cơ bản hoặc/và Nghiên cứu không cơ
bản (= Nghiên cứu ứng dụng hoặc/và
Nghiên cứu triển khai); 2- Cặp đối/hợp
Nghiên cứu lý thuyết cơ bản hoặc/và
Nghiên cứu thực nghiệm cơ bản; 3- Cặp
đối/hợp Nghiên cứu cơ bản thuần túy
hoặc/và Nghiên cứu cơ bản định h−ớng
(= Nghiên cứu nền tảng hoặc/và Nghiên
cứu chuyên đề).
2. Một số quan điểm về Nghiên cứu cơ bản
Có nhiều quan điểm khác nhau về
Nghiên cứu cơ bản. Hơn thế nữa, giữa
các quan điểm về Nghiên cứu cơ bản đã
hình thành song đề (Dilemma), tức là
tình trạng cặp đôi chính đề (Thesis)
hoặc/và phản đề (Antithesis) quan trọng
sau đây:
Quan điểm giản đơn hoặc/và
quan điểm phức hợp về Nghiên cứu
cơ bản
Quan điểm giản đơn về Nghiên cứu
cơ bản tách rời hoàn toàn giữa Nghiên
cứu cơ bản và Nghiên cứu không cơ bản.
Xu h−ớng này th−ờng biểu hiện trong
một số công trình nghiên cứu triết học
và nghiên cứu khoa học cơ bản, nhất là
trong thời kỳ triết học và khoa học cổ
điển. Quan điểm phức hợp về Nghiên
cứu cơ bản chống lại quan điểm đơn
giản hóa nêu trên về Nghiên cứu cơ bản,
cho rằng ngay cả cái gọi là Nghiên cứu
cơ bản thuần túy cũng không hoàn toàn
là thuần túy, do mối quan hệ giữa
“thuần túy” và “không thuần túy” mang
8 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016
tính mâu thuẫn biện chứng, nghĩa là
mang tính đối/hợp logic: một mặt là đối
lập, có thể loại trừ lẫn nhau; song mặt
khác, lại có thể đan xen, xâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau để tạo thành một
chỉnh thể thống nhất giữa các mặt đối
lập ấy. Quan hệ giữa Nghiên cứu cơ bản
và Nghiên cứu không cơ bản cũng có
bản chất đối/hợp logic: vừa là nhị đối
(giữa Nghiên cứu cơ bản hoặc là Nghiên
cứu không cơ bản), vừa là l−ỡng hợp
(giữa Nghiên cứu cơ bản và Nghiên cứu
không cơ bản).
Quan điểm giản đơn và quan điểm
phức hợp về Nghiên cứu cơ bản tạo ra
tình trạng song đề: đó là tình trạng
đối/hợp giữa chính đề và phản đề. Điều
này có ý nghĩa rằng sự đối lập, loại trừ
lẫn nhau của hai quan niệm nêu trên
không phải là tình trạng duy nhất. Bởi
vì ngoài ra, còn có nhiều tình trạng
khác, mang tính trung gian không kém
phần quan trọng nh−: có thể kết hợp hai
quan điểm nêu trên để có một quan
điểm mới hợp lý hơn; hoặc có thể lựa
chọn quan điểm chiết trung, hay n−ớc
đôi, vẹn cả đôi đ−ờng: vừa đơn giản, vừa
phức hợp trong một quá trình nghiên
cứu lâu dài bao gồm nhiều giai đoạn
hoặc trong một công trình tập thể bao
gồm nhiều ng−ời với những cách tiếp
cận khác nhau, bổ sung cho nhau.
Quan điểm mác xít hoặc/và
quan điểm phi mác xít về Nghiên
cứu cơ bản
Quan điểm mác xít về Nghiên cứu
cơ bản trong triết học và khoa học cụ
thể dựa trên cơ sở Duy vật biện chứng
và Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Marx.
Theo đó, những nghiên cứu lý thuyết và
thực nghiệm về Cơ sở vật chất tự nhiên,
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội luôn là
những nghiên cứu cơ bản, đặt nền tảng
cho toàn bộ quá trình nhận thức (lý
luận/khoa học) và hoạt động (thực
tiễn/đời sống). Quan điểm phi mác xít về
Nghiên cứu cơ bản dựa trên cơ sở chống
lại Duy vật biện chứng và Duy vật lịch
sử. Có nhiều khuynh h−ớng phi mác xít
nh− Duy tâm biện chứng và Duy tâm
lịch sử; Duy vật siêu hình hoặc Duy tâm
siêu hình; Quan điểm chiết trung
(chẳng duy vật cũng chẳng duy tâm,
chẳng biện chứng hoàn toàn cũng chẳng
siêu hình triệt để); Tất cả các khuynh
h−ớng đa dạng này đều có một điểm
chung là chống Chủ nghĩa Marx, chống
Chủ nghĩa cộng sản do Marx đề x−ớng.
Trong quan điểm về Nghiên cứu cơ bản,
hoặc là cho rằng những nghiên cứu về
cơ sở tinh thần, cơ sở văn hóa - xã hội cơ
bản hơn so với những nghiên cứu về cơ
sở vật chất, cơ sở kinh tế - xã hội; hoặc
là cho rằng kết hợp cả hai loại hình
nghiên cứu nêu trên mới thực sự là
Nghiên cứu cơ bản trong triết học và
khoa học cụ thể.
Hai hệ quan điểm mác xít và phi
mác xít về Nghiên cứu cơ bản đã từng
đối đầu trong lịch sử nghiên cứu triết
học và khoa học cụ thể; tuy nhiên về sau
và nhất là hiện nay đã chuyển sang đối
thoại, thậm chí hợp tác với nhau; kết
quả là tạo ra một tình trạng song đề
giữa quan điểm mác xít hoặc/và quan
điểm phi mác xít về Nghiên cứu cơ bản.
Tình trạng đối/hợp quan điểm này có
nhiều biểu hiện đa dạng và phong phú:
có đối cực (đối kháng), có đối trọng (vừa
cạnh tranh, vừa hợp tác), có n−ớc đôi,
chiết trung, “ba phải”, có điều chỉnh hoặc
thay đổi quan điểm (“nhạt đạo”, “cải
đạo”,).
Quan điểm thực chứng hoặc/và
quan điểm phi thực chứng về
Nghiên cứu cơ bản
Trong các khuynh h−ớng phi mác
xít đã có sự phân đôi mâu thuẫn giữa
Khái niệm và quan niệm về 9
quan điểm thực chứng và quan điểm
phản thực chứng về Nghiên cứu cơ bản.
Quan điểm thực chứng trên bình
diện triết học gần với Đ−ờng lối Trung
đạo: không duy vật cũng chẳng duy
tâm; họ muốn có đ−ờng lối thứ ba trong
triết học. Trên bình diện khoa học cụ
thể, quan điểm thực chứng có điểm
giống nhau với quan điểm mác xít khi
họ đề cao Quan điểm/Tiếp cận toàn thể
luận (Holistic Perspective/Approach)
hơn là Quan điểm/Tiếp cận phi toàn thể
luận (Non-Holistic Perspective/Approach),
chẳng hạn nh− đề cao chủ nghĩa cộng
đồng hơn chủ nghĩa cá nhân. Những
nhà thực chứng chủ nghĩa cho rằng
nghiên cứu thực nghiệm là nghiên cứu
cơ bản; mọi nghiên cứu lý thuyết đều
phải theo nguyên tắc quy giản về cơ sở
thực nghiệm, nếu làm trái nguyên tắc
này hoặc thất bại trong ch−ơng trình
quy giản về thực nghiệm thì nghiên cứu
lý thuyết nh− thế là vô giá trị. Trong
Nghiên cứu quy giản thực nghiệm cơ
bản, họ đề cao các công trình nghiên
cứu về Quy luật nhân quả và theo l−ợc
đồ phân tích - tổng hợp định l−ợng
chính xác, chặt chẽ, đó chính là Sơ đồ
t−ơng quan giữa các biến số phụ thuộc,
độc lập, trung gian, can thiệp nhằm
nâng cao năng lực giải thích khách
quan, khoa học. Quan điểm phản thực
chứng trên bình diện triết học có thể
chống chiết trung chủ nghĩa bằng duy
tâm chủ nghĩa hoặc bằng duy vật siêu
hình chứ không phải bằng duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Marx. Trên bình diện khoa học cụ thể,
họ đề cao Quan điểm/tiếp cận cá nhân
luận (Individualistic Perspective/
Approach). Họ cho rằng nghiên cứu
hành vi cá thể, hành động cá nhân,
t−ơng tác vi mô là cơ bản hơn so với
nghiên cứu hành động tập thể, quá
trình vĩ mô; vì muốn giải thích nhân
quả thì tr−ớc hết cần phải tìm hiểu ý
nghĩa của hành vi con ng−ời và thấu
hiểu (Verstehen - thuật ngữ độc đáo của
M. Weber) ý nghĩa của sự kiện mới thực
sự là Nghiên cứu cơ bản nhất; nói khác
đi, giải nghĩa (Deep Understanding) cơ
bản hơn giải thích (Explanation). Một
cách t−ơng ứng, Nghiên cứu cơ bản định
tính quan trọng hơn Nghiên cứu cơ bản
định l−ợng.
Thực ra, hai hệ quan điểm này chỉ
đối kháng với nhau trong giai đoạn đầu
và chỉ tiếp tục đối đầu với nhau giữa
những tác giả có thái độ cực đoan, thái
quá. Trong các giai đoạn về sau và nhất
là hiện nay, ngày càng có sự xích lại gần
nhau, bổ sung cho nhau để có quan
điểm đầy đủ hơn: kết hợp Nghiên cứu cơ
bản lý thuyết và Nghiên cứu cơ bản thực
nghiệm, Nghiên cứu cơ bản định tính và
Nghiên cứu cơ bản định l−ợng, Nghiên
cứu thấu hiểu (ý nghĩa) và Nghiên cứu
giải thích (nhân quả) theo những kiểu
cách và mức độ khác nhau.
Quan điểm hiện đại hoặc/và
quan điểm hậu hiện đại về Nghiên
cứu cơ bản
Quan điểm hiện đại chủ nghĩa
(Modernism) dựa trên hệ quan
điểm/tiếp cận cổ điển trong triết học và
khoa học cụ thể. Theo đó thì các Khung
mẫu (Paradigm) lý thuyết, các Đại tự sự
(Grands Récit = Thuật ngữ của J. F.
Lyotard) mới xứng tầm nghiên cứu cơ
bản. Khuynh h−ớng nổi trội của quan
điểm hiện đại chủ nghĩa về Nghiên cứu
cơ bản là đề cao Quy giản luận
(Reductionism) và Tất định luận
(Determinism). Đây là cơ sở cho các
quan điểm duy/vị cực đoan nh− Chủ
nghĩa duy vật khoa học (Scientific
Materalism), Chủ nghĩa duy tâm vật lý
10 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016
(Physical Idealism), Chủ nghĩa duy
nghiệm phê phán (Critical Empiricism),
Chủ nghĩa duy lý phê phán (Critical
Rationalism),... Quan điểm hậu hiện đại
chủ nghĩa (Postmodernism) lúc đầu là
sự nổi loạn chống lại quan điểm hiện
đại chủ nghĩa, tuyên bố xóa bỏ thần
t−ợng Đại tự sự của triết học và khoa
học cổ điển, thay thế vào đó là những
Diễn ngôn hậu hiện đại (Postmodernist
Discourse) mang tính Phản quy giản
luận (Antireductonism) và Phản tất
định luận (Antideterminism). Tuy
nhiên, hiện nay những ng−ời theo quan
điểm hậu hiện đại quá khích và những
ng−ời muốn kéo dài sức sống của Chủ
nghĩa hiện đại bằng Chủ nghĩa hiện đại
hậu kỳ (Late Modernism) đang xích lại
gần nhau; kết quả là đang tạo ra song
đề giữa Quan điểm hiện đại hóa
(Modernization Perspective) hoặc/và
Quan điểm hậu hiện đại hóa
(Postmodernization Perspective) về
Nghiên cứu cơ bản.
Biểu hiện quan trọng của song đề
giữa quan điểm hiện đại hoặc/và quan
điểm hậu hiện đại về Nghiên cứu cơ bản
đó là tình trạng đối/hợp giữa Nghiên
cứu cơ bản chuyên ngành hoặc/và
Nghiên cứu cơ bản liên ngành. Bởi vì
Chủ nghĩa hiện đại đã tạo ra sự cách
biệt quá lớn giữa các chuyên ngành
trong nội bộ triết học và khoa học cụ
thể, cũng nh− giữa khoa học cụ thể và
triết học. Sứ mệnh lịch sử của Chủ
nghĩa hậu hiện đại là xóa bỏ sự cách
biệt thái quá đó. Tuy nhiên, có vẻ nh−
không thể xóa bỏ hoàn toàn đ−ờng phân
ranh giữa các khoa học cơ bản cũng nh−
giữa nghiên cứu khoa học cơ bản với
nghiên cứu triết học cơ bản. Bởi vì bản
chất của các hệ thống phức hợp là mang
tính mở, mềm, mờ chứ không phải đóng,
cứng, tỏ nh− Chủ nghĩa hiện đại đã
từng giả định. Hóa ra, các hệ thống
đóng, cứng, tỏ chỉ là những trừu t−ợng
hóa từ thực tế chứ không phải là thực
tại khách quan theo đúng nghĩa của nó.
* * *
Tình trạng đối/hợp trong định
nghĩa khái niệm Nghiên cứu cơ bản và
tình trạng song đề giữa các quan điểm
về Nghiên cứu cơ bản có thể đ−ợc thấu
hiểu và hóa giải dựa trên cơ sở một số
khung lý thuyết nền tảng của triết học
và khoa học đ−ơng đại nh− khung mẫu
t− duy phức hợp của Edgar Morin và
khung lý thuyết khinh - trọng của Tô
Duy Hợp và cộng sự(*)
Tài liệu trích dẫn
1. Đại Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb.
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Vũ Cao Đàm (1996), Ph−ơng pháp
luận nghiên cứu khoa học, Nxb.
Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội.
3. Tô Duy Hợp (2012), Khinh - Trọng.
Cơ sở lý thuyết, Nxb. Thế giới, Hà
Nội.
4. Lyotard, Jean-Francois (2007),
Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb. Tri
thức, Hà Nội.
5. Morin, Edgar (2009), Nhập môn
t− duy phức hợp, Nxb. Tri thức,
Hà Nội.
6. Từ điển Bách khoa Việt Nam
(2003), Nxb. Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
(*) Xem thêm, chẳng hạn: Tô Duy Hợp (2015), “T−
duy học - Một giới thiệu dẫn nhập”, Tạp chí
Thông tin KHXH, số 9, tr.10-17.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26146_87794_1_pb_1178.pdf