Tình trạng sức khỏe và khả năng tiếp
cận các dịch vụ xã hội, trong đó có tiếp
cận các dịch vụ y tế của người dân, chịu
ảnh hưởng bởi các yếu tố quyết định sức
khỏe và điều kiện xã hội nơi họ sống và
làm việc, còn gọi là các yếu tố quyết định
xã hội. Các yếu tố quyết định xã hội này
có thể là nguyên nhân gây nên sự bất bình
đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội và
dịch vụ y tế của người dân.
Các nghiên cứu về bình đẳng y tế, sức
khỏe thường tiếp cận nghiên cứu nguyên
nhân-kết quả của sự bất bình đẳng, chỉ ra
sự bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch
vụ y tế, chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm
xã hội khác nhau, đồng thời đưa ra giải
pháp nhằm nâng cao quyền lợi của các
nhóm yếu thế thông qua các chương trình
can thiệp y tế cộng đồng. Nghiên cứu của
Michael Marmot (2007) cho rằng, muốn
giải quyết được gốc rễ bất bình đẳng trong
y tế, chăm sóc sức khỏe cần phải “trao
quyền” và giải phóng sự “tự do” của các
cá nhân, nhóm xã hội. Nghiên cứu hàm ý
đã đến lúc cần giải quyết vấn đề cấp bách
về bất bình đẳng trong y tế-sức khỏe.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Một số cách tiếp cận nghiên cứu sức khỏe đô thị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Một số cách tiếp cận nghiên cứu sức khỏe đô thị 
Đoàn Phương Thúy(*) 
Tóm tắt: Các đô thị đang không ngừng phát triển ở mọi quốc gia trên toàn thế giới, 
người dân sống tại các khu vực này cũng đang tiếp tục tăng lên từng ngày. Chính sự 
phát triển công nghiệp hiện đại, suy thoái môi trường tự nhiên, thói quen sinh hoạt, cư 
dân đông đúc tại các khu đô thị đã và đang gây ra những vấn đề nổi cộm về sức khỏe 
cho người dân nơi đây. Nội dung bài viết khái quát một số quan niệm và lý thuyết về sức 
khỏe, đồng thời tổng quan các cách tiếp cận nghiên cứu sức khỏe đô thị trong bối cảnh 
đô thị hóa, biến đổi khí hậu và biến đổi xã hội hiện nay. 
Từ khóa: Sức khỏe y tế, Chăm sóc sức khỏe, Nghiên cứu sức khỏe, Khu vực đô thị 
Trong tiến trình của lịch sử nhân loại, 
rất nhiều thành tựu to lớn, có giá trị của 
loài người được tập trung ở các đô thị. Đô 
thị đóng vai trò là trung tâm văn hóa, kinh 
tế, chính trị, văn hóa - xã hội; là đầu tàu 
cho động lực tiến bộ và văn minh xã hội. 
Tuy nhiên, đô thị cũng đặt ra nhiều vấn đề 
nan giải về môi trường, xã hội hơn so với 
khu vực nông thôn do hệ quả của quá trình 
đô thị hóa nhanh; và đòi hỏi phải có 
những giải pháp cấp bách cho những vấn 
đề đó, trong đó có vấn đề sức khỏe. ( 
Có thể nói, sức khỏe và việc chăm sóc 
sức khỏe của người dân đô thị là một 
trong những thành tố quan trọng trong 
những nghiên cứu về phát triển đô thị. Cải 
thiện, tăng cường chăm sóc sức khỏe đô 
thị là một nhiệm vụ phức tạp và đòi hỏi 
tiếp cận, giải quyết đa phương diện (Louis 
Jonah Opit, 1993). 
(*)
 ThS., Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm KHXH 
Việt Nam; Email: mail.thuydp@gmail.com 
I. Các quan niệm và lý thuyết về sức khỏe 
Sức khỏe y tế được nghiên cứu từ 
nhiều hướng tiếp cận của các ngành khoa 
học khác nhau. Việc định nghĩa sức khỏe 
cùng với những phạm vi nghiên cứu 
chúng đang còn nhiều tranh cãi. Tuy 
nhiên, đã có một sự nhất trí chung rằng 
cần phải xem xét sức khỏe như một nhân 
tố quan trọng trong việc đánh giá chất 
lượng sống của một xã hội. Sự nhất trí còn 
thể hiện ở chỗ thừa nhận những thuật ngữ 
liên quan đến sức khỏe như sự mạnh khỏe, 
ốm yếu, bệnh tật là những khái niệm rất 
khó xác định. 
Thêm vào đó, các quá trình sinh học 
và hiện tượng sinh học diễn ra bên trong 
những khái niệm trên đây đã và đang chịu 
sự chi phối ngày càng tăng của những 
thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội và cả 
văn hóa. Điều này được giải thích bởi lẽ, 
các vấn đề sức khỏe hay bệnh tật không 
tồn tại một cách trừu tượng mà luôn gắn 
với các điều kiện sống khác nhau của 
Một số cŸch tiếp cận§ 35 
những nhóm người cụ thể khác nhau. Mỗi 
xã hội đều có một đặc trưng để nhận biết 
và lý giải được các khái niệm về sức khỏe 
và bệnh tật. Cách giải thích này phụ thuộc 
chặt chẽ vào hệ thống các biểu tượng về 
thế giới, về sự sống và cái chết, về hệ 
thống tôn giáo và giá trị cũng như những 
mối liên quan đến môi trường sống. Do 
vậy, khái niệm sức khỏe và bệnh tật không 
phải là những thực tế bất biến, chúng là 
những khái niệm động, biến đổi theo sự 
thay đổi của cấu trúc xã hội. 
Quan niệm về sức khỏe ở phương 
Đông được xây dựng trên nền tảng của 
Triết học phương Đông, lấy âm dương để 
giải thích nguồn gốc sự vận động trong vũ 
trụ cũng như những hoạt động sinh lý - 
bệnh lý của con người. Y học phương 
Đông (mà đại diện là Trung Quốc và Ấn 
Độ) khẳng định con người khỏe mạnh là 
nhờ sự tồn tại cân bằng của vũ trụ. Bệnh 
tật là kết quả của thói quen và lối sống trái 
với tự nhiên, là biểu hiện của sự mất cân 
bằng trong cơ thể. 
Còn theo phương pháp tiếp cận mác 
xít và Liên Xô (cũ), nhiều tác giả đã giải 
thích sự chăm sóc sức khỏe như là một 
bộ phận của phương thức sản xuất. Điều 
đó có nghĩa là các hành vi sức khỏe vốn 
là những hành động chính trị, bởi trong 
mỗi giai đoạn của sự phát triển kinh tế-xã 
hội, các hành vi này có những thay đổi để 
đạt tới sự chăm sóc sức khỏe tốt nhất. 
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xác 
định tình trạng sức khỏe tốt không chỉ là 
tình trạng không có ốm đau, bệnh tật mà 
còn là sự khỏe mạnh cả về thể chất, tinh 
thần và có mối quan hệ, mạng lưới xã hội 
vững chắc, tốt đẹp. Chăm sóc sức khỏe là 
quyền cơ bản của con người. Chính sách 
về y tế, sức khỏe góp phần đảm bảo công 
bằng xã hội, và thậm chí góp phần quan 
trọng trong quá trình giảm nghèo. 
Trường phái của thuyết xung đột về y 
học và sức khỏe nhấn mạnh rằng, sự 
không bình đẳng trong xã hội đã ảnh 
hưởng đến mô hình bệnh tật và chăm sóc 
sức khỏe. Sự mất cân đối, không bình 
đẳng về sức khỏe chính là hậu quả của sự 
phân tầng xã hội, phân biệt chủng tộc và 
giai cấp. Đối với những người theo thuyết 
xung đột, sức khỏe tốt cũng là một giá trị 
cao như những nguồn giá trị khác trong xã 
hội (như quyền lực, sự giàu có về của cải, 
uy tín xã hội) đã bị phân chia một cách 
không đồng đều trong xã hội. 
Talcott Parsons là một trong những 
người có công xây dựng nền tảng của 
khoa học xã hội về sức khỏe. Đóng góp lý 
thuyết quan trọng của Talcott Parsons với 
tư cách là nhà xã hội học và là người đứng 
đầu trường phái chức năng là sự khẳng 
định của ông về vai trò của sự đau ốm 
(sick role). Với Talcott Parsons, bệnh tật 
cũng được coi là một kiểu lệch lạc xã hội 
đặc biệt theo nghĩa người ốm hành động 
không theo những chuẩn mực nhất định. 
Khi đề cập tới cơ sở lý luận tiếp cận 
nghiên cứu sức khỏe đô thị, một số lý 
thuyết cơ bản nghiên cứu về đô thị đã 
được vận dụng để nghiên cứu như: lý 
thuyết hiện đại hóa; lý thuyết thiên vị đô 
thị; lý thuyết về hành động xã hội... 
Lý thuyết thiên vị đô thị cố gắng giải 
thích cho tình trạng đô thị hóa “quá mức” 
ở các nước đang phát triển, đó là việc tập 
trung quá mức các nguồn lực phát triển 
vào các khu vực đô thị, trong khi bỏ quên 
các vùng nông thôn lạc hậu (York W. 
Bradshaw, 1987). 
Trong lý thuyết về hành động xã hội, 
hành động xã hội được hiểu là sự trao đổi 
trực tiếp giữa các cá nhân cũng như các 
khuôn mẫu quan hệ được cấu trúc hóa bên 
trên các nhóm, tổ chức, thiết chế và xã 
hội. Một thực tế có thể quan sát được 
36 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
trong mọi tình huống cá nhân và cộng 
đồng hàng ngày là hành động xã hội của 
con người diễn ra theo những quy tắc nhất 
định và trong những hình thái nhất định, 
những quy tắc và hình thái này có sự bất 
biến tương đối. Để hiểu được hành động và 
hành vi sức khỏe của con người, xã hội học 
đề xuất ba khái niệm cơ bản: “ý 
nghĩa”, “chuẩn mức” và “giá trị” (Irwin M. 
Rosenstock, 1974). Dựa trên những khái 
niệm có tính chất tiên nghiệm được trình 
bày ở trên, xã hội học hành động xã hội 
đưa ra một số tiền đề nghiên cứu như sau: 
- Con người hành động trong các tình 
huống nhất định trên cơ sở của các ý 
nghĩa mà họ tự gắn vào các hành động của 
bản thân và đối tác. 
- Khi đi vào các tình huống hành động 
cụ thể, mỗi người đều đã có một tri thức 
hàng ngày được cấu trúc hóa trước đó. 
Thế giới trong đó người ta hành động đã 
là một thế giới văn hóa, được lý giải. 
- Hành động là một quá trình có tính 
lý giải, diễn ra một cách mới/ khác đi đối 
với hành động. Trong quá trình đó, các ý 
nghĩa cấu trúc hóa nên những kỳ vọng. 
- Văn hóa là một hệ thống các chuẩn 
mức và giá trị mà con người có thể hiểu 
được và chịu sự dẫn dắt của nó. 
II. Các hướng tiếp cận nghiên cứu sức 
khỏe đô thị 
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam 
hiện nay, hệ vấn đề và phạm vi nghiên 
cứu sức khỏe được xác định trên cơ sở của 
nhận thức lý luận, đó là sức khỏe của con 
người luôn chịu sự tác động tổng hợp và 
phức tạp của các nhân tố sinh học-xã hội. 
Nó được quy định trước hết bởi chức năng 
của các hệ thống sinh lý và các quy định 
đặc thù sinh học (như giới tính, lứa tuổi, 
sự di truyền và thể trạng bẩm sinh). Bên 
cạnh đó, sức khỏe cũng phụ thuộc rất 
nhiều vào sự tác động của môi trường bên 
ngoài, đặc biệt là môi trường xã hội. 
Vấn đề sức khỏe và hành vi chăm sóc 
sức khỏe của cư dân đô thị trong bối cảnh 
đô thị hóa và biến đổi xã hội được tiếp cận 
nghiên cứu từ tác động của nhiều nhân tố 
khác nhau: vấn đề về điều kiện môi trường 
sống và cơ hội tiếp cận với dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe y tế của cư dân, các yếu tố 
cá nhân, gia đình, cộng đồng (mức sống, 
trình độ học vấn, nghề nghiệp, nguồn lực 
gia đình, các đặc điểm văn hóa, thói 
quen). Ngoài ra, còn có cách tiếp cận về 
sự bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm xã 
hội có thu nhập khác nhau ở đô thị. 
Một khung nghiên cứu về sức khỏe đô 
thị đã được áp dụng trong nhiều nghiên 
cứu về sức khỏe đô thị từ cả ba hướng tiếp 
cận (tiếp cận nghiên cứu sức khỏe môi 
trường; tiếp cận nghiên cứu văn hóa sức 
khỏe và hành vi; tiếp cận nghiên cứu bất 
bình đẳng xã hội trong tiếp cận dịch vụ y 
tế - chăm sóc sức khỏe). Đó là khung 
nghiên cứu Các tầng tác động đến sức 
khỏe (The determinants of health) của 
Goran Dahlgren và Margaret Whitehead. 
Các tầng tác động đến sức khỏe 
Nguồn: Goran Dahlgren, Margaret 
Whitehead, 1991. 
Một số cŸch tiếp cận§ 37 
Theo Goran Dahlgren và Margaret 
Whitehead, sức khỏe của con người chịu 
tác động từ nhiều yếu tố, từ vĩ mô đến vi 
mô: mạng lưới cộng đồng xã hội xung 
quanh nơi sống của các cá nhân đó; điều 
kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội. 
1. Cách tiếp cận nghiên cứu sức khỏe 
- môi trường 
Sức khỏe môi trường đang là mối 
quan tâm của các nhà xã hội học nói 
chung và xã hội học môi trường nói riêng. 
Các nghiên cứu xã hội học trên thế giới 
quan tâm đến ba hướng nghiên cứu, bao 
gồm: những nguyên nhân xã hội dẫn đến 
biến đổi khí hậu, hệ quả kinh tế-xã hội của 
biến đổi khí hậu, cũng như giảm thiểu ảnh 
hưởng của biến đổi khí hậu (W. Neil 
Adger et al, 2009; Ulrich Beck, 2010; 
Constance Lever-Tracy, 2008; Joseph J. 
Molnar, 2010). Hiện nay, nghiên cứu xã 
hội học chủ yếu hướng vào thái độ môi 
trường (environmental attitudes) qua việc 
tìm hiểu thái độ của cộng đồng đối với các 
vấn đề môi trường ảnh hưởng đến sức 
khỏe cộng đồng, trong đó chú trọng đến 
các nhân tố độ tuổi, học vấn, tư tưởng 
chính trị. 
Jorge Hardoy và các cộng sự chỉ ra 
rằng, người dân nghèo đô thị đặc biệt phải 
trải qua những rắc rối với chính sức khỏe 
của mình liên quan đến sinh sản, các bệnh 
truyền nhiễm qua đường tiêu hóa, hô hấp, 
các bệnh tiêu chảy, sốt vàng da và kí sinh 
đường ruột (Jorge Hardoy et al, 1992). 
Ngoài ra, thuốc lá và thói quen ăn uống 
không hợp lý cùng với việc lạm dụng các 
thuốc chứa chất kích thích cũng làm gia 
tăng chứng bệnh đau tim, ung thư phổi và 
suy hô hấp của người dân đô thị (Robert 
Potter, Sally Lloyd-Evans, 1998). 
Sức khỏe cộng đồng là một vấn đề hết 
sức quan trọng trong nghiên cứu về biến 
đổi khí hậu, và hiện nay chưa được chú ý 
nhiều dưới góc độ khoa học xã hội. Trong 
các nghiên cứu xã hội học, vấn đề sức 
khỏe được đặt trong bối cảnh sự thay đổi 
về môi trường sống, tác động của biến đổi 
khí hậu đến người dân. Sức khỏe và bệnh 
tật là thước đo để đánh giá hiệu quả của sự 
kết hợp các yếu tố văn hóa và sinh học 
của những nhóm dân cư sống trong môi 
trường đó (Dẫn theo: Nguyễn Văn Thắng, 
Đặng Vũ Trung, 2003: 54). 
Xã hội học y tế quan tâm đến mối 
quan hệ giữa văn hóa, sinh thái và y tế 
trong nghiên cứu các vấn đề sức khỏe của 
con người. Ở cấp vi mô, xã hội học y tế 
xem xét các tín ngưỡng, tập quán có vai 
trò chi phối những cách ứng xử của con 
người với bệnh tật. Ở cấp vĩ mô, xã hội 
học y tế xem xét những mối quan hệ 
tương tác giữa các nhóm người trong cộng 
đồng, sự di dân và sự mất cân đối về 
nguồn tài nguyên mang tính toàn cầu đối 
với bệnh tật (Steven P. Brown, W. Leigh 
Thomas, 1996). Sức khỏe của con người 
phụ thuộc vào khả năng xã hội kiểm soát 
sự tương tác giữa con người với môi 
trường. Sự kiểm soát này bao gồm duy trì 
một khí hậu ổn định và tính liên tục của 
nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng như 
duy trì chức năng mang tính liên tục của 
các hệ thống tự nhiên để có thể tiếp nhận 
các chất thải của xã hội loài người (Phạm 
Văn Lình, Võ Văn Thắng, 2008: 21). 
Các nghiên cứu xã hội học đã hướng 
đến một số vấn đề chính về sức khỏe cộng 
đồng cư dân trong bối cảnh ô nhiễm môi 
trường và biến đổi khí hậu như: 
- Đánh giá nguy cơ dịch bệnh tại các 
vùng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu. 
- Đánh giá thực trạng sức khỏe của 
các nhóm cư dân dễ tổn thương ở đô thị 
do biến đổi khí hậu như người nghèo, phụ 
nữ, trẻ em suy dinh dưỡng, người già... 
- Tìm hiểu hành vi ứng xử của cộng 
đồng trong chăm sóc sức khỏe ứng phó 
38 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
với biến đổi khí hậu; những tập quán, tín 
ngưỡng chi phối như thế nào đối với hành 
vi của con người với bệnh tật; kiến thức 
bản địa trong chăm sóc sức khỏe; kinh 
nghiệm chữa bệnh của người dân trong 
cộng đồng và vai trò của người phụ nữ. 
- Đánh giá tác động của chính sách và 
các chương trình can thiệp lên vấn đề 
chăm sóc sức khỏe. Những chương trình 
chăm sóc sức khỏe luôn lôi cuốn được sự 
tham gia của cộng đồng. Tìm hiểu nhu cầu 
của các cộng đồng khác nhau, đặc điểm về 
quan niệm, niềm tin của cộng đồng đó về 
sức khỏe và bệnh tật của chính họ để có 
chương trình can thiệp phù hợp. Nhân học 
y tế sẽ giúp tìm ra những nhu cầu và 
những trường hợp đặc biệt của những 
cộng đồng khác nhau, đặc điểm về quan 
niệm, niềm tin của cộng đồng đó về sức 
khỏe và bệnh tật của chính họ để có 
chương trình can thiệp hiệu quả. 
2. Cách tiếp cận nghiên cứu văn hóa 
sức khỏe và hành vi sức khỏe 
Văn hóa sức khỏe hay văn hóa y tế 
(Health literacy), cũng có thể gọi là năng 
lực hoặc hiểu biết sức khỏe, là một chủ đề 
thời sự đang nổi lên trong chương trình 
sức khỏe toàn cầu. WHO nhấn mạnh văn 
hóa sức khỏe liên quan đến sự trao quyền, 
và tổ chức này bắt đầu có nhu cầu hỗ trợ 
trao quyền bằng cách thiết kế các can 
thiệp văn hóa sức khỏe dựa vào nhu cầu 
cộng đồng và những vấn đề ưu tiên trong 
bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội và sự 
hài lòng của cộng đồng về khả năng nhận 
biết, hành động dựa trên kiến thức, vượt 
qua rào cản của sức khỏe (WHO, 2009). 
Theo định nghĩa của Viện Y học Mỹ 
(Institute of Medicine): “Văn hóa sức 
khỏe là mức độ năng lực của mỗi cá nhân 
về đánh giá, phân tích và hiểu các thông 
tin và dịch vụ y tế cơ bản cần thiết để đưa 
ra quyết định thích hợp” (Theo: Nancy 
Berkman et al, 2010). 
Ý nghĩa của văn hóa sức khỏe được 
mở rộng bao gồm nhiều năng lực phức tạp 
và có sự liên kết với nhau, phụ thuộc vào 
cách tiếp cận có hiệu quả với dịch vụ y tế 
công cộng và nâng cao sức khỏe hay 
không. Một cách cụ thể, sự liên quan giữa 
hiểu biết về cơ thể và văn hóa sức khỏe 
thấp có thể dẫn đến giảm tuân thủ điều trị 
của bệnh nhân, thiếu hiểu biết về bệnh, 
không tuân thủ việc tự quản lý chăm sóc 
và dẫn đến kết quả điều trị kém. Mặt khác, 
những người có văn hóa sức khỏe thấp 
cũng ít có khả năng thực hiện các hành vi 
nâng cao sức khỏe và các hoạt động 
phòng bệnh. Văn hóa sức khỏe là một 
phần quan trọng của nâng cao sức khỏe. 
Văn hóa sức khỏe là chỉ số quan trọng 
trong kết quả giáo dục sức khỏe, một 
trong các chiến lược nâng cao sức khỏe, 
nỗ lực hành động để hình thành và tăng 
cường những hiểu biết về sức khỏe. 
Hành vi sức khỏe là một khái niệm 
quan trọng của văn hóa sức khỏe. Khái 
niệm này để chỉ toàn bộ các ứng xử của 
con người đối với các hoạt động tăng 
cường, phòng chống và chữa trị bệnh tật; 
đó là các phản ứng của con người trước 
những vấn đề sức khỏe trong những môi 
trường sống cụ thể, bao gồm môi trường 
tự nhiên và môi trường xã hội. 
 Các hành vi sức khỏe không phải là 
các ứng xử mang tính ngẫu nhiên, mà nó 
là sự phản ánh các quan niệm, giá trị, các 
chuẩn mực về sức khỏe. Các hành vi chăm 
sóc sức khỏe tiên tiến, đáp ứng các chuẩn 
về tăng cường thể lực, phòng chống bệnh 
tật, chữa trị đúng, kịp thời lại được coi 
là các mô hình, là chuẩn mới cho các hành 
vi chăm sóc sức khỏe. 
 Điều khác biệt trong quan niệm về 
hành vi sức khỏe từ tiếp cận văn hóa là coi 
Một số cŸch tiếp cận§ 39 
đó như một hiện tượng của nhóm xã hội, 
chứ không đơn thuần là một hiện tượng 
của cá nhân. Các hành vi đơn lẻ có thể 
được coi là một hành động ngẫu nhiên, 
nhưng một chuỗi các hành vi, đặc biệt là 
sự đồng dạng và những khác biệt về mặt 
hành vi chăm sóc sức khỏe của một hay 
giữa các nhóm xã hội khác thì lại là các 
vấn đề mang tính xã hội. 
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và 
sức khỏe con người có ý nghĩa tương 
quan. Ở những nước nghèo, vấn đề thu 
nhập giải quyết được điều kiện vệ sinh 
kém, điều kiện sống và làm việc nghèo 
nàn, thiếu thốn và dinh dưỡng không đảm 
bảo. Một vấn đề xã hội đặt ra trong sự 
phát triển kinh tế đó là sự bất bình đẳng 
trong thu nhập; sự bất bình đẳng này có 
mối liên quan đến tỷ suất tử vong - điều 
này đã được chứng minh trong một nghiên 
cứu của Angus Deation (2003). 
Theo các nghiên cứu văn hóa sức 
khỏe và hành vi sức khỏe, các yếu tố sau 
đây cũng ảnh hưởng nhiều đến hành vi 
sức khỏe của người dân: i) Tăng trưởng 
kinh tế (tạo cơ sở vững chắc hơn cho quá 
trình chăm sóc sức khỏe của người dân); 
ii) Kinh tế thị trường (cũng đồng nghĩa 
với những thay đổi lớn trong hệ thống an 
sinh xã hội, nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục; 
tạo ra nhiều loại hình dịch vụ xã hội mới 
và người dân đã dần dần làm quen, trong 
đó có thông tin, truyền thông đại chúng); 
iii) Các chương trình kinh tế-xã hội (đã 
tập trung hơn cho cộng đồng, tuy hiệu quả 
chưa cao nhưng đã đóng góp đáng kể cho 
sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung). 
Các nghiên cứu về văn hóa sức khỏe 
và hành vi sức khỏe cá nhân tập trung vào 
phân tích, đánh giá kiến thức, thái độ, khả 
năng ứng phó và kết quả là hành vi sức 
khỏe của con người dưới các tác động đa 
tầng của biến đổi môi trường, xã hội; từ 
đó đưa ra những giải pháp can thiệp cho 
chất lượng sức khỏe tốt hơn. 
Nghiên cứu về quản lý các tác động 
của biến đổi khí hậu tới sức khỏe con 
người của Anthony Costello và cộng sự 
cho thấy, biến đổi khí hậu gây ra những 
hiểm họa về sức khỏe thông qua dịch 
bệnh. Biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi 
trường làm gia tăng bất bình đẳng giàu 
nghèo và gây thêm gánh nặng bệnh tật, 
chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo 
- nhóm người dễ bị tổn thương nhất, với 
điều kiện kinh tế khó khăn và cũng không 
được trang bị đầy đủ kiến thức để đối phó 
với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường. 
Vì vậy, những chương trình can thiệp y tế 
cộng đồng là rất cần thiết, đặc biệt là đối 
với nhóm người nghèo trong xã hội 
(Anthony Costello et al, 2009). Một 
nghiên cứu khác của WHO cũng chỉ ra 
thực trạng gia tăng của những căn bệnh 
không lây nhiễm, đặc biệt ở các nước 
đang phát triển, đòi hỏi phải có định 
hướng nhận thức đúng đắn về dinh dưỡng 
và rèn luyện thân thể của con người. Căn 
nguyên của bùng phát các căn bệnh không 
lây nhiễm hiện nay là do sử dụng thực 
phẩm không an toàn, lạm dụng các chất 
kích thích và sự lỏng lẻo về sức khỏe thể 
chất lẫn tinh thần của con người hiện đại 
(Xem: Amalia W., 2005). Do đó, các giải 
pháp tập trung vào một số vấn đề như: 
- Nhận thức, thái độ của người dân về 
biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, vệ 
sinh nước sạch, an toàn thực phẩm, các 
bệnh lây nhiễm và các bệnh nan y, mãn 
tính, chất lượng dịch vụ y tế, bình đẳng 
trong tiếp cận các dịch vụ y tế. 
- Hành vi về lối sống đô thị: ăn uống, 
lạm dụng chất kích thích, thói quen sinh 
hoạt và các hoạt động thể chất. 
- Khả năng ứng phó với các vấn đề về 
sức khỏe: biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi 
40 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
trường, tình trạng bệnh tật, thay đổi lối 
sống 
3. Cách tiếp cận nghiên cứu bất bình 
đẳng xã hội trong tiếp cận dịch vụ y tế - 
chăm sóc sức khỏe 
Tất cả các xã hội (cả quá khứ lẫn hiện 
tại) đều được đặc trưng bởi các khác 
biệt xã hội. Đó là một quá trình trong đó 
con người tạo nên khoảng cách do ứng xử 
khác nhau bởi các địa vị, vai trò và những 
đặc điểm khác. Sự khác biệt xã hội, chuẩn 
bị cho bất bình đẳng xã hội, là một điều 
kiện trong đó con người có cơ hội không 
ngang bằng về sử dụng của cải, quyền lực 
và uy tín. Sự khác biệt ấy chính là tiền đề 
của bất bình đẳng xã hội. 
Sức khỏe là mối quan tâm hàng đầu 
của mỗi cá nhân và có tác động sâu sắc 
đến sự phát triển kinh tế-chính trị của mỗi 
quốc gia. Người dân có sức khỏe sẽ làm 
tăng khả năng tạo ra nguồn của cải cho 
quốc gia và ngược lại. Thế nhưng, một tỷ 
lệ lớn người dân trên thế giới vẫn đang 
phải sống trong tình trạng thiếu thốn về 
lương thực, thực phẩm, nguồn nước sạch 
và các điều kiện vệ sinh không được bảo 
đảm. Điều này đã tác động tiêu cực đến 
sức khỏe của một bộ phận không nhỏ 
người dân. Bên cạnh đó, sự phân biệt đối 
xử giữa các nhóm xã hội khác nhau vẫn 
đang tồn tại, dẫn đến sự không ngang 
bằng nhau về chất lượng cuộc sống nói 
chung và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc 
sức khỏe nói riêng. 
 Sức khỏe là quyền cơ bản của con 
người. Sự bất bình đẳng, sự nghèo đói, 
nạn bóc lột, bạo lực và bất công là 
nguyên nhân chính gây ra bệnh tật, chết 
chóc cho người nghèo. Khi nói đến sức 
khỏe cho mọi người, điều đó có nghĩa 
là phải xem xét xem mọi người dân đã có 
sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe 
hay chưa. 
Tình trạng sức khỏe và khả năng tiếp 
cận các dịch vụ xã hội, trong đó có tiếp 
cận các dịch vụ y tế của người dân, chịu 
ảnh hưởng bởi các yếu tố quyết định sức 
khỏe và điều kiện xã hội nơi họ sống và 
làm việc, còn gọi là các yếu tố quyết định 
xã hội. Các yếu tố quyết định xã hội này 
có thể là nguyên nhân gây nên sự bất bình 
đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội và 
dịch vụ y tế của người dân. 
Các nghiên cứu về bình đẳng y tế, sức 
khỏe thường tiếp cận nghiên cứu nguyên 
nhân-kết quả của sự bất bình đẳng, chỉ ra 
sự bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch 
vụ y tế, chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm 
xã hội khác nhau, đồng thời đưa ra giải 
pháp nhằm nâng cao quyền lợi của các 
nhóm yếu thế thông qua các chương trình 
can thiệp y tế cộng đồng. Nghiên cứu của 
Michael Marmot (2007) cho rằng, muốn 
giải quyết được gốc rễ bất bình đẳng trong 
y tế, chăm sóc sức khỏe cần phải “trao 
quyền” và giải phóng sự “tự do” của các 
cá nhân, nhóm xã hội. Nghiên cứu hàm ý 
đã đến lúc cần giải quyết vấn đề cấp bách 
về bất bình đẳng trong y tế-sức khỏe. 
* 
* * 
Sức khỏe là một trong những yếu tố 
ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phát 
triển của cộng đồng, quốc gia. Cùng với 
sự phát triển của kinh tế-xã hội, đời sống 
vật chất của người dân được nâng cao, vấn 
đề chăm sóc sức khỏe trở thành vấn đề 
hàng đầu trong chiến lược y tế quốc gia ở 
các nước trên thế giới cũng như ở Việt 
Nam, đặc biệt ở các khu vực đô thị. Bài 
viết này hy vọng góp phần gợi mở những 
nghiên cứu về sức khỏe đô thị sâu rộng 
hơn, và phát triển những chương trình can 
thiệp sức khỏe cộng đồng  
Một số cŸch tiếp cận§ 41 
Tài liệu tham khảo 
1. Amalia Waxman (2005), “Why a 
global strategy on diet, physical 
activity and health?”, Nutrition and 
Fitness: Mental Health, Aging, and the 
Implementation of a Healthy Diet and 
Physical Activity Lifestyle, Vol.95: 
162-166, Karger Publishers. 
2. Angus Deation (2003), “Health, 
inequality and economic 
development”, Journal of Economic 
literature, 41(1): 113-158. 
3. Anthony Costello, et al (2009), 
“Managing the health effects of 
climate change”, The Lancet, 
373(9676): 1693-1733. 
4. Constance Lever-Tracy (2008), 
“Global warming and 
sociology”, Current Sociology, 56(3): 
445-466. 
5. Goran Dahlgren, Margaret Whitehead 
(1991), Policies and strategies to 
promote social equity in health, 
Institute for Future studies, Stockholm. 
6. Irwin M. Rosenstock (1974), “The 
health belief model and preventive 
health behavior”, Health Education & 
Behavior, 2(4): 354-386. 
7. Jorge Hardoy, Diana Mitlin, David 
Satterthwaite (1992), The Future city, 
Island Press, Washington D.C. 
8. Joseph J. Molnar (2010), “Climate 
change and societal response: 
livelihoods, communities and the 
environment”, Rural Sociology, 75(1): 1-16. 
9. Louis Jonah Opit (1993), “The 
measurement of health service 
outcomes”, Oxford textbook of public 
health, 3. 
10. Michael Marmot, on behalf of the 
Commission on Social Determinants 
of Health (2007), “Achieving health 
equity: From root causes to fair 
outcomes”, 370(9593): 1153-1163. 
11. Michael Senior, Bruce Viveash 
(1998), Health and Illness, Macmillan 
Press Ltd., London. 
12. Mildred Blaxter (2003), Health and 
lifestyles, Routledge. 
13. Nancy D. Berkman, Terry C. Davis and 
Lauren McCormack (2010), “Health 
literacy: What is it?”, Journal of 
Health communication, 15(S2): 9-19. 
14. Nguyễn Văn Thắng, Đặng Vũ Trung 
(2003), Nhân học y tế ứng dụng, Nxb. 
Đại học Y tế công cộng Hà Nội, Hà Nội. 
15. Phạm Văn Lình, Võ Văn Thắng 
(2008), Nhân học y tế, Nxb. Đại học Y 
Dược Huế, Huế. 
16. Robert B. Potter, Sally Lloyd-Evans, 
(1998), The City in the Developing 
World, Longman Harlow. 
17. Steven P. Brown and W. Leigh 
Thomas (1996), “A new look at 
psychological climate and its 
relationship to job involvement, effort, 
and performance”, Journal of Applied 
psychology, 81(4): 358-368. 
18. Ulrich Beck (2010), “Climate for 
change, or how to create a green 
modernity?”, Theory, Culture & 
Society, 27(2-3): 254-266. 
19. World Health Organization 
(2009), World health statistics, World 
Health Organization. 
20. W. Neil Adger, et al (2009), “Are 
there social limits to adaptation to 
climate change?”, Climate change, 93(3-
4): 335-354. 
21. York W. Bradshaw (1987), 
 “Urbanization and 
Underdevelopment: A Global study of 
Modernization, Urban Bias and 
Economic Dependency”, American 
Sociology Review, 52(2): 224-239. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
26235_88150_1_pb_8616.pdf