Đối với vùng biên giới Việt - Trung,
có khá nhiều vấn đề nảy sinh từ hôn nhân
xuyên biên giới đến an ninh, quốc phòng
khu vực biên giới. Xuất phát từ nhu cầu đi
làm thuê của một bộ phận lao động thuộc
các xã khu vực biên giới, những người đã
kết hôn ở bên kia biên giới luôn là đầu
mối tìm kiếm việc làm và liên hệ, đưa
người Việt Nam sang làm thuê. Do các
mối quan hệ thân thiết trong gia đình nên
phần lớn những người đi làm thuê trong
trường hợp này không khai báo với công
an hoặc bộ đội biên phòng. Việc qua lại
biên giới không có giấy tờ hợp pháp
thường gây ra nhiều vấn đề liên quan đến
an ninh, an toàn cho chính người lao
động, Họ bị một số kẻ xấu lợi dụng, thậm
chí còn bị tổ chức trấn lột, cướp tiền, tài
sản ở ngay trong khu vực biên giới. Hiện
tượng này diễn ra trong một thời gian dài,
gây hoang mang cho người dân sống ở
khu vực biên giới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Một số vấn đề về hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Một số vấn đề về hôn nhân xuyên biên giới 
với phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay(*) 
Đặng Thị Hoa(**) 
Tóm tắt: Hôn nhân xuyên biên giới là một hiện tượng xã hội đã xảy ra trong lịch sử và 
đang đặt ra những vấn đề mới trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay. Hôn 
nhân xuyên biên giới có những tác động không nhỏ tới sự phát triển của khu vực biên 
giới nước ta. Bên cạnh những yếu tố truyền thống như các mối quan hệ gia đình, họ 
hàng xuyên biên giới, thì hôn nhân xuyên biên giới tiềm ẩn một số vấn đề trong quản lý 
phát triển xã hội như: vấn đề di cư, việc làm xuyên biên giới, buôn bán trẻ em, phụ nữ 
xuyên biên giới, tội phạm xuyên biên giới, Bài viết tập trung phân tích xu hướng kết 
hôn xuyên biên giới tại một số tỉnh biên giới ở Việt Nam hiện nay và làm rõ những vấn 
đề đặt ra trong quản lý hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội. 
Từ khóa: Hôn nhân, Hôn nhân xuyên biên giới, Phát triển xã hội 
I. Về xu hướng kết hôn xuyên biên giới ở 
Việt Nam hiện nay(*)(**) 
1. Theo quan điểm chức năng luận, 
hôn nhân là một thể chế xã hội, có vai trò 
quan trọng trong phát triển, đó là chức 
(*)
 Bài viết là một phần kết quả nghiên cứu của đề 
tài cấp quốc gia Hôn nhân xuyên biên giới với phát 
triển xã hội ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay 
thuộc Chương trình KX02-11-15, được thực hiện 
trong 2 năm 2014-2015 tại 21 xã trên 10 huyện của 
6 tỉnh (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà 
Giang, Nghệ An và Kon Tum) với số lượng 1.536 
phiếu điều tra bảng hỏi hộ gia đình (dân tộc Kinh 
là 149, Tày-324, Nùng-304, Thái-166, Hmông-328, 
Xơ đăng-98, Gia rai-101, dân tộc khác-66) và 58 cuộc 
phỏng vấn sâu (cô dâu đã lấy chồng nước ngoài 
quay trở về Việt Nam; người thân-cha mẹ, anh chị 
em; người sống cùng thôn bản; người già am hiểu 
phong tục tập quán; công an viên; cán bộ phụ nữ; 
cán bộ bộ đội biên phòng). 
(**)
 TS., Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới; Email: 
danghoavdth@yahoo.com 
năng duy trì nòi giống, duy trì và phát 
triển các dòng gen của con người. Trong 
bối cảnh phát triển và hội nhập, các cuộc 
hôn nhân xuyên biên giới, xuyên quốc gia 
còn có chức năng quan trọng làm phát 
triển hơn, đa dạng hơn nguồn gen của các 
nhóm chủng tộc, các tộc người khác nhau, 
góp phần quan trọng trong việc làm đa 
dạng hơn hay cải tạo nòi giống. 
Sự lựa chọn kết hôn có thể nằm trong 
chiến lược nhằm mong muốn sự thay đổi 
địa vị, hoàn cảnh hay các mục tiêu cụ thể 
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong 
mối quan hệ trao đổi hôn nhân. Hôn nhân 
cũng được xem xét nằm trong những động 
lực của phát triển xã hội. Từ các mối quan 
hệ hôn nhân, các biến đổi xã hội đã được 
hình thành, có thể được tạo dựng từ góc 
độ văn hóa hay là một chiến lược. Cho dù 
dưới hình thức biến đổi văn hóa hay chiến 
Một số vấn đề§ 19 
lược thay đổi cuộc sống thì các cuộc hôn 
nhân cũng tạo ra những quan hệ xã hội 
mới, chu kỳ phát triển gia đình mới, 
không còn bó hẹp trong phạm vi cộng 
đồng truyền thống mà được mở ra ở một 
không gian rộng lớn hơn, thậm chí là bên 
ngoài biên giới quốc gia. Hôn nhân xuyên 
biên giới không phải là hiện tượng mới 
nhưng trong bối cảnh hiện nay đã có nhiều 
thay đổi so với trước đây. Các cuộc hôn 
nhân diễn ra trong bối cảnh không gian 
rộng hơn, không giới hạn trong một tộc 
người, giữa hai tộc người mà có sự tham 
gia của nhiều thành phần tộc người thuộc 
cùng hoặc khác nhóm ngôn ngữ. Mục đích 
của các cuộc hôn nhân cũng thay đổi và 
các cuộc hôn nhân đó cũng đang chịu tác 
động nhiều yếu tố mới. 
Trong xu thế phát triển và hội nhập 
toàn cầu, hôn nhân xuyên biên giới cũng 
cần nhìn nhận trong sự phát triển bởi tất 
cả các yếu tố tích cực và hạn chế của nó. 
Những vấn đề xã hội mới đang được đặt 
ra bởi các cuộc hôn nhân, trong đó có hôn 
nhân xuyên biên giới trong bối cảnh kinh 
tế thị trường, hiện đại hóa và hội nhập 
hiện nay trở thành những vấn đề xã hội và 
quản lý xã hội rất cấp thiết. Bên cạnh 
những vấn đề của gia đình đa văn hóa, các 
vấn đề liên quan đến di cư, việc làm, quản 
lý nhân khẩu, quyền con người trong hôn 
nhân, gia đình cần được nhìn nhận một 
cách thấu đáo và toàn diện từ góc độ quản 
lý phát triển xã hội. 
2. Xu hướng kết hôn xuyên biên giới 
ở Việt Nam hiện nay có chiều hướng tăng 
cả về số lượng và đa dạng hơn về tính 
chất. Quan hệ hôn nhân xuyên biên giới 
trong những năm gần đây lại có xu hướng 
giảm dần yếu tố đồng tộc và gia tăng yếu 
tố khác dân tộc. Trong các mối quan hệ 
văn hóa truyền thống, một số dân tộc cư 
trú gần biên giới kết hôn với đồng tộc của 
họ ở bên kia biên giới là hiện tượng vốn 
thường xảy ra. Tuy nhiên, xu hướng kết 
hôn khác tộc ngày càng phổ biến hơn 
không chỉ giữa các tộc người cư trú ở khu 
vực biên giới mà cả các tộc người cư trú ở 
sâu trong nội địa, như Thái, Khơ Mú, 
Mường (Thanh Hóa, Nghệ An). Một bộ 
phận không nhỏ người Kinh kết hôn với 
người Hán và một số tộc người thiểu số ở 
các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, thậm chí 
đi sâu vào nội địa một số địa phương khác 
của Trung Quốc. Dưới sự tác động ngày 
càng gia tăng của quá trình toàn cầu hóa, 
việc hôn nhân không đồng tộc xuyên biên 
giới là tất yếu, không chỉ có ở Việt Nam 
mà còn có ở nhiều quốc gia khác. 
Hiện nay chưa có số liệu thống kê đầy 
đủ về số lượng người kết hôn xuyên biên 
giới, nhưng theo ước tính, hiện có khoảng 
trên 50 nghìn phụ nữ Việt Nam kết hôn 
với người Trung Quốc, khoảng hơn 2 
nghìn người Việt Nam kết hôn với người 
Lào. Hiện tượng kết hôn xuyên biên giới 
vốn đã có trong lịch sử với đặc điểm của 
các thôn bản biên giới liền kề nhau, nhưng 
trở thành một trào lưu khá phổ biến từ 
những năm 1980 đến 2005 ở cả 3 vùng 
biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Việt 
Nam - Lào và Việt Nam - Camphuchia. 
Các tộc người có nhiều người kết hôn 
xuyên biên giới phải kể đến như: Tày, 
Nùng, Hmông, Hà Nhì, Lô Lô, Thái, Khơ 
mú, Giẻ-Triêng, Brâu, Cơ ho, 
Số liệu khảo sát thực địa tại 6 tỉnh 
biên giới cho thấy, các trường hợp kết hôn 
xuyên biên giới phần lớn có hoàn cảnh gia 
đình khó khăn, trình độ học vấn thấp và 
không có nguồn thu nhập khác ngoài nông 
nghiệp. Trong những năm gần đây, xu 
hướng đi tìm việc làm ở một số nước láng 
giềng như Trung Quốc, Lào trở nên khá 
phổ biến, là cơ hội dẫn tới các cuộc hôn 
nhân xuyên biên giới, nhất là đối với 
nhóm thanh niên trẻ ở độ tuổi dưới 30. 
Theo kết quả khảo sát tại 6 tỉnh, phần lớn 
20 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
các cuộc hôn nhân xuyên biên giới là do 
tự tìm hiểu và tự quyết định kết hôn 
(70,7%). Nhóm kết hôn qua mai mối hay 
có sự sắp xếp của cha mẹ chỉ chiếm 
11,3%. Đặc biệt, có 3,6% trường hợp kết 
hôn do cưỡng ép, lừa bán. Trong số các 
cuộc hôn nhân cưỡng ép và lừa bán, tỷ lệ 
cao nhất là do cha mẹ bắt ép, sắp đặt (240 
trường hợp), người lạ bắt ép, lừa bán (56 
trường hợp). 
Về độ tuổi kết hôn, nhóm phụ nữ kết 
hôn xuyên biên giới nhiều nhất ở độ tuổi 
từ 18 đến 25 tuổi (48,7%). Ở nhóm tuổi từ 
35 trở lên cũng chiếm tỷ lệ khá cao 
(30,4%), trong nhiều trường hợp phụ nữ 
đã quá lứa lỡ thì hoặc bị thất bại trong hôn 
nhân ở Việt Nam mong muốn tìm được 
hạnh phúc mới ở bên kia biên giới. Cá biệt 
có một bộ phận các em gái dưới 15 tuổi đã 
kết hôn xuyên biên giới ở dân tộc Tày 
(4,2%) và Nùng (2,7%). 
Phần lớn những người đã kết hôn 
xuyên biên giới không có liên lạc với gia 
đình như ở Lạng Sơn (39,9%), Cao Bằng 
(45,6%), Hà Giang (51,8%), Nghệ An 
(71,2%). Dân tộc Nùng có mối liên hệ mật 
thiết hơn cả trong số các tộc người được 
khảo sát. Có tới 30,3% số hộ gia đình có 
mức độ liên hệ hàng tháng và hàng năm 
với anh chị em ruột ở bên kia biên giới, 
dân tộc Tày là 13,1%, dân tộc Hmông là 
3,9%. Mức độ giúp đỡ của người thân đã 
và đang kết hôn ở bên kia biên giới đối với 
hộ gia đình cũng có tỷ lệ đáng kể. Với dân 
tộc Tày là 25% có hỗ trợ về mặt kinh tế, 
dân tộc Nùng là 34,4%, dân tộc Hmông là 
42,8% và dân tộc Kinh là 54,4%. 
Kết hôn xuyên biên giới vẫn luôn là 
một hướng đi có tính chiến lược đối với 
một số gia đình và các cô gái trẻ từ các 
vùng, địa phương trong cả nước nói 
chung, các tỉnh miền núi nói riêng. Từ các 
mối quan hệ làm ăn, buôn bán, thăm thân 
hình thành các mối quan hệ hôn nhân mới 
là điều khó tránh khỏi. Đây cũng là một 
trong những yếu tố làm gia tăng xu hướng 
kết hôn xuyên biên giới của một số tộc 
người cư trú vùng biên giới, nhất là ở 
vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc. 
Tuy nhiên, các cuộc kết hôn xuyên biên 
giới cũng đang tiềm ẩn nhiều vấn đề xã 
hội, trước hết là những rủi ro đối với bản 
thân những người phụ nữ kết hôn với 
người nước ngoài không thực hiện được 
các thủ tục kết hôn theo quy định của 
pháp luật nước sở tại. Bên cạnh trào lưu đi 
lấy chồng ở các nước láng giềng, nhiều 
trường hợp phụ nữ đã bị các đối tượng tội 
phạm lừa bán, ép gả hay buôn bán người 
qua biên giới. Do vậy, hôn nhân xuyên 
biên giới cũng đang đặt ra nhiều vấn đề 
trong quản lý đường biên giới và sự ổn 
định trong phát triển kinh tế-xã hội của 
các địa phương khu vực biên giới. 
II. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý 
hôn nhân xuyên biên giới với phát triển 
xã hội 
1. Quản lý đăng ký kết hôn 
Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ kết 
hôn xuyên biên giới có đăng ký kết hôn là 
rất thấp. Phần lớn trường hợp kết hôn 
xuyên biên giới không thực hiện bất kỳ 
thủ tục pháp lý nào trong đăng ký kết hôn, 
chủ yếu vẫn theo nhu cầu cá nhân. Hầu 
hết những trường hợp được hỏi có hôn 
nhân xuyên biên giới đều không thực hiện 
thủ tục đăng ký kết hôn tại Việt Nam hay 
ở nước sở tại. Tỷ lệ có đăng ký kết hôn chỉ 
dưới 10% trong số mẫu khảo sát. Tuy 
nhiên, theo nhận thức của người dân, do 
các thủ tục đăng ký kết hôn quá phức tạp, 
nhiều khi nằm ngoài mong đợi, ngoài khả 
năng của người kết hôn xuyên biên giới. 
Lý do chủ yếu không đăng ký kết hôn là 
hầu hết những người kết hôn xuyên biên 
giới là phụ nữ dân tộc thiểu số, họ không 
Một số vấn đề§ 21 
đủ điều kiện để đăng ký: không đủ giấy 
tờ, không đủ thời gian, không đủ hiểu biết 
(không biết tiếng, không biết chữ, không 
biết thủ tục pháp lý và cũng không biết 
phải đến những cơ quan nào để khai báo, 
làm các thủ tục hồ sơ). 
Thực tế là các cuộc hôn nhân xuyên 
biên giới ở Việt Nam hiện nay thường 
xuất phát từ các mối quan hệ trong lao 
động rồi gặp gỡ, nảy sinh tình cảm, hoặc 
cũng có người chủ định sang bên kia biên 
giới lấy vợ/chồng với mong muốn cuộc 
sống tốt hơn, có cái ăn, có cái mặc Do 
vậy, họ thường đi chui, không khai báo 
với chính quyền địa phương nơi đi cũng 
như nơi đến. Thường họ bỏ địa phương đi 
một thời gian, sau khi đã có gia đình, có 
cuộc sống riêng mới thông báo về cho 
người thân biết. Do vậy, sự can thiệp và 
giúp đỡ của người thân trong gia đình để 
thực hiện đăng ký kết hôn là rất khó khăn. 
2. Việc hỗ trợ cho những người kết 
hôn xuyên biên giới quay trở về Việt Nam 
Theo kết quả khảo sát tại 6 tỉnh biên 
giới, những trường hợp kết hôn xuyên 
biên giới không thành công dù với bất cứ 
lý do nào mà họ phải quay trở lại quê 
hương, chính quyền địa phương cũng đã 
có những quan tâm nhất định, hỗ trợ kịp 
thời để họ ổn định cuộc sống. Tuy nhiên 
số người nhận được sự hỗ trợ này không 
nhiều, cụ thể: nhập hộ khẩu/nhập quốc 
tịch (5,5%); hỗ trợ kinh tế ban đầu để ổn 
định cuộc sống như gạo, vốn hoặc ruộng 
đất,v.v... (4,6%); cấp giấy khai sinh/ quốc 
tịch cho con cái (4,4%); tạo điều kiện để 
con cái họ được đi học (4%); giúp tìm 
kiếm việc làm (3,3%); các loại hỗ trợ như 
dạy ngôn ngữ, giúp tìm hiểu tập quán văn 
hóa, hòa nhập, hỗ trợ về pháp lý để đòi 
quyền lợi từ cuộc hôn nhân hoặc bị gả bán, 
và giúp tạm trú hoặc ở nhà tạm lánh và 
khác, có tỷ lệ dao động từ 0,4% đến 1,2%. 
Theo ý kiến của cán bộ Hội Liên hiệp 
phụ nữ tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn, khi 
người phụ nữ kết hôn xuyên biên giới 
không thành công phải trở về quê hương, 
Hội phụ nữ đã đứng ra bảo lãnh cho chị 
em vay vốn, làm lại chứng minh thư và 
thuyết phục chính quyền nhập lại hộ khẩu 
cho họ. Tuy nhiên, trong quá trình hỗ trợ 
này, hội phụ nữ ở cơ sở gặp không ít khó 
khăn về các thủ tục hành chính. Bên cạnh 
đó, những người phụ nữ trở về trong điều 
kiện kinh tế rất khó khăn, không có việc 
làm, phải sống dựa vào người thân và 
thường rất nhạy cảm, lảng tránh trong giao 
tiếp cộng đồng. Số lượng chị em trở về 
được hỗ trợ rất ít, hầu hết họ đều phải tự lo 
cho cuộc sống của mình mà trong đó, 
không ít chị em do không chịu được sự vất 
vả, khó khăn trong cuộc sống đã buộc phải 
quay lại Trung Quốc với hy vọng tìm kiếm 
những cơ hội mới cho cuộc đời của họ. 
Vấn đề con nuôi, chăm sóc trẻ em là 
con của phụ nữ Việt Nam có hôn nhân 
xuyên biên giới vẫn đang còn bỏ ngỏ trong 
hệ thống pháp lý của Việt Nam hiện nay. 
Các quy định về việc nhận con nuôi, con 
nuôi của người nước ngoài hay người nước 
ngoài nhận con nuôi đều nằm ngoài các 
trường hợp con của những phụ nữ này. Bên 
cạnh đó, thủ tục pháp lý đối với việc nhận 
con nuôi, con của những người kết hôn 
xuyên biên giới đã trở về Việt Nam sinh 
sống chưa có hướng dẫn cụ thể. Theo ý 
kiến của các cán bộ quản lý ở cơ sở, phần 
lớn các trường hợp con của những phụ nữ 
Việt Nam kết hôn với người nước ngoài ở 
khu vực biên giới đã trở về hiện đang 
được người thân chăm sóc chưa được làm 
giấy khai sinh, nhập hộ tịch và triển khai 
các chính sách an sinh xã hội. Do vậy, các 
cháu nhỏ hết sức thiệt thòi khi chưa được 
hưởng các chế độ của chính sách an sinh 
xã hội kể cả của Việt Nam và các nước 
láng giềng. 
22 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
3. Vấn đề tạo việc làm, ổn định thu 
nhập và phát triển kinh tế hộ gia đình 
 Thiếu vốn, thiếu đất là những khó 
khăn chủ yếu mà các hộ gia đình có người 
thân kết hôn xuyên biên giới đang gặp 
phải trong hoạt động sản xuất/kinh doanh. 
Mặc dù đã và đang được hưởng những trợ 
giúp/ hỗ trợ nhất định trong phát triển sản 
xuất, các hộ gia đình ở khu vực biên giới 
vẫn gặp những khó khăn nhất định. Trong 
số 1.536 đại diện gia đình trả lời bảng hỏi, 
chỉ có 16,2% gia đình cho biết họ không 
gặp khó khăn trong hoạt động sản 
xuất/kinh doanh. Số còn lại có 32,2% gia 
đình gặp 1 khó khăn, 27,8% gia đình gặp 
2 khó khăn và 23,8% gia đình có từ 3 khó 
khăn trở lên trong hoạt động sản xuất/ 
kinh doanh. Tỷ lệ gia đình gặp khó khăn 
trong hoạt động sản xuất kinh doanh diễn 
ra phổ biến hơn ở các tỉnh Kon Tum 
(95,1%), Nghệ An (88,7%) và ít phổ biến 
hơn ở các tỉnh Quảng Ninh (74,1%) và 
Lạng Sơn (79,1%). 57,6% trên tổng số các 
gia đình cho biết họ thiếu vốn trong sản 
xuất kinh doanh, 39,3% gia đình cho biết 
khó khăn của họ là thiếu đất sản xuất và 
25,2% gia đình gặp khó khăn trong sản 
xuất do đất xấu. 
Tình trạng nghèo đói vẫn phổ biến ở 
khu vực biên giới. Kết quả khảo sát mức 
sống hộ gia đình ở các địa bàn nghiên cứu 
cho thấy, tỷ lệ gia đình nằm trong danh 
sách nghèo hoặc cận nghèo của địa 
phương khá cao, đặc biệt là ở các tỉnh Hà 
Giang, Nghệ An, Kon Tum. Tính chung 
trong tổng số các gia đình được khảo sát, 
có 30,7% gia đình thuộc hộ nghèo, 11,5% 
gia đình thuộc hộ cận nghèo. Tại Hà 
Giang, tỷ lệ hộ gia đình trong mẫu khảo 
sát thuộc danh sách hộ nghèo là 50,4%, 
cận nghèo là 4,9%. Người dân vùng biên 
giới chủ yếu sống bằng nông nghiệp, nghĩa 
là nguy cơ nghèo của các hộ gia đình ở 
vùng biên giới là rất lớn, đặc biệt khi mà 
tỷ lệ làm nông nghiệp cao hơn ở nhóm nữ 
giới, nhóm trung niên và nhóm người cao 
tuổi. Như vậy, nông nghiệp vẫn đang là 
hoạt động kinh tế chủ yếu của các tộc 
người vùng biên giới, đặc biệt ở nhóm phụ 
nữ, nhóm người cao tuổi. 
Trước thực trạng đó, một trong những 
chiến lược về lao động, việc làm được 
người dân vùng biên giới lựa chọn là đi 
làm thuê ở bên kia biên giới. Theo số liệu 
thống kê của lực lượng cảnh sát quản lý 
hành chính về trật tự xã hội công an các 
huyện, thành phố tỉnh Hà Giang (tính từ 
ngày 16/11/2009 đến ngày 15/4/2015), lực 
lượng này đã phát hiện 72.528 lượt công 
dân xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc, 
trong đó: nam 48.352 lượt người chiếm 
66,66%, nữ 24.176 lượt người chiếm 
33,33%, dưới 14 tuổi 4.835 lượt người 
chiếm 6,66%, dân tộc Hmông chiếm trên 
60,43%. Số tự quay về Việt Nam là 46.895 
lượt người, một số thường xuyên đi lại, 
một số đi vài ngày, vài tuần, vài tháng mới 
quay lại. Theo bộ đội biên phòng Hà Giang, 
thị trường lao động Trung Quốc tạo sức hút 
rất lớn, người lao động tự sang đó tìm việc. 
Lúc đầu chủ yếu là cư dân trong vùng biên 
giới đi lao động theo thời điểm, thời gian, 
mùa vụ. Nhưng dần dần, nó thu hút cả lao 
động trong các xã nội địa, các huyện nội 
địa và bây giờ đến các tỉnh nội địa, có 
nhiều người từ Thừa Thiên Huế, Thanh 
Hóa, Nghệ An cũng đua nhau sang Trung 
Quốc làm thuê. Từ sức hút về lao động 
việc làm đã nảy sinh các mối quan hệ dẫn 
tới hôn nhân và chu kỳ vòng quay của hôn 
nhân lại tiếp tục được mở rộng. 
Số liệu khảo sát tại 6 tỉnh cho thấy, có 
12% lao động độ tuổi 15 trở lên đang làm 
việc ở bên kia biên giới trong vòng 12 
tháng trước thời điểm điều tra. Tình trạng 
nam giới sang làm việc bên kia biên giới 
phổ biến hơn so với nữ giới (15,6% và 
8,2%). Có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ 
Một số vấn đề§ 23 
sang làm việc ở bên kia biên giới giữa các 
địa bàn nghiên cứu. Tỷ lệ lao động sang 
làm việc ở bên kia biên giới ở các tỉnh 
Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang cao hơn 
rất nhiều so với Nghệ An và đặc biệt là so 
với Kon Tum. Điều đó có nghĩa là tình 
trạng sang làm việc ở Trung Quốc diễn ra 
phổ biến hơn so với hai nước láng giềng 
khác là Lào và Campuchia. 
Tuy nhiên, vấn đề đáng quan ngại là 
tình trạng sang biên giới làm việc diễn ra 
hoàn toàn tự phát, trái phép. Công dân 
vượt biên trái phép sang Trung Quốc 
thường lao động tập trung tại các tỉnh 
Quảng Đông, Quảng Tây, chủ yếu là lao 
động phổ thông (phụ xây, làm gạch, phát 
nương, làm rẫy, thu hái nông sản, đào đãi 
vàng). Do quá trình lao động ở bên kia 
biên giới không có giấy tờ hợp pháp 
(không có thỏa thuận hợp tác với lao động 
bên Trung Quốc và cũng không có một 
thủ tục giấy tờ nào đảm bảo cho việc xuất 
khẩu lao động) nên người lao động dễ gặp 
rủi ro trong quá trình làm việc. Lao động 
xuyên biên giới không hợp pháp của cư 
dân khu vực biên giới không chỉ gây hệ 
lụy là những thiệt thòi về thu nhập của 
người dân mà còn cả những hệ lụy xã hội 
khác như tình trạng buôn bán người. Rõ 
ràng, trên thực tế, người dân di cư sang 
Trung Quốc hoặc Lào đã tìm kiếm được 
việc làm thu nhập cao nên cũng dễ hiểu tại 
sao người dân ở đây nhìn nhận rằng khi 
kết hôn với người Trung Quốc hoặc người 
Lào cũng sẽ dễ tìm được việc làm thu 
nhập cao. 
 4. Quản lý, ổn định địa bàn dân cư 
góp phần ổn định chính trị, an ninh vùng 
biên giới 
 Theo quan điểm của các cán bộ làm 
công tác quản lý hôn nhân xuyên biên giới 
ở cơ sở, quản lý hôn nhân xuyên biên giới 
ở khu vực biên giới đang đặt ra nhiều vấn 
đề nóng, liên quan chặt chẽ đến sự ổn định 
phát triển xã hội và an ninh biên giới. 
Trước hết, hôn nhân xuyên biên giới có 
mối liên hệ chặt chẽ với việc đảm bảo an 
ninh, quốc phòng khu vực biên giới. 
Theo báo cáo của các cơ quan an ninh 
khu vực biên giới, tình trạng vượt biên trái 
phép, đi lại thăm thân không thực hiện các 
quy định an ninh biên giới, buôn bán, bắt 
cóc phụ nữ, trẻ em, buôn bán ma túy, buôn 
hàng trốn thuế dựa vào các mối quan hệ 
đồng tộc, thân tộc, gia đình có người thân 
kết hôn ở bên kia biên giới đang là những 
vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến an 
ninh vùng biên giới, đặc biệt là vùng biên 
giới Việt - Trung và Việt - Lào. 
Đối với vùng biên giới Việt - Lào, có 
một số điểm nóng thuộc các tỉnh Sơn La 
(Mộc Châu, Sốp Cộp), Thanh Hóa 
(Mường Lát, Quan Sơn), Nghệ An (Quế 
Phong, Kỳ Sơn, Tương Dương). Tại các 
địa phương này, một bộ phận người dân 
tộc Hmông, Thái, Khơ mú lợi dụng mối 
quan hệ với người thân đang sinh sống ở 
vùng Bắc Lào liên kết vận chuyển hàng 
cấm, đặc biệt là ma túy, truyền đạo trái 
phép phát triển đạo Tin Lành ở khu vực 
vùng biên và vận động người di cư qua 
biên giới rất phức tạp. Các hoạt động xâm 
canh trồng cây thuốc phiện ở phía Lào dựa 
vào đồng tộc và người thân ở các làng bản 
sát biên giới đã gây ra nhiều khó khăn cho 
công tác quản lý an ninh khu vực biên 
giới. Phần lớn các đối tượng lợi dụng mối 
quan hệ gia đình, họ hàng từ các cuộc hôn 
nhân xuyên biên giới lén lút thâm nhập 
vào các bản sát biên giới để truyền đạo, 
vận chuyển mua bán ma túy. Riêng khu 
vực biên giới của tỉnh Nghệ An, tình trạng 
buôn lậu trâu bò qua biên giới rất khó 
kiểm soát. Hầu hết những người buôn bán 
trâu bò qua biên giới là người Hmông, 
thường có mối quan hệ anh em, họ hàng ở 
bên Lào và di chuyển bằng nhiều đường 
tắt, đường rừng sang Lào, gây rất nhiều 
24 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
khó khăn đối với bộ đội biên phòng trong 
kiểm soát an ninh khu vực biên giới. 
Đối với vùng biên giới Việt - Trung, 
có khá nhiều vấn đề nảy sinh từ hôn nhân 
xuyên biên giới đến an ninh, quốc phòng 
khu vực biên giới. Xuất phát từ nhu cầu đi 
làm thuê của một bộ phận lao động thuộc 
các xã khu vực biên giới, những người đã 
kết hôn ở bên kia biên giới luôn là đầu 
mối tìm kiếm việc làm và liên hệ, đưa 
người Việt Nam sang làm thuê. Do các 
mối quan hệ thân thiết trong gia đình nên 
phần lớn những người đi làm thuê trong 
trường hợp này không khai báo với công 
an hoặc bộ đội biên phòng. Việc qua lại 
biên giới không có giấy tờ hợp pháp 
thường gây ra nhiều vấn đề liên quan đến 
an ninh, an toàn cho chính người lao 
động, Họ bị một số kẻ xấu lợi dụng, thậm 
chí còn bị tổ chức trấn lột, cướp tiền, tài 
sản ở ngay trong khu vực biên giới. Hiện 
tượng này diễn ra trong một thời gian dài, 
gây hoang mang cho người dân sống ở 
khu vực biên giới. 
Một trong những vấn đề nóng luôn 
nổi lên ở vùng biên giới Việt - Trung là 
tình trạng buôn bán, bắt cóc, cưỡng ép phụ 
nữ, trẻ em gái có liên quan đến hôn nhân 
xuyên biên giới. Thường xảy ra trường 
hợp những người đồng tộc, thậm chí cả 
người thân trong gia đình lừa bán hay ép 
gả các cháu gái mới lớn sang làm vợ của 
người Trung Quốc và thu lợi bất chính. 
Trường hợp này rất khó kiểm soát vì họ là 
người thân, thông thạo về ngôn ngữ và 
văn hóa nên rất khó phát hiện từ trước. 
Hiện tượng này khá phổ biến dọc biên 
giới từ Quảng Ninh đến Lai Châu và xảy 
ra ở khá nhiều tộc người như: Tày, Nùng, 
Hmông, Dao, Sán Dìu, Sán Chay, Theo 
báo cáo của công an các tỉnh Lạng Sơn, 
Cao Bằng, Hà Giang, nhiều đối tượng hai 
bên biên giới thường cấu kết, hình thành 
các ổ nhóm, đường dây hoạt động tội 
phạm tại các xã, huyện biên giới. Phương 
thức, thủ đoạn rất tinh vi, hầu hết các vụ 
án đều có sự cấu kết giữa các đối tượng là 
người thân trong gia đình, trong quan hệ 
hôn nhân giữa Việt Nam và Trung Quốc. 
Tội phạm thường lợi dụng mối quen biết, 
sự thiếu hiểu biết của gia đình nạn nhân, 
gia đình đơn côi ở các địa bàn có hoàn 
cảnh khó khăn, xa xôi, hẻo lánh Một số 
trường hợp do khó khăn về kinh tế đã móc 
nối với bên kia để đưa con, cháu, thậm chí 
cả vợ sang Trung Quốc. Có nhiều trường 
hợp đã sang lấy chồng ở Trung Quốc, vì 
lợi nhuận lại quay trở về địa phương, dụ 
dỗ những người quen biết, người thân đưa 
sang Trung Quốc bán làm vợ. Bên cạnh 
đó, dọc biên giới Việt - Trung cũng là 
những điểm nóng về buôn bán và vận 
chuyển hàng hóa bất hợp pháp với thủ 
đoạn rất tinh vi, đặc biệt là nhóm tội phạm 
lợi dụng các mối quan hệ từ những cuộc 
hôn nhân xuyên biên giới. Điều này gây ra 
nhiều khó khăn cho lực lượng bảo vệ an 
ninh biên giới. 
* 
* * 
Có thể thấy, hôn nhân xuyên biên giới 
đang đặt ra những vấn đề mới trong việc 
đảm bảo sự ổn định ở khu vực biên giới, 
nhất là vùng biên giới Việt - Trung luôn 
diễn ra nhiều vấn đề phức tạp. Trong đó 
đáng quan tâm nhất là vấn đề tâm lý và 
niềm tin của cán bộ, nhân dân thuộc khu 
vực biên giới trong giải quyết những vấn 
đề cơ bản như lao động việc làm, ổn định 
đời sống và đảm bảo những vấn đề cơ bản 
trong quá trình phát triển như thực hiện và 
tuân thủ các quy định luật pháp và quyền 
của con người. Hôn nhân xuyên biên giới 
đã có những tác động không nhỏ dẫn tới 
sự bất ổn đó, tạo ra những khoảng trống 
trong quản lý xã hội và trở thành những 
rào cản trong phát triển xã hội ở vùng biên 
giới nói riêng và các tỉnh miền núi và dân 
tộc nói chung  
Một số vấn đề§ 25 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Văn Căn (2009), Chiến lược 
“Hưng biên phú dân” của Trung Quốc, 
Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
2. Công an tỉnh Hà Giang (2015), Báo 
cáo về tình hình công tác quản lý 
nhân, hộ khẩu vùng biên giới. 
3. Công an tỉnh Nghệ An (2014), Báo 
cáo tình hình kết quả công tác quản lý, 
phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng 
an ninh, công tác phối hợp quản lý 
nhà nước về kết hôn có yếu tố nước 
ngoài, công tác đấu tranh phòng 
chống tội phạm mua bán người trên 
địa bàn tỉnh Nghệ An. 
4. Công an tỉnh Quảng Ninh (2009), 
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý 
hành chính về trật tự xã hội vùng biên 
giới tỉnh Quảng Ninh, 
VN/bannganh/congantinh/Trang/Tin
%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?
newsid=1358&dt=2009-12-
25&cid=3. 
5. Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao Việt 
Nam, IOM, EU (2011), Báo cáo tổng 
quan về tình hình di cư của công dân 
Việt Nam ra nước ngoài. 
6. Trần Đức Cường (chủ biên, 2012), 
Phát triển xã hội và quản lý phát triển 
xã hội ở Việt Nam - Một số vấn đề lý 
luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
7. Chỉ thị số 766/1997/TTg, Nghị quyết 
số 09/1998/ NQ-CP, Chương trình 
hành động về phòng, chống tội phạm 
buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn 
2004-2010. 
8. Emily A. Shultz, Robert H. Lavenda, 
(2001), Một quan điểm về tình trạng 
nhân sinh, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
9. Đặng Thị Hoa và cộng sự (2015), 
Hôn nhân xuyên biên giới với phát 
triển xã hội ở các tỉnh miền núi nước 
ta hiện nay, Báo cáo kết quả nghiên 
cứu đề tài cấp quốc gia thuộc Chương 
trình KX02-11-15, Bộ Khoa học và 
Công nghệ. 
10. Vũ Đăng Mạnh (2015), Vị trí, vai trò 
của biên giới Việt - Trung đối với sự 
phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Hà 
Giang, Tham luận tại Hội thảo: “Phát 
triển kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang 
trong mối liên kết vùng Đông Bắc và 
Tây Bắc”, tháng 3/2015. 
11. Lý Quyên, Long Diệu (2007), “Bàn về 
các vấn đề pháp lý trong hôn nhân qua 
biên giới Việt Trung”, Tạp chí Chính 
trị Pháp luật, Học viện Cán bộ quản lý 
chính trị pháp luật Quảng Tây, Trung 
Quốc, số 1 (bản dịch từ tiếng Trung). 
12. R. Jon Mcgee, Rich L.Warms (2010), 
Lý thuyết nhân loại học, Nxb. Từ điển 
Bách khoa, Hà Nội. 
13. Lý Hành Sơn (2008), Quan hệ dân tộc 
vùng biên giới Việt - Lào, Báo cáo kết 
quả nghiên cứu đề tài cấp bộ, Viện 
Dân tộc học, Hà Nội. 
14. Lý Hành Sơn, Trần Mai Lan (2014), 
Quan hệ dân tộc xuyên quốc gia của 
một số tộc người vùng miền núi phía 
Bắc, Báo cáo tổng hợp kết quả thực 
hiện đề tài cấp bộ, Viện Dân tộc học. 
Hà Nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
26233_88142_1_pb_7688.pdf