Về sự biến đổi ở thành phần và cấu
trúc của chính sách xã hội của WB có thể
nêu bằng chứng về tín dụng của WB như
sau: Năm 2000, tổng giá trị tín dụng cho
các chính sách xã hội của WB là hơn 3,8
tỷ USD, chiếm một phần tư tổng các
khoản cho vay của ngân hàng này. Năm
2005, tổng giá trị cam kết cho vay 11 dự
án của WB đạt 95,4 tỷ USD. Tỷ trọng giá
trị của từng dự án lần lượt như sau: 1%
“Quản lý kinh tế”, 2% “Pháp luật”, 4%
“Thương mại”, 7% “Bảo trợ xã hội”, 8%
“Khu vực công”, 9% “Phát triển xã hội”,
11% “Phát triển đô thị”, 13% “Môi
trường”, 14% “Phát triển con người”, 14%
“Phát triển nông thôn”, 17% “Khu vực tài
chính và tư nhân” (Anthony Hall, 2007).
Trong cấu trúc tín dụng của WB, tín dụng
dành cho “Bảo trợ xã hội” là nhiều nhất,
chiếm gần 49% vào năm 2000, nhưng đến
năm 2005, tín dụng “Phát triển con người”
chiếm tỷ trọng nhiều nhất, hơn 44% (Bảng
2). Trong giai đoạn 2000-2005, các khoản
tín dụng của WB đều tăng, nhưng tăng
nhanh nhất là “phát triển con người”, tiếp
đến là “phát triển xã hội”. Điều này phản
ánh sự biến đổi kiến tạo xã hội nhằm phát
triển con người và phát triển xã hội trong
chính sách xã hội của WB
8 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 806 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Thuyết kiến tạo xã hội trong nghiên cứu khoa học chính sách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thuyết kiến tạo xã hội trong nghiên cứu
khoa học chính sách
Lê Ngọc Hùng(*)
Tóm tắt: Thuyết kiến tạo xã hội của Anne Schneider (Giáo sư trường Đại học bang
Arizona) và Helen Ingram (Giáo sư trường Đại học California, Irvine) cho thấy các
kiến tạo xã hội tức là các hình dung của xã hội về các nhóm dân số mục tiêu có ảnh
hưởng nhất định tới sự hình thành và biến đổi chính sách nói chung và chính sách xã
hội nói riêng. Các bằng chứng nghiên cứu triển khai thuyết kiến tạo xã hội của
Schneider và Ingram và trường hợp nghiên cứu chính sách xã hội của Ngân hàng Thế
giới (WB) chỉ ra tầm quan trọng ngày càng tăng của tri thức khoa học trong kiến tạo xã
hội, và chính sách xã hội dưới tác động của kiến tạo xã hội dựa trên tri thức khoa học
trở thành một công cụ hiệu quả để phát triển xã hội bao trùm, bền vững.
Từ khóa: Kiến tạo xã hội, Nhóm dân số mục tiêu, Chính sách xã hội, Bảo trợ xã hội,
Phát triển con người, Phát triển xã hội
1. Các giả định, định lý và khái niệm(*
* Tám giả định của thuyết kiến tạo xã hội
Bốn giả định về cá nhân. Theo
Jonathan J. Pierce và các đồng sự
(Jonathan J. Pierce, Saba Siddiki, Michael
D. Jones, Kristin Schumacher, Andrew
Pattison, and Holly Peteson, 2014), thuyết
kiến tạo xã hội của Schneider và Ingram
dựa trên tám giả định thuộc ba phạm trù,
ba nhóm là cá nhân, quyền lực và chính
trị. Bốn giả định về cá nhân lần lượt cho
rằng: (i) các chủ thể hành động không thể
xử lý được tất cả thông tin phù hợp để ra
(*)
GS.TS., Viện Xã hội học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh; Email:
hungxhh@gmail.com
quyết định mà phải dựa vào sự khám phá
trí tuệ để quyết định thông tin nào cần
thiết; (ii) sự khám phá trí tuệ chọn lọc
thông tin một cách thiên vị theo các kiến
tạo xã hội, qua đó thông tin nào phù hợp
với niềm tin đã có từ trước được giữ lại,
còn thông tin nào không phù hợp bị loại
bỏ; (iii) mọi người sử dụng các kiến tạo xã
hội theo cách chủ quan để đánh giá; và
(iv) hiện thực xã hội có giới hạn tương đối
nơi các cá nhân kiến tạo xã hội trong các
điều kiện khách quan.
Giả định về quyền lực. Chính sách
gắn liền với chính trị, do vậy thuyết kiến
tạo xã hội dựa trên một giả định về quyền
lực cho rằng (v) quyền lực phân bố
không đồng đều giữa các cá nhân trong
môi trường chính trị. Ở đây, quyền lực
được các tác giả thuyết kiến tạo xã hội
28 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 7.2016
xem xét trên ba phương diện, ba bộ mặt
quyền lực. Một là bộ mặt ảnh hưởng, tác
động có tính chất bắt buộc, cưỡng chế thể
hiện rõ qua các nguồn gốc chính trị, kinh
tế và uy tín xã hội. Bộ mặt thứ hai của
quyền lực thể hiện qua dư luận xã hội và
năng lực kiểm soát thông tin, tiếp cận
thông tin. Thứ ba là bộ mặt vô hình, rất
khó nhìn thấy và có thể gọi là “quyền lực
tượng trưng” (Pierre Bourdieu, 2011)
theo cách dùng từ ngữ của nhà xã hội học
Pierre Bourdieu.
Ba giả định về chính trị. Thuyết kiến
tạo xã hội dựa vào ba giả định về chính trị
trong mối quan hệ nhiều chiều với chính
sách. Các giả định này lần lượt cho rằng
(vi) chính sách tạo ra chính trị tương lai,
đến lượt nó chính trị này tạo ra chính sách
mới và chính trị mới; (vii) chính sách
truyền các thông điệp chứa đựng các kiến
tạo xã hội đến người dân làm thay đổi các
định hướng tham gia và các khuôn mẫu
tham gia của họ; và (viii) các chính sách
được tạo ra trong một môi trường chính trị
luôn thay đổi.
* Hai định lý của thuyết kiến tạo xã hội
Trên cơ sở tám giả định trên, thuyết
kiến tạo xã hội của Ingram và Schneider
đưa ra hai định lý về chính sách xã hội
như sau: (i) Sự phân bổ các lợi ích và các
gánh nặng chi phí cho các nhóm dân số
mục tiêu phụ thuộc vào hai đại lượng là
quyền lực và kiến tạo xã hội. Về mặt kiến
tạo xã hội, các cá nhân phân hóa thành hai
nhóm là nhóm tích cực, xứng đáng và
nhóm tiêu cực, không xứng đáng. Về mặt
quyền lực, các cá nhân phân hóa thành hai
nhóm có quyền lực và nhóm không quyền
lực. (ii) Các kiến tạo xã hội đối với các
nhóm dân số mục tiêu của chính sách có
ảnh hưởng bền vững đối với sự định
hướng chính trị và các khuôn mẫu tham
gia của các nhóm dân số mục tiêu này.
* Khái niệm “kiến tạo xã hội”
Theo Schneider và Ingram, kiến tạo
xã hội về các nhóm dân số mục tiêu là sự
xác định, nhận diện, mô tả tính cách văn
hóa thể hiện dưới hình thức các hình ảnh
phổ biến, đại chúng về các cá nhân hay
các nhóm mà hành vi và phúc lợi của họ
bị ảnh hưởng bởi chính sách công. Các
kiến tạo xã hội này mang tính quy chuẩn,
phán xét, đánh giá khi phác họa chân dung
các nhóm dân số theo nghĩa tích cực hay
tiêu cực, xứng đáng hay không xứng đáng,
có quyền lực hay không có quyền lực
thông qua các ngôn ngữ, biểu tượng, ẩn dụ
và các câu chuyện.
* Khái niệm “dân số mục tiêu”
Dân số mục tiêu là nhóm dân số hay
nhóm người mà sự thay đổi hành vi, hoạt
động, phúc lợi hay hạnh phúc của họ là mục
tiêu của chính sách. Theo thuyết kiến tạo xã
hội, chính sách là các nỗ lực có chủ đích
nhằm thay đổi hoạt động và quan hệ xã
hội của nhóm dân số nhất định và nhóm
dân số đó gọi là nhóm “dân số mục tiêu”.
* Các kiến tạo xã hội về nhóm dân số
mục tiêu
Các kiến tạo xã hội này là: (i) sự thừa
nhận các đặc điểm chung của nhóm dân số
mục tiêu như là một nhóm có ý nghĩa xã
hội và (ii) sự quy kết các hệ giá trị, các
biểu tượng và các hình ảnh cụ thể cho các
đặc điểm đó.
Các kiến tạo xã hội là các khuôn mẫu
nhận thức, các hình ảnh về các nhóm người
nhất định mà các khuôn mẫu này được tạo
bởi chính trị, văn hóa, giáo dục, lịch sử,
truyền thông đại chúng, văn học, tôn giáo
và các thiết chế khác. Các kiến tạo xã hội
diễn ra trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
xã hội cụ thể. Các kiến tạo xã hội tích cực
về nhóm dân số mục tiêu bao gồm các hình
ảnh hay mô tả với những từ ngữ như
“thông minh”, “trung thực”, “chăm chỉ”,
Thuyết kiến tạo xž hội§ 29
“hào phóng”, “xứng đáng”. Các kiến tạo xã
hội tiêu cực bao gồm các hình ảnh hay mô
tả với những từ ngữ như “ngu ngốc”, “gian
dối”, “ích kỷ”, “không xứng đáng”. Ví dụ,
các kiến tạo xã hội về người nghèo có thể
đem lại hình ảnh hay mô tả tích cực về
người nghèo là người chịu khó, chăm chỉ,
trung thực nhưng không may mắn, nghèo
khổ không phải lỗi của họ, họ xứng đáng
được xã hội trợ giúp. Nhưng kiến tạo xã
hội cũng có thể đem lại hình ảnh hay mô tả
tiêu cực về người nghèo, ví dụ coi họ là
người lười biếng.
* Bốn nhóm dân số mục tiêu
Schneider và Ingram đã kết hợp quyền
lực với kiến tạo xã hội để xác định được
bốn nhóm dân số mục tiêu của chính sách,
đó là: (i) nhóm “ưu thế” gồm người già,
doanh nhân, cựu chiến binh và những
người khác, (ii) nhóm “đối thủ” gồm
những người giàu, người dân tộc thiểu số
và những người khác, (iii) nhóm “phụ
thuộc” gồm trẻ em, người khuyết tật, các
bà mẹ và những người khác, và (iv) nhóm
“sai lệch” gồm các phạm nhân, người
nghiện, các băng nhóm và những người
khác (Bảng 1).
Bảng 1: Bốn nhóm dân số mục tiêu
trên cơ sở kết hợp kiến tạo xã hội
với quyền lực chính trị
Kiến tạo xã
hội tích cực
Kiến tạo xã
hội tiêu cực
Quyền lực
mạnh
Nhóm “ưu
thế” (người
già, doanh
nhân, cựu
chiến
binh,)
Nhóm “đối
thủ” (người
giàu, người
dân tộc
thiểu số,)
Quyền lực
yếu
Nhóm “phụ
thuộc” (trẻ
em, người
khuyết tật,..)
Nhóm “sai
lệch” (phạm
nhân, người
nghiện hút...)
Nguồn: Anne Schneider and Helen Ingram,
1993: 336
* Động thái biến đổi kiến tạo xã hội
Theo Schneider và Ingram, các kiến
tạo xã hội không cố định mà vận động,
biến đổi do nhiều nguyên nhân, yếu tố
khác nhau. Ví dụ: trước đây kiến tạo xã
hội về những người nhiễm HIV/AIDS
thường dán cho họ cái nhãn tiêu cực là
nhóm người “tệ nạn xã hội”, thậm chí là
nhóm người “tội phạm” và thuộc nhóm
dân số “sai lệch”. Do vậy, những người
này thường bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử,
thậm chí bị thu gom, giam giữ, trừng phạt.
Nhưng hiện nay kiến tạo xã hội về người
nhiễm HIV/AIDS đã thay đổi, họ được
kiến tạo xã hội là “người bệnh” và thuộc
nhóm dân số “phụ thuộc”, do vậy họ cần
được trợ giúp xã hội, được chăm sóc và
điều trị bệnh để giảm thiểu tác hại. Trên
thực tế, Việt Nam đã ban hành Luật
Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS) năm 2006 và Chương
trình mục tiêu quốc gia phòng, chống
HIV/AIDS giai đoạn 2012-2015.
2. Thuyết kiến tạo xã hội và chính sách
* Kiến tạo xã hội về các nhóm dân số
mục tiêu với các chính khách và các nhà
hoạch định chính sách
Câu hỏi đặt ra đối với lý thuyết khoa
học là yếu tố nào ảnh hưởng đến chính
sách xã hội nói riêng và chính sách nói
chung? Lý thuyết của Schneider và
Ingram cho phép trả lời được câu hỏi kép
này, khi chỉ ra rằng các kiến tạo xã hội
ảnh hưởng đến chính sách thông qua các
chính khách và những người hoạch định,
xây dựng và ban hành chính sách.
Theo thuyết kiến tạo xã hội, các chính
khách và các nhà hoạch định chính sách
không chỉ nhạy cảm chính trị, tức là bị tác
động mạnh bởi quyền lực chính trị, mà họ
còn chịu ảnh hưởng của các kiến tạo xã
hội phổ biến trong xã hội. Các kiến tạo xã
30 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 7.2016
hội đó thường được phản ánh thông qua
các phương tiện truyền thông đại chúng,
dư luận xã hội và ý kiến của các chuyên
gia và các nhóm xã hội khác.
Các nhóm “ưu thế” và nhóm “đối thủ”
được kiến tạo xã hội tích cực và có quyền
lực, năng lực ảnh hưởng đến các chính
khách và các nhà hoạch định chính sách
dẫn đến kết quả là chính sách được ban
hành có lợi cho các thành viên của nhóm
họ. Trong khi đó, các nhóm “phụ thuộc”
và nhóm “sai lệch” vừa bị kiến tạo xã hội
một cách tiêu cực, “không xứng đáng”,
vừa không có đủ năng lực ảnh hưởng, tác
động đến các chính khách và những người
hoạch định chính sách như những người
thuộc nhóm “ưu thế” và nhóm “đối thủ”.
Điều này giải thích tại sao trong các cuộc
khủng hoảng tài chính - kinh tế, một
trong những loại chính sách sớm được
ban hành nhất là chính sách hỗ trợ “kích
cầu”, và thường là “kích cầu” các doanh
nghiệp rồi mới đến “kích cầu” người tiêu
dùng. Các chính sách khác như trợ giá,
bù giá chỉ áp dụng đối với một số mặt
hàng thuộc loại nhu cầu sinh hoạt thiết
yếu và chủ yếu là được dành cho nhóm
“phụ thuộc”.
Ví dụ khác: khi bàn về mối quan hệ
giữa dân chủ và chính sách xã hội cụ thể
là trong giảm nghèo, Amartya Sen cho
rằng các chính khách và những người
hoạch định chính sách cần phải đối mặt
với sự chỉ trích của công chúng để được
kích thích chính trị mạnh mẽ buộc họ
phải ban hành chính sách và tiến hành
các biện pháp nhằm ngăn chặn nạn đói
(Amartya Sen, 1998). Điều này có nghĩa
là các kiến tạo xã hội về người nghèo cần
phải kịp thời truyền tải đến các chính
khách và những người ban hành chính
sách xã hội để họ có thể thay đổi chính
sách hoặc đưa ra chính sách mới nhằm
xóa đói, giảm nghèo và cải thiện mức
sống của người nghèo.
* Kiến tạo xã hội về lợi ích và gánh
nặng chi phí đối với các nhóm dân số
mục tiêu
Câu hỏi nghiên cứu là: các lợi ích và
gánh nặng, chi phí được chính sách phân
bổ như thế nào cho các nhóm dân số mục
tiêu? Theo Schneider và Ingram, các lợi
ích được phân bổ không bình đẳng, không
đồng đều cho bốn nhóm dân số mục tiêu
do các nhóm này được kiến tạo xã hội
theo những cách khác nhau. Các lợi ích
được kỳ vọng phân bổ nhiều cho nhóm
“ưu thế” và nhóm “đối thủ”, nghĩa là các
nhóm này thường được nhận các lợi ích
vượt quá mức cần thiết để đảm bảo hiệu
quả của chính sách. Trong khi đó các
nhóm “phụ thuộc” và nhóm “sai lệch”
thường được phân bổ quá ít các nguồn lực
và lợi ích cần thiết. Đồng thời các nhóm
“phụ thuộc” và nhóm “sai lệch” thường
bị phân bổ các gánh nặng chi phí quá sức
họ, trong khi nhóm “ưu thế” chỉ phải
mang một gánh nặng dưới tầm sức lực
của họ. Điều này có thể xảy ra trên thực
tế do nhóm “ưu thế” được kiến tạo xã hội
một cách tích cực và có quyền lực, năng
lực gây ảnh hưởng đến các chính khách
và các nhà hoạch định chính sách, đồng
thời nhóm này có quyền lực, năng lực
đưa ra chương trình nghị sự chính sách.
Trong khi các nhóm “phụ thuộc” và
nhóm “sai lệch” được kiến tạo xã hội tiêu
cực và có ít quyền lực, ít năng lực để có
thể ảnh hưởng đến các chính khách, các
nhà hoạch định chính sách và khó có thể
đưa ra được vấn đề gì cho chương trình
nghị sự chính sách.
* Kiến tạo xã hội về các công cụ
chính sách
Thuyết kiến tạo xã hội của Schneider
và Ingram cho rằng, các nhóm “ưu thế” và
Thuyết kiến tạo xž hội§ 31
nhóm “đối thủ” với các kiến tạo xã hội
tích cực và có quyền lực nên thường được
áp dụng các công cụ chính sách mang tính
dân chủ để phát triển, nâng cao năng lực
trên cơ sở tự chủ, tự giác. Trong khi đó
các nhóm “phụ thuộc” và nhóm “sai lệch”
thường được áp dụng các công cụ chính
sách mang tính độc đoán, áp đặt, bắt buộc,
cưỡng chế. Điều này vẫn có thể xảy ra ngay
cả khi không ít các chương trình, chính
sách xã hội như chính sách xóa đói, giảm
nghèo luôn đề cao việc thu hút sự tham
gia của người nghèo và nâng cao năng lực
của người nghèo. Trong trường hợp này,
nhóm “phụ thuộc” chủ yếu được tham gia
thực hiện các quyết định chứ không phải
tham gia xây dựng và ra quyết định.
* Kiến tạo xã hội về cơ sở lý luận của
chính sách
Kiến tạo xã hội về động cơ, lý do và
căn cứ của chính sách. Câu hỏi đặt ra là
tại sao cần phải thực hiện chính sách này
hay chính sách kia? Câu trả lời liên quan
đến kiến tạo xã hội về cơ sở lý luận, lý do
lựa chọn chính sách. Các chính sách đối
với nhóm “ưu thế” thường viện dẫn lý do
quan trọng ở cấp độ vĩ mô và mang tính
chất công cụ, ví dụ lý do thường được nêu
lên là để nâng cao tính cạnh tranh của nền
kinh tế, để đảm bảo an ninh quốc gia, để
tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia. Trong khi lý do để thực hiện
chính sách đối với nhóm “phụ thuộc” và
nhóm “sai lệch” thường nhấn mạnh
nguyên tắc “công bằng xã hội”, “bình
đẳng xã hội” về cơ hội đảm bảo đáp ứng
các nhu cầu tối thiểu, đảm bảo mở rộng
các cơ hội bình đẳng cho các cá nhân tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Kiến tạo xã hội về các thông điệp, các
định hướng và sự tham gia của các nhóm
dân số mục tiêu. Chính sách đưa ra các
kiến tạo xã hội dưới hình thức các thông
điệp khác nhau và do vậy ảnh hưởng đến
các định hướng và sự tham gia một cách
khác nhau của các nhóm dân số mục tiêu.
Ví dụ, đối với nhóm “ưu thế”, thông điệp
chính sách cho biết vấn đề của nhóm là
vấn đề tích cực, quan trọng của quốc gia
cần được tôn trọng giải quyết; các định
hướng hành động của nhóm này là ủng hộ
một cách công bằng, cởi mở và cùng có
lợi; đối với chính phủ là ủng hộ; sự tham
gia của nhóm là tự giác, tích cực, chủ
động. Trong khi đó, đối với nhóm “phụ
thuộc”, thông điệp chính sách cho biết vấn
đề của nhóm là vấn đề khó khăn mang
tính chất đặc thù của nhóm cần được quan
tâm giúp đỡ để khắc phục; các định hướng
hành động của nhóm này là thụ động,
trông đợi vào sự hướng dẫn, hỗ trợ của
chính phủ.
Mối quan hệ của biến đổi các kiến tạo
xã hội với biến đổi chính sách. Theo
Schneider và Ingram, chính sách bị ảnh
hưởng bởi các kiến tạo xã hội và tác động
trở lại làm thay đổi các kiến tạo xã hội.
Các thành phần và cấu trúc của các nhóm
dân số mục tiêu biến đổi và các kiến tạo
xã hội về các nhóm dân số này cũng thay
đổi, trong đó một số kiến tạo xã hội mới
xuất hiện và các kiến tạo xã hội cũ thay
hình, đổi dạng tương ứng với những thay
đổi ở nhóm đó. Đồng thời chính sách biến
đổi theo hướng, một mặt thiên vị có lợi
cho các nhóm “ưu thế” và nhóm “đối thủ”,
mặt khác vừa mở rộng các chủ đề nội
dung và vừa nâng cao phúc lợi xã hội, bảo
trợ xã hội và phát triển xã hội, nâng cao
năng lực phát triển cho các nhóm dân số
mục tiêu, trong đó nổi bật là nhóm “phụ
thuộc” gồm người nghèo, đồng bào dân
tộc thiểu số và các nhóm yếu thế khác.
Các công cụ chính sách cũng thay đổi
nhằm tăng cường sự hợp tác, tham gia một
cách dân chủ, công khai, minh bạch và có
trách nhiệm của các bên liên quan. Các
32 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 7.2016
thay đổi này của chính sách đều làm thay
đổi các kiến tạo xã hội về các nhóm dân
số mục tiêu cho phù hợp với các điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định. Điều đặc biệt ở
đây là nhóm “ưu thế” với tính cách là
nhóm có quyền lực và được kiến tạo xã
hội một cách tích cực nên luôn có quyền
lực, năng lực, kỹ năng. Nhóm này không
những gây ảnh hưởng đến các chính
khách, các nhà hoạch định chính sách, mà
còn gây ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình
chính sách từ chương trình nghị sự chính
sách đến xác định mục tiêu, phân bổ lợi
ích và gánh nặng, lựa chọn công cụ,
phương tiện và tham gia vào chính sách.
Như vậy, thuyết kiến tạo xã hội vừa góp
phần giải thích sự xuất hiện và biến đổi
chính sách, vừa gợi ý đổi mới, hoàn thiện
chính sách trên cơ sở nắm bắt được các
kiến tạo xã hội hiện hành về các nhóm dân
số mục tiêu và tính đến việc định hướng,
điều chỉnh, đổi mới các kiến tạo xã hội
thông qua việc xây dựng, ban hành và thực
hiện những chính sách xã hội nhằm mục
tiêu phát triển xã hội bao trùm, bền vững.
3. Nghiên cứu khoa học chính sách theo
thuyết kiến tạo xã hội
* Các nghiên cứu vận dụng và phát
triển thuyết kiến tạo xã hội
Jonathan J. Pierce và các đồng sự
(Jonathan J. Pierce, Saba Siddiki, Michael
D. Jones, Kristin Schumacher, Andrew
Pattison, and Holly Peteson, 2014) đã tiến
hành tổng quan tình hình nghiên cứu lý
thuyết và nghiên cứu - phát triển thuyết
kiến tạo xã hội của Schneider và Ingram.
Trong vòng 20 năm (1993-2013), các tác
giả này đã tập hợp được 562 công trình
nghiên cứu dưới dạng các bài đăng tạp
chí, sách và các chương sách trích dẫn, áp
dụng thuyết kiến tạo xã hội của Schneider
và Ingram. Từng công trình khoa học này
được xem xét để xác định công trình nào
áp dụng hay phát triển lý thuyết kiến tạo
xã hội được chọn đưa vào mẫu khảo sát và
loại bỏ những công trình chỉ trích dẫn mà
không bình luận hay áp dụng một định đề
nào của thuyết kiến tạo xã hội ra khỏi mẫu
nghiên cứu. Kết quả rà soát này tạo ra
được một mẫu khảo sát gồm 123 công
trình nghiên cứu, trong đó 111 công trình
có nội dung áp dụng lý thuyết và 12 công
trình có nội dung xây dựng lý thuyết của
gần 100 tác giả khác nhau thuộc 12 nước
khác nhau trên thế giới. Các công trình
nghiên cứu này đã áp dụng thuyết kiến tạo
xã hội vào xác định được 141 nhóm dân
số mục tiêu của chính sách. Trong số đó,
nhóm “sai lệch” chiếm 35% là nhóm
người vừa thiếu quyền lực, vừa bị kiến tạo
xã hội một cách tiêu cực, ví dụ những
người nhiễm HIV/AIDS và những tội
phạm khác. Nhóm “phụ thuộc” chiếm
32% gồm những người thiếu quyền lực
nhưng được kiến tạo xã hội một cách tích
cực, ví dụ người nghèo, người sống chung
với HIV/AIDS, trẻ em nghèo.
Hai nhóm dân số mục tiêu này chiếm
67% tổng số các nhóm dân số mục tiêu
được xác định trong các công trình nghiên
cứu được khảo sát. Do vậy, có thể nói
những nội dung chủ yếu của chính sách xã
hội được triển khai trên thực tế nhằm vào
nhóm dân số mục tiêu “sai lệch” và “phụ
thuộc”. Chính sách xã hội được coi là cần
thiết đối với các nhóm dân số mục tiêu
này là các chính sách về phúc lợi xã hội,
di cư, quyền công dân và nhà ở.
Nhóm “ưu thế” chiếm 18% tổng số
các nhóm dân số mục tiêu được xác định
và bao gồm những người có ít nhiều
quyền lực để ra quyết định hay ảnh hưởng
đến người khác và được kiến tạo xã hội
một cách tích cực, ví dụ người già, trí
thức, công chức, viên chức, người kinh
doanh nhỏ. Nhóm “đối thủ” chiếm 15%
gồm những người có quyền lực nhưng bị
Thuyết kiến tạo xž hội§ 33
kiến tạo xã hội một cách thiếu tích cực, ví
dụ người già, người đồng giới.
* Nghiên cứu trường hợp chính sách
xã hội của Ngân hàng Thế giới
Dựa vào thuyết kiến tạo xã hội của
Schneider và Ingram có thể nêu giả thuyết
nghiên cứu là: thành phần và cấu trúc của
chính sách xã hội của WB thay đổi dưới
tác động của các biến đổi của các kiến tạo
xã hội về chính sách của WB.
Về sự biến đổi của các kiến tạo xã hội
và chính sách xã hội của WB có thể nêu
hai bằng chứng như sau. Thứ nhất, năm
1974 một số nhà xã hội học nông thôn lần
đầu tiên được WB tuyển dụng, đến năm
2002 đã có khoảng 200 chuyên gia về phát
triển xã hội được WB tuyển dụng làm cán
bộ của WB hoặc hợp đồng ngắn hạn góp
phần nâng cao hiệu quả của các dự án phát
triển. Thứ hai, quan niệm coi chính sách
xã hội như là dịch vụ đảm bảo phúc lợi xã
hội và bảo trợ xã hội được cho là dựa trên
cách tiếp cận lý thuyết nhu cầu cơ bản của
con người, lý thuyết vốn người(*) và lý
thuyết hiện đại hóa trong xóa đói giảm
nghèo được khởi xướng vào những năm
1980. Rất có thể quan niệm coi chính sách
xã hội là sự phát triển xã hội dựa trên cơ
sở lý luận quan niệm phát triển là quyền
tự do của Amartya Sen và các đồng sự
(Amartya Sen, 1998). Theo thuyết kiến
tạo xã hội, các ý kiến chuyên môn của các
(*)
Gary Becker, người được Giải thưởng Nobel
về khoa học kinh tế đã có công lớn trong nghiên
cứu về vốn con người và thu hút sự quan tâm chú
ý thảo luận về vốn đầu tư phát triển con người
trong chính sách công từ những năm 1960 đến
nay (G. Becker, 1961). Bản tiếng Việt: Gary S.
Becker (2010), Vốn con người: Phân tích lý
thuyết và kinh nghiệm liên quan đặc biệt đến giáo
dục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Mở đầu phần
một “Phân tích lý thuyết” của cuốn sách này,
Becker đã trích Alfred Marshall “Trong tất cả các
nguồn vốn, nguồn vốn đầu tư vào con người là
đáng giá nhất” (tr.55).
chuyên gia về phát triển xã hội, nhất là
những người được WB tuyển dụng, có
ảnh hưởng và tác động nhất định đến
chính sách xã hội của WB và của các cơ
quan, tổ chức khác trên thế giới.
Về sự biến đổi ở thành phần và cấu
trúc của chính sách xã hội của WB có thể
nêu bằng chứng về tín dụng của WB như
sau: Năm 2000, tổng giá trị tín dụng cho
các chính sách xã hội của WB là hơn 3,8
tỷ USD, chiếm một phần tư tổng các
khoản cho vay của ngân hàng này. Năm
2005, tổng giá trị cam kết cho vay 11 dự
án của WB đạt 95,4 tỷ USD. Tỷ trọng giá
trị của từng dự án lần lượt như sau: 1%
“Quản lý kinh tế”, 2% “Pháp luật”, 4%
“Thương mại”, 7% “Bảo trợ xã hội”, 8%
“Khu vực công”, 9% “Phát triển xã hội”,
11% “Phát triển đô thị”, 13% “Môi
trường”, 14% “Phát triển con người”, 14%
“Phát triển nông thôn”, 17% “Khu vực tài
chính và tư nhân” (Anthony Hall, 2007).
Trong cấu trúc tín dụng của WB, tín dụng
dành cho “Bảo trợ xã hội” là nhiều nhất,
chiếm gần 49% vào năm 2000, nhưng đến
năm 2005, tín dụng “Phát triển con người”
chiếm tỷ trọng nhiều nhất, hơn 44% (Bảng
2). Trong giai đoạn 2000-2005, các khoản
tín dụng của WB đều tăng, nhưng tăng
nhanh nhất là “phát triển con người”, tiếp
đến là “phát triển xã hội”. Điều này phản
ánh sự biến đổi kiến tạo xã hội nhằm phát
triển con người và phát triển xã hội trong
chính sách xã hội của WB.
* * *
Thuyết kiến tạo xã hội của Schneider
và Ingram là một trong các phiên bản của
thuyết kiến tạo xã hội (Peter Berger,
Thomas Luckmann, 1966; Lê Ngọc Hùng,
2016) được xây dựng và triển khai trong
khoa học chính sách từ năm 1993 đến nay.
Thuyết này cho thấy các kiến tạo xã hội
34 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 7.2016
về các nhóm dân số mục tiêu có ảnh
hưởng nhất định tới sự hình thành và biến
đổi chính sách nói chung và chính sách xã
hội nói riêng. Các bằng chứng nghiên cứu,
triển khai thuyết kiến tạo xã hội của
Schneider và Ingram và trường hợp
nghiên cứu chính sách xã hội của WB cho
thấy tầm quan trọng ngày càng tăng lên
của tri thức khoa học trong kiến tạo xã
hội. Đồng thời chính sách xã hội dưới tác
động của kiến tạo xã hội dựa trên tri thức
khoa học trở thành một công cụ hiệu quả
để phát triển xã hội bao trùm, bền vững
Tài liệu tham khảo
1. Amartya Sen (1998), Phát triển là
quyền tự do, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
2. Anne Schneider and Helen Ingram
(1993), “Social construction of target
populations: Implications for politics
and policy”, The American Political
Science Review, Vol.87, No2, June.
3. Anne Schneider and Mara Sidney
(2009), “What is next for policy disign
and social construction theory”, The
Policy Studies Journal, Vol.37. Issue
1, Pp. 103-119, February 2009.
4. Anthony Hall (2007), “Social policies
in the World Bank: Paradigm and
Challenges”, Global Social Policy, No7.
5. Lê Ngọc Hùng (2016), “Chính sách xã
hội và kiến tạo xã hội: Một số vấn đề
lý thuyết và thực tiễn”, Tạp chí Thông
tin Khoa học lý luận chính trị, số 1.
6. Jonathan J. Pierce, Saba Siddiki,
Michael D. Jones, Kristin
Schumacher, Andrew Pattison, and
Holly Peteson (2014), “Social
construction and policy design: A
review of past applications”, The
Policy Studies Journal, Vol.42, No1.
7. Patricia Kennett (2004), “Constructing
categories and data collection”, in:
Patricia Kennett, A Handbook of
Comparative Social Policy, Edward
Elgar Publishing Ltd, USA.
8. Peter Berger, Thomas Luckmann
(1966), Sự kiến tạo xã hội về thực tại:
Khảo luận về xã hội học nhận thức,
Trần Hữu Quang chủ biên dịch, giới
thiệu và chú giải (2015), Nxb. Tri
thức, Hà Nội.
9. Pierre Bourdieu (2011), Sự thống trị
của nam giới, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26167_87874_1_pb_148.pdf