Đánh giá BN qua các test chẩn đoán:
73 BN (98,7%) khi làm test Valsava và
nghiệm pháp ho đều cho kết quả dương
tính và 2 BN (2,7%) làm test Bonney cho
kết quả âm tính. Kết quả của chúng tôi
phù hợp với nghiên cứu của các tác giả
trong nước [3, 5, 6]. 100% BN đều có
lượng nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu
(đo bằng thông tiểu) trước khi phẫu thuật
> 100 ml, trong đó 65 BN (87,8%) có
lượng nước tiểu tồn dư từ 100 - 150 ml
và 9 BN (12,2%) có lượng nước tiểu tồn
dư > 150 ml. Lượng nước tiểu tồn dư
trung bình 132,6 ± 19,5 ml, trong đó thấp
nhất 100 ml và nhiều nhất 170 ml, không
có khác biệt về lượng nước tiểu tồn dư
trung bình theo các mức độ són tiểu
(mức độ són tiểu nhẹ: 132,4 ± 19,5 ml và
mức độ són tiểu vừa: 134,5 ± 19,9 ml. Kết
quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu
của Nguyễn Tân Cương [2] và Lê Sĩ Trung
[6].
Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ có lượng nước tiểu tồn dư theo
từng mức độ giữa 2 nhóm tuổi 30 - 49 và > 50 tuổi với p > 0,05 (Fisher’s exact = 0,696).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định chỉ định của phẫu thuật TOT trong điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
95
XÁC ĐỊNH CHỈ ĐỊNH CỦA PHẪU THUẬT TOT TRONG
ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT KHI GẮNG SỨC Ở PHỤ NỮ
Mai Trọng Hưng1; Vũ Huy Nùng2; Lê Anh Tuấn3
TÓM TẮT
Mục tiêu: xác định chỉ định của phẫu thuật TOT trong điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng
sức ở phụ nữ. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang 74 bệnh nhân
được chẩn đoán són tiểu không tự chủ tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ 01 - 01 - 2013 đến 5 -
2018. Kết quả và kết luận: 100% bệnh nhân có són tiểu; kèm theo đái khó 80,7%, sa sinh dục
96,8%. Bệnh nhân có són tiểu kèm theo các rối loạn tiểu tiện như són tiểu khi gắng sức, són
tiểu gấp (58,1%) hoặc phối hợp, són phân (19,4%), không chủ động trung tiện (29%). Khi thăm
khám tình trạng trương lực cơ cổ bàng quang, cơ niệu đạo: 100% test Valsava dương tính; nghiệm
pháp ho dương tính (100%). Lượng nước tiểu tồn dư đo bằng thông tiểu sau khi đi tiểu >
100 ml, còn cảm giác muốn tiểu mà khó đi tiểu (100%). Tình trạng thai sản, số lần mang thai,
số lần sinh đẻ, trọng lượng nặng nhất của con sinh ra và phương pháp đẻ mổ là những yếu tố
ảnh hưởng tới chỉ định cho phẫu thuật TOT.
* Từ khóa: Tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ; Chỉ định phẫu thuật; Phẫu thuật TOT.
ĐẶT VẤN ĐỀ
International Continents Society (ICS)
định nghĩa về tiểu không kiểm soát: "Tiểu
tiện không kiểm soát hay són tiểu là tình
trạng thoát nước tiểu ra ngoài không theo
ý muốn, là một vấn đề xã hội và vệ sinh
liên quan đến những than phiền về chất
lượng cuộc sống". Bệnh gặp chủ yếu ở
phụ nữ, són tiểu hiện đang là một bệnh lý
ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt, tâm sinh lý,
công việc và chất lượng sống của bệnh
nhân (BN) trên toàn thế giới. Tỷ lệ són
tiểu chung trong cộng đồng dao động từ
25 - 45% [7].
Tiểu tiện không kiểm soát là một gánh
nặng tâm lý làm giảm chất lượng sống.
Từ khi nhà Sản-Phụ khoa người Mỹ -
Howard Kelly (1914) lần đầu tiên công bố
kỹ thuật điều trị són tiểu do gắng sức [8],
nhiều nghiên cứu về sinh lý tiểu tiện, cơ
chế bệnh sinh, dịch tễ học và phương
pháp điều trị, dự phòng đã được tiến
hành nhằm giảm nhẹ gánh nặng bệnh tật
cho phụ nữ. Tuy vậy, són tiểu vẫn chưa
được quan tâm điều trị đầy đủ ở một số
nước [1].
Ở Việt Nam, trước đây do điều kiện kinh
tế, tập tục văn hóa phương Đông khiến
BN ngại không đi khám nên bệnh lý này ít
được nhắc đến tại các bệnh viện lớn và
trong cộng đồng. Tìm hiểu về đặc điểm
lâm sàng són tiểu ở phụ nữ, các yếu tố có
liên quan cũng như đánh giá phẫu thuật
điều trị són tiểu hiện nay sẽ mang lại
những thông tin hữu ích giúp điều trị và
phòng bệnh sau này.
1. Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
2. Học viện Quân y
3. Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding author): Mai Trọng Hưng (haiyenhcd@gmail.com)
Ngày nhận bài: 15/12/2019; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 24/12/2019
Ngày bài báo được đăng: 31/12/2019
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
96
Tại Việt Nam, phẫu thuật điều trị tiểu
không kiểm soát khi gắng sức bằng phẫu
thuật TOT (trans obturator tape) mới
được áp dụng trong những năm gần đây,
tuy có nhiều ưu điểm nhưng chưa có
công trình nghiên cứu toàn diện về chỉ
định, kỹ thuật và hiệu quả của phẫu thuật
này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu này với mục tiêu: Xác định chỉ định
của phẫu thuật TOT trong điều trị tiểu
không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng, địa điểm và thời gian
nghiên cứu.
74 BN được chẩn đoán són tiểu không
tự chủ tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ
01 - 01 - 2013 đến 5 - 2018.
* Tiêu chuẩn lựa chọn BN:
- Được chẩn đoán tiểu tiện không kiểm
soát khi gắng sức.
- Có rối loạn tiểu tiện đến khám tại
Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
- Đồng ý hợp tác nghiên cứu có điều
kiện theo dõi sau phẫu thuật.
- Đủ sức khỏe chịu đựng cuộc phẫu thuật.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Tất cả BN són tiểu không kiểm soát
không có chỉ định phẫu thuật do các bệnh
lý toàn thân và tại chỗ không có điều kiện
gây tê, gây mê.
- BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- BN tiểu không kiểm soát không có chỉ
định phẫu thuật.
2. Phương pháp nghiên cứu.
* Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến
cứu, mô tả cắt ngang.
* Cỡ mẫu nghiên cứu: áp dụng phương
pháp chọn mẫu toàn bộ.
* Chỉ tiêu nghiên cứu:
- Hỏi bệnh và khám lâm sàng BN đến
khám, khai thác bệnh sử, tiền sử (theo
mẫu bệnh án nghiên cứu), giải thích cho
BN hợp tác nghiên cứu.
- Tiến hành làm các nghiệm pháp thăm
khám để lựa chọn những BN són tiểu.
* Xử lý và phân tích số liệu:
Nhập tất cả thông tin ghi nhận từ BN
vào bảng biến số của phần mềm thống kê
STATA 12.0. Sử dụng các thuật toán
thống kê thích hợp. Thống kê mô tả:
thống kê phân tích (phép kiểm Chi bình
phương, phép kiểm chính xác Fisher,
phép kiểm t-test, phép kiểm Wilcoxon
rank sum). Hệ số tương quan Pearson khi
xét mối tương quan giữa các biến định
lượng trong nghiên cứu. Các kiểm định
được xem có ý nghĩa thống kê (có khác
biệt hoặc có mối liên quan) khi giá trị p <
0,05. Khi OR được sử dụng, khoảng tin
cậy 95% của OR đi qua 1 được xem
không có ý nghĩa thống kê.
* Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu:
Quá trình nghiên cứu luôn đảm bảo
tuân thủ đúng các quy tắc về GCP - thử
nghiệm lâm sàng tốt của Bộ Y tế và ICH.
Trong quá trình nghiên cứu, nghiên cứu
viên luôn đảm bảo tuân thủ đúng đề
cương nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
BÀN LUẬN
28 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng
đối chứng ngẫu nhiên trong phân tích gộp
với 2.477 BN trong nhóm TOT. Tổng quan
hệ thống và phân tích tổng hợp cho thấy
TOT có hiệu quả tốt hơn với biểu hiện
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
97
giảm thời gian phẫu thuật, thời gian nằm
viện, tỷ lệ biến chứng, mất máu, dẫn đến
giảm thang điểm VAS, IIQ-7 và UDI-6 khi
so sánh với phẫu thuật TVT, chỉ ra phẫu
thuật TOT là phương pháp hiệu quả và
an toàn hơn trong điều trị són tiểu [11].
Bảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng
nghiên cứu.
Chỉ tiêu Số lượng (X ± SD)
Tỷ lệ (%)
(Min-max)
Trung bình 55,3 ±
10,8
30 - 83
(tuổi)
Trong tuổi sinh đẻ (30 - 50) 20 27,0
Ngoài tuổi sinh đẻ (> 50 ) 54 73,0
Nghề nghiệp
Làm ruộng 21 28,4
Công nhân 7 9,5
Cán bộ 8 10,8
Lao động thuê 3 4,0
Khác 35 47,3
Trình độ học vấn
Mù chữ 6 8,1
Cấp 1 22 29,8
Cấp 2 24 32,4
Cấp 3 8 10,8
Cao đẳng - đại học 5 6,7
Tuổi trung bình 55,3 ± 10,8, thấp nhất
30 tuổi, cao nhất 83 tuổi. Trong đó, 73%
BN ngoài độ tuổi sinh đẻ. Bệnh xảy ra ở
tất cả ngành nghề và trình độ học vấn.
Trong 28 nghiên cứu thử nghiệm lâm
sàng đối chứng ngẫu nhiên ở 2.477 BN
điều trị bằng phương pháp TOT, tuổi
trung bình từ 50 - 60 tuổi, trong đó tập
trung nhất từ 52 - 55 tuổi, tương đương
kết quả của chúng tôi. Điều này cho thấy
tình hình mắc són tiểu ở Việt Nam và các
nước trên thế giới có tương đồng [11].
Kết quả của chúng tôi cao hơn so với
nghiên cứu của Hồ Nguyễn Tiến về điều
trị són tiểu khi gắng sức bằng phẫu thuật
đặt Bandelette dưới niệu đạo (tuổi trung
bình: 51,8 ± 11,9; thấp nhất 39 và cao
nhất 67 tuổi) [1] và của Nguyễn Tân
Cương trong điều trị tiểu không kiểm soát
ở phụ nữ bằng nâng niệu đạo kiểu TVT
(tuổi trung bình: 49,8 ± 7,2; thấp nhất 33
và cao nhất 69 tuổi) [2]. Các nghiên cứu
đều thống nhất tỷ lệ són tiểu tăng lên theo
tuổi [3, 10], > 40 tuổi có nguy cơ són tiểu
cao hơn (RR = 2,16; 95%CI = 1,86 - 2,57)
[10]. Chính vì vậy, són tiểu được coi là
tiến triển bình thường không thể tránh
được của tuổi tác. Tuy vậy, không nên coi
són tiểu là bình thường ở người có tuổi
dù thay đổi ở bàng quang và tổ chức
trong tiểu khung góp phần làm bệnh xuất
hiện [4].
BN làm ruộng chiếm tỷ lệ cao nhất
(29%), tiếp đến là công nhân (16,1%).
Cán bộ công chức và lao động thuê chiếm
tỷ lệ ít hơn (9,7% và 6,5%). Kết quả của
chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của
Nguyễn Thị Tân Sinh về thực trạng công
việc và thời gian làm việc của BN [5].
Bảng 2: Phân bố BN theo tình trạng
thai sản (n = 74).
Tình trạng thai sản n Tỷ lệ (%)
Đã từng có thai:
Sinh con ≤ 2 lần
Sinh con 3 - 4 lần
Sinh con > 4 lần
74
12
42
20
100
16,2
61,3
27,0
Có nạo hút:
Nạo hút 1 lần
Nạo hút > 1 lần
56
22
34
75,7
29,7
46,0
Số lần sinh con
trung bình 2,7 ± 1,0 (1 - 6)
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
98
Kết quả cho thấy, số lần có thai, nạo
hút cũng như số lần đẻ, trọng lượng cân
của con khi sinh ra có ảnh hưởng tới tình
trạng són tiểu của BN. Kết quả của chúng
tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn
Tân Cương (số lần sinh trung bình 2,5 lần
và cao nhất 10 lần mang thai) [2] và
Hồ Nguyễn Tiến (số con trung bình 3,4 ± 1,6;
ít nhất 1 con và nhiều nhất 6 con) [1].
Như vậy, số lần sinh thường ảnh hưởng
đến độ giãn của tầng sinh môn. Trong
nghiên cứu, 87,1% BN sinh ≥ 2 lần. Theo
Nguyễn Tân Cương, chỉ tính riêng nhóm
người bệnh đẻ > 2,5 lần là 63% trong
tổng số BN mổ TOT [2].
* Mối liên quan giữa các triệu chứng và
chỉ định phẫu thuật TOT trong điều trị tiểu
không kiểm soát khi gắng sức:
- Phân bố BN theo tính chất són tiểu:
tiểu đêm: 74 BN (100%); tiểu lắt nhắt
nhiều lần/một lần đi: 27 BN (36,5%); tiểu
khó phải rặn: 61 BN (82,4%); nước tiểu tự
chảy ra mà không hề có cảm giác đi tiểu:
21 BN (28,4%); tiểu xong còn muốn đi
nhưng không ra: 47 BN (63,5%); phải đi
tiểu gấp: 44 BN (59,5%); từng bị són tiểu
khi gắng sức: 42 BN (56,8%); từng bị mót
tiểu gấp: 32 BN (43,2%); són tiểu khi
quan hệ tình dục: 10 BN (13,5%). Như
vậy, có thể thấy tình trạng són tiểu rất đa
dạng và có nhiều loại hình trên lâm sàng.
Kết quả của chúng tôi cao hơn của Hồ
Nguyễn Tiến và CS: 28% BN có kèm sa
sinh dục, cuộc sống kèm các rối loạn đi
tiểu 30%, tuy nhiên 100% BN đều vào
viện với lý do són tiểu, trong đó mức độ 1:
12%, mức độ 2: 52% và mức độ 3: 36% [1].
Nghiên cứu của chúng tôi, trong số
các BN bị són tiểu, 100% BN đều bị són
tiểu khi gắng sức; 58,1% BN bị són tiểu
gấp và phối hợp; 22,6% BN són tiểu khi
giao hợp, 19,4% BN són tiểu kèm theo
són phân và 29% són tiểu kèm theo
không chủ động trung tiện. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị
Tân Sinh [5], Nguyễn Thị Thanh Tâm [3],
Nguyễn Thị Ngọc Phượng [4], nhưng cao
hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Tân
Cương [2].
- Phân bố BN theo lý do vào viện: són
tiểu: 74 BN (100%); sa sinh dục: 71 BN
(96%), trong đó sa sinh dục độ 1: 56 BN
(78,9%); độ 2: 5 BN (7%); độ 3: 10 BN
(14,1%); sa cổ tử cung: 19 BN (25,7%);
sa thành trước âm đạo: 66 BN (89,2%);
không BN nào bị bệnh trực tràng.
Kết quả của chúng tôi cao hơn so với
nghiên cứu của Hồ Nguyễn Tiến (tỷ lệ
sa sinh dục kèm theo 28%) [1] và của
Daher N (tỷ lệ có kèm theo sa sinh dục
30%) [9].
- Phân bố BN theo bệnh kết hợp và
một số yếu tố nguy cơ: viêm đường tiết
niệu: 50 BN (67,6%); viêm bàng quang:
21 BN (28,4%); bị chấn thương vùng sinh
dục (khâu mổ đẻ): 7 BN (9,5%); táo bón:
36 BN (48,7%); trĩ kết hợp: 10 BN (13,5%);
mãn kinh: 20 BN (27%); công việc nặng:
60 BN (81,1%); stress trong cuộc sống:
60 BN (81,1%).
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
99
Bảng 3: Phân bố BN theo mức độ són tiểu khi thăm khám (n = 74).
Són tiểu n Tỷ lệ (%)
Mức độ són tiểu khi khám:
Ướt quần lót (độ 1)
Ướt cả quần ngoài (độ 2)
67
7
90,5
9,5
Thời gian mắc són tiểu:
Vài lần/năm
Vài lần/tháng
Vài lần/tuần
15
54
5
20,2
73,0
6,8
Bảng 4: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo BMI và tình trạng són tiểu (n = 74).
Gắng sức Gấp Tổng
BMI
n % n % n %
< 18,5 4 9,5 4 12,5 8 10,8
18,5 - 22,9 26 61,9 21 65,6 47 63,5
≥ 23 12 28,6 7 21,9 19 25,7
Trong số BN có són tiểu, 10,8% BN
được đánh giá là gày; 63,5% bình thường
và 25,7% béo phì. Trong 28 nghiên cứu
thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu
nhiên ở 2.477 BN điều trị bằng phương
pháp TOT, BMI chủ yếu từ 25 - 30 được
đánh giá là béo phì. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ BN có BMI > 25 rất ít,
tập trung chủ yếu từ 21 - 23. Đây là khác
biệt lớn so với các nghiên cứu trên thế
giới [11]. Về tình trạng són tiểu khi gắng
sức và gấp ở các mức độ, BMI khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Tân Sinh [5]
cho thấy có mối liên quan giữa chỉ số BMI
≥ 22 và tình trạng són tiểu. Nguy cơ mắc
són tiểu của người có chỉ số BMI ≥ 22
cao hơn người có BMI < 22 với OR = 1,77;
95%CI: 1,31 - 2,4. Kết quả của chúng tôi
cũng có mức độ són tiểu với BMI tăng dần,
phù hợp với nghiên cứu của Hồ Nguyễn Tiến
(32% BN có BMI ≥ 23) [1].
- Đánh giá BN qua các test chẩn đoán:
73 BN (98,7%) khi làm test Valsava và
nghiệm pháp ho đều cho kết quả dương
tính và 2 BN (2,7%) làm test Bonney cho
kết quả âm tính. Kết quả của chúng tôi
phù hợp với nghiên cứu của các tác giả
trong nước [3, 5, 6]. 100% BN đều có
lượng nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu
(đo bằng thông tiểu) trước khi phẫu thuật
> 100 ml, trong đó 65 BN (87,8%) có
lượng nước tiểu tồn dư từ 100 - 150 ml
và 9 BN (12,2%) có lượng nước tiểu tồn
dư > 150 ml. Lượng nước tiểu tồn dư
trung bình 132,6 ± 19,5 ml, trong đó thấp
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
100
nhất 100 ml và nhiều nhất 170 ml, không
có khác biệt về lượng nước tiểu tồn dư
trung bình theo các mức độ són tiểu
(mức độ són tiểu nhẹ: 132,4 ± 19,5 ml và
mức độ són tiểu vừa: 134,5 ± 19,9 ml. Kết
quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu
của Nguyễn Tân Cương [2] và Lê Sĩ Trung
[6].
Mối liên quan giữa lượng nước tiểu tồn dư và tuổi
85
15
88.9
11.1
0
20
40
60
80
100
≥ 100 - 150 ml > 150 ml
Tuổi 30 - 49 Tuổi > 50
Linear (Tuổi 30 - 49) Linear (Tuổi > 50)
Biểu đồ 1: Mối liên quan giữa tuổi và lượng nước tiểu tồn dư (n = 74).
Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ có lượng nước tiểu tồn dư theo
từng mức độ giữa 2 nhóm tuổi 30 - 49 và > 50 tuổi với p > 0,05 (Fisher’s exact = 0,696).
Bảng 4: Một số chỉ số sinh hóa theo mức độ són tiểu.
Chỉ số Độ 1 Độ 2 p
Hồng cầu 4,5 ± 0,4 4,5 ± 0,2 0,61a
Bạch cầu 7,9 ± 6,5 6,7 ± 1,4 0,64b
Tiểu cầu 272.3 ± 51.3 268,1 ± 86,9 0,85b
Hemoglobin 130,5 ± 7,7 130,6 ± 7,5 0,98a
Ure 4,6 ± 1,3 5 ± 1,5 0,4b
Creatinin 66,2 ± 13,3 73,7 ± 9,2 0,11b
SGOT 25 ± 9,6 23,9 ± 4,8 0,83b
SGPT 24,2 ± 14,1 26,1 ± 4,9 0,48b
(a: T-student test; b: Mann-Whitney U test)
Không có sự khác biệt về các chỉ số sinh hóa theo các mức độ són tiểu với p > 0,05.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
101
KẾT LUẬN
100% BN có són tiểu hoặc có kèm theo
đái khó (80,7%), sa sinh dục (96,8%). BN
có són tiểu kèm theo có các rối loạn tiểu
tiện như són tiểu khi gắng sức, són tiểu
gấp (58,1%) hoặc phối hợp, kèm theo són
phân (19,4%), kèm theo không chủ động
trung tiện (29%). Khi thăm khám tình trạng
trương lực cơ cổ bàng quang, cơ niệu đạo:
các test Valsava dương tính; nghiệm pháp
ho dương tính (100%). Lượng nước tiểu
tồn dư đo bằng thông tiểu sau khi đi tiểu
> 100 ml, 100% còn cảm giác muốn tiểu
mà khó đi tiểu.
Tình trạng thai sản, số lần mang thai,
số lần sinh đẻ, trọng lượng nặng nhất của
con sinh ra và phương pháp đẻ mổ là
những yếu tố ảnh hưởng tới chỉ định
phẫu thuật TOT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Nguyễn Tiến, Lê Sỹ Phương, Bạch
Cẩm An, Phan Viết Lâm. Kết quả điều trị són
tiểu khi gắng sức bằng phẫu thuật đặt Bandelette
dưới niệu đạo. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh.
2010, 5, tr.32-38.
2. Nguyễn Tân Cương, Từ Thành Trí Dũng,
Trần Lê Linh Phương, Vũ Hồng Thịnh,
Nguyễn Hoàng Đức. Đánh giá kết quả ban
đầu điều trị tiểu không kiểm soát ở phụ nữ
bằng nâng niệu đạo kiểu TVT. Tạp chí Y học
TP. Hồ Chí Minh. 2009, 13, tr.205-209.
3. Nguyễn Thị Thanh Tâm. Nghiên cứu
tỷ lệ són tiểu ở phụ nữ mãn kinh tại
Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ. Tạp chí Y học TP.
Hồ Chí Minh. 2008, 3.
4. Nguyễn Thị Ngọc Phượng. Nghiên cứu
tình hình rối loạn tiểu tiện ở phụ nữ trước
và sau mãn kinh. Tạp chí Y học Thực hành.
1998, 5.
5. Nguyễn Thị Tân Sinh. Nghiên cứu thực
trạng són tiểu và một số yếu tố liên quan ở nữ
nhân viên Bệnh viện Bạch Mai. Luận văn
Bác sỹ Chuyên khoa Cấp II. Trường Đại học Y
Hà Nội. 2007.
6. Lê Sĩ Trung. Điều trị són tiểu ở phụ nữ
bằng phương pháp TOT: kinh nghiệm ban đầu
qua 15 trường hợp. Tạp chí Y học Việt Nam.
2006, 326, tr.1-6.
7. Hannestad Y.S et al. A community-based
epidemiological survey of female urinary
incontinence: The Norwegian EPINCOMT study.
Epidemiology of Incontinence in the country of
Nord - Trondelag. J Clin Epideniol. 2000. 53,
pp.1150-1157.
8. Honna Y et al. Urodynamics. Incontinence
2nd edition, Plymouth, UK. Plymouth Distributors.
2002.
9. Daher N, Gagneur O, Gondry J,
Mention J.E, Merviel P, Boulanger J.C. TVT
prépubien. Étude prospective longitudinale
dans le traitement de l’incontinence urinaire
d’effort de la femme: À propos de 164 cas.
Gynécologie Obstétrique & Fertilité. 2005, 33,
pp.570-576.
10. Davis G et al. Urinary incontinence
among female soldiers. Military Medicine. 1999,
164 (9), pp.182-187.
11. Huang Z.M, Xiao H, Ji Z.G, Yan W.G,
Zhang Y.S. TVT versus TOT in the treatment of
female stress urinary incontinence: A systematic
review and meta-analysis. Ther Clin Risk
Manag. 2018, 14, pp.2293–2303. Published
2018 Nov 20. doi:10.2147/TCRM.S169014.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xac_dinh_chi_dinh_cua_phau_thuat_tot_trong_dieu_tri_tieu_kho.pdf