MỤC LỤC
Lời cam đoani
Lời cảm ơnii
Mục lụciii
Danh mục các chữ viết tắtv
Danh mục bảng biểuvi
Danh mục hìnhvii
1. MỞ ĐẦU1
1.1. Đặt vấn đề1
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU3
2.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh sản của bò cái3
2.2. Tình hình nghiên cứu về đề tài trong và ngoài nước27
3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU31
3.1.Đối tượng nghiên cứu31
3.2. Nội dung nghiên cứu31
3.3. Phương pháp nghiên cứu32
3.4. Phương pháp xử lý số liệu41
3.5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu41
3.6. Nguyên liệu41
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN42
4.1. Kết quả điều tra thực trạng khả năng sinh sản của đàn bò lai hướng sữa ở Ba Vì – Hà Nội.42
4.1.1. Tuổi phối giống lần đầu và khối lượng cơ thể của đàn bò lai hướng sữa43
4.1.2.Tuổi đẻ lứa đầu và khối lượng cơ thể của đàn bò cái lai hướng sữa46
4.1.3. Thời gian động dục lại sau khi đẻ của bò lai hướng sữa48
4.1.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ49
4.1.5. Hệ số phối giống51
4.1.6. Tỷ lệ thụ thai53
4.2. Hiện tượng rối loạn sinh sản của đàn bò lai hướng sữa ở Ba Vì54
4.3. Kết quả ứng dụng kỹ thuật ELISA định lượng FSH và progesterone56
4.3.1. Kết quả định lượng FSH56
4.3.2. Kết quả định lượng Progesterone62
4.4. Kết quả ứng dụng một số hormone và chế phẩm hormone sinh dục để điều trị một vài hiện tượng rối loạn sinh sản ở bò sữa do nguyên nhân buồng trứng70
4.4.1. Kết quả ứng dụng chế phẩm prostaglandin (PGF2α) điều trị bò có thể vàng tồn lưu70
4.4.2. Kết quả ứng dụng GnRH kết hợp với PGF2α điều trị bò có buồng trứng kém phát triển72
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ74
5.1. Kết luận74
5.2. Đề nghị75
TÀI LIỆU THAM KHẢO77
MỘT SỐ HÌNH ẢNH83
DANH MỤC HÌNH
ơ
STTTên hìnhTrang
2.1. Đồ thị sóng nang trong chu kỳ9
2.2. Hypothalamus điều khiển hoạt động hệ nội tiết13
2.3. Cơ chế thần kinh thể dịch điều hoà chu kỳ động dục của bò cái16
3.1. Sơ đồ bố trí mẫu vào các giếng trong phản ứng ELISA35
3.2. Mối tương quan giữa mật độ quang học (OD) và nồng độ FSH 36
3.3. Cơ chế trong phản ứng ELISA cạnh tranh 37
3.4. Trường hợp nồng độ progesterone trong máu cao38
3.5. Trường hợp nồng độ progesterone trong máu thấp39
3.6. Mối tương quan giữa mật độ quang học (OD) và nồng độ Progesterone 40
4.1. Động thái FSH trong một chu kỳ động dục bình thường của bò sữa57
4.2. Hàm lượng FSH trong các trường hợp chậm sinh do bệnh lý buồng trứng ở bò59
4.3. Động thái Progesterone trong một chu kỳ động dục bình thường của bò sữa64
4.4. Hàm lượng Progesterone trong các trường hợp chậm sinh do buồng trứng ở bò66
1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta có những bước phát triển đáng kể. Đặc biệt việc ra đời của nhiều nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhiều công ty phân phối thuốc thú y, nhiều trang trại chăn nuôi với quy mô lớn đáp ứng một lượng thực phẩm lớn cho nhu cầu thực phẩm trong nước và một phần xuất khẩu. Nhiều hình thức chăn nuôi kỹ thuật cao xuất hiện ở Việt Nam. Đây là những tín hiệu đáng mừng đối với ngành chăn nuôi.
Cùng với sự phát triển đó, một ngành chăn nuôi luôn đòi hỏi kỹ thuật cao là chăn nuôi bò sữa cũng phát triển đáng kể. Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước cuộc “cách mạng trắng” ở nước ta đã có những thành công ban đầu. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam có thể nói là non trẻ, các giống bò sữa cao sản thường không thích nghi với khí hậu nước ta, kỹ thuật chăn nuôi thấp đã mang lại không ít khó khăn cho người chăn nuôi. Sự nóng vội khi nhập bò ngoại cộng với công tác chuẩn bị không tốt đã làm cho một số dự án về bò sữa của nhà nước mất trắng, còn với người dân không những không thể xóa đói giảm nghèo nhờ chăn nuôi bò sữa mà còn vỡ nợ từ những dự án này. Tuy chưa có những báo cáo cụ thể nhưng phần lớn nguyên nhân dẫn tới những trường hợp thất bại của người dân là do bò mua về mắc các bệnh sinh sản ở buồng trứng như vô sinh, chậm thành thục về tính, chậm động dục lại sau đẻ, ngoài ra bò sữa con mắc phải một số bệnh khác ở cơ quan sinh sản.
Như chúng ta đã biết quá trình thành thục về tính và sự rụng trứng chủ yếu do sự điều khiển của các hormone sinh sản như FSH, LH, Oestrogene, Progesterone, do vậy việc bò chậm thành thục về tính, hay chậm động dục lại sau khi đẻ chủ yếu là do rối loạn các hormone này. Ở Việt Nam, những nghiên cứu về hormone trên gia súc chưa nhiều, chưa có công bố cụ thể và toàn diện nào về bản đồ hormone trong trường hợp sinh lý bình thường và định lượng hormone trong quá trình bệnh lý buồng trứng ở gia súc.
Vì vậy, để mở đầu trong việc góp phần xây dựng bản đồ hormone, ứng dụng trong chẩn đoán, phòng và trị một số hiện tượng rối loạn sinh sản ở đàn bò sữa nuôi tại Việt Nam chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xác định diễn biến một số hormone sinh sản nhằm ứng dụng trong chẩn đoán, phòng, trị hiện tượng chậm thành thục tính và chậm động dục lại sau đẻ ở bò sữa do nguyên nhân bệnh lý buồng trứng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Xác định diễn biến hormone FSH và Progesterone trên bò sữa có chu kỳ sinh dục bình thường góp phần xây dựng bản đồ diễn biến hormone dùng trong chẩn đoán bệnh.
- Xác định diễn biến hormone FSH và Progestrone trên bò sữa bệnh lý, do yếu tố nội tiết từ nguyên nhân buồng trứng.
- Ứng dụng đưa ra một số phác đồ điều trị bằng hormone
- Đưa ra những khuyến cáo trong điều trị bằng hormone.
92 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 7750 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xác định diễn biến một số hormone sinh sản nhằm ứng dụng trong chẩn đoán, phòng, trị hiện tượng chậm thành thục tính và chậm động dục lại sau đẻ ở bò, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
------------------
NGUYỄN LINH
XÁC ĐỊNH DIỄN BIẾN MỘT SỐ HORMONE SINH SẢN NHẰM ỨNG DỤNG TRONG CHẨN ĐOÁN, PHÒNG, TRỊ HIỆN TƯỢNG CHẬM THÀNH THỤC TÍNH VÀ CHẬM ĐỘNG DỤC LẠI SAU ĐẺ Ở BÒ SỮA DO NGUYÊN NHÂN BỆNH LÝ BUỒNG TRỨNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : THÚ Y
Mã số : 60.62.50
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN TIẾN DŨNG
HÀ NỘI - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà nội, tháng 12 năm 2010
Tác giả luận văn
Nguyễn Linh
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt hai năm học tập và hoàn thành luận văn, với nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá nhân và tập thể, cho phép tôi được tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, ban lãnh đạo viện Đào tạo Sau đại học, ban chủ nhiệm khoa Thú y đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi học tập, tiếp thu kiến thức của chương trình học.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa học PGS.TS. Trần Tiến Dũng đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và xây dựng luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể Phòng công nghệ tế bào động vật - Viện công nghệ sinh học, đặc biệt là TS. Đỗ Thị Thảo.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, tập thể cán bộ công nhân viên Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì.
Xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ kỹ thuật, công nhân Nông trường Phù Đổng.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Hà Nội, tháng 12 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Linh
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục bảng biểu vi
Danh mục hình vii
1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh sản của bò cái 3
2.2. Tình hình nghiên cứu về đề tài trong và ngoài nước 27
3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
3.1. Đối tượng nghiên cứu 31
3.2. Nội dung nghiên cứu 31
3.3. Phương pháp nghiên cứu 32
3.4. Phương pháp xử lý số liệu 41
3.5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 41
3.6. Nguyên liệu 41
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
4.1. Kết quả điều tra thực trạng khả năng sinh sản của đàn bò lai hướng sữa ở Ba Vì – Hà Nội. 42
4.1.1. Tuổi phối giống lần đầu và khối lượng cơ thể của đàn bò lai hướng sữa 43
4.1.2. Tuổi đẻ lứa đầu và khối lượng cơ thể của đàn bò cái lai hướng sữa 46
4.1.3. Thời gian động dục lại sau khi đẻ của bò lai hướng sữa 48
4.1.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ 49
4.1.5. Hệ số phối giống 51
4.1.6. Tỷ lệ thụ thai 53
4.2. Hiện tượng rối loạn sinh sản của đàn bò lai hướng sữa ở Ba Vì 54
4.3. Kết quả ứng dụng kỹ thuật ELISA định lượng FSH và progesterone 56
4.3.1. Kết quả định lượng FSH 56
4.3.2. Kết quả định lượng Progesterone 62
4.4. Kết quả ứng dụng một số hormone và chế phẩm hormone sinh dục để điều trị một vài hiện tượng rối loạn sinh sản ở bò sữa do nguyên nhân buồng trứng 70
4.4.1. Kết quả ứng dụng chế phẩm prostaglandin (PGF2α) điều trị bò có thể vàng tồn lưu 70
4.4.2. Kết quả ứng dụng GnRH kết hợp với PGF2α điều trị bò có buồng trứng kém phát triển 72
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 74
5.1. Kết luận 74
5.2. Đề nghị 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
MỘT SỐ HÌNH ẢNH 83
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ag: Antigen
Cs: Cộng sự
ĐVC: Đơn vị chuột
ELISA: Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay
FBS: Fetal Bovine Serum
FSH: Follicle Stimulating hormone
FRH: Folliculin Releasing hormone
GnRH: Gonadotropin Releasing hormone
HCG: Human Chorionic Gonadotropin
HF : Holstein Friesian
KN: Kháng nguyên
KT: Kháng thể
LH: Luteinizing hormone
LRH: Lutein Releasing hormone
LTH: Luteo Tropic hormone
OD: Optical Density
PGF2α: Prostaglandin F2 alpha
PMSG: Pregnant Mare Serum Gonadotropin
PRH: Prolactin Releasing hormone
RIA: Radio Immuno Assay
TMB: Tetrametyl benzidin
Tr: Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
Tên bảng
Trang
2.1. Các giai đoạn của pha động dục 11
4.1. Cơ cấu đàn bò sữa của Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì 43
4.2. Tuổi phối giống lần đầu và khối lượng cơ thể của bò cái lai hướng sữa nuôi tại Ba Vì và Nông trường Phù Đổng 45
4.3. Khối lượng cơ thể và tuổi đẻ lứa đầu của bò cái lai hướng sữa nuôi tại Ba Vì và Nông trường Phù Đổng Hà nội 47
4.4. Thời gian động dục lại sau khi đẻ của bò cái lai hướng sữa 48
4.5. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ của bò cái lai hướng sữa 50
4.6. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai trên đàn bò lai hướng sữa 52
4.7. Phân loại nguyên nhân bệnh lý buồng trứng gây hiện tượng rối loạn sinh sản ở bò cái lai hướng sữa 55
4.8. Hàm lượng FSH trong một chu kỳ động dục bình thường của bò sữa 56
4.9. Hàm lượng FSH trong các trường hợp chậm sinh do bệnh lý buồng trứng ở bò 59
4.10. Kết quả chẩn đoán nguyên nhân gây rối loạn sinh sản ở bò sữa bằng định lượng FSH kết hợp khám buồng trứng qua trực tràng 61
4.11. Hàm lượng Progesterone trong một chu kỳ động dục bình thường của bò sữa 63
4.12. Hàm lượng Progesterone trong các trường hợp chậm sinh do bệnh lý buồng trứng ở bò 66
4.13. Kết quả chẩn đoán rối loạn sinh sản ở bò sữa bằng định lượng Progesterone kết hợp khám buồng trứng qua trực tràng 69
4.14. Hiệu quả ứng dụng PGF2α gây động dục ở bò lai hướng sữa 71
4.15. Hiệu quả sử dụng GnRH kết hợp PGF2α gây động dục ở bò lai hướng sữa 73
DANH MỤC HÌNH
ơ
STT
Tên hình
Trang
2.1. Đồ thị sóng nang trong chu kỳ 9
2.2. Hypothalamus điều khiển hoạt động hệ nội tiết 13
2.3. Cơ chế thần kinh thể dịch điều hoà chu kỳ động dục của bò cái 16
3.1. Sơ đồ bố trí mẫu vào các giếng trong phản ứng ELISA 35
3.2. Mối tương quan giữa mật độ quang học (OD) và nồng độ FSH 36
3.3. Cơ chế trong phản ứng ELISA cạnh tranh 37
3.4. Trường hợp nồng độ progesterone trong máu cao 38
3.5. Trường hợp nồng độ progesterone trong máu thấp 39
3.6. Mối tương quan giữa mật độ quang học (OD) và nồng độ Progesterone 40
4.1. Động thái FSH trong một chu kỳ động dục bình thường của bò sữa 57
4.2. Hàm lượng FSH trong các trường hợp chậm sinh do bệnh lý buồng trứng ở bò 59
4.3. Động thái Progesterone trong một chu kỳ động dục bình thường của bò sữa 64
4.4. Hàm lượng Progesterone trong các trường hợp chậm sinh do buồng trứng ở bò 66
1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta có những bước phát triển đáng kể. Đặc biệt việc ra đời của nhiều nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhiều công ty phân phối thuốc thú y, nhiều trang trại chăn nuôi với quy mô lớn đáp ứng một lượng thực phẩm lớn cho nhu cầu thực phẩm trong nước và một phần xuất khẩu. Nhiều hình thức chăn nuôi kỹ thuật cao xuất hiện ở Việt Nam. Đây là những tín hiệu đáng mừng đối với ngành chăn nuôi.
Cùng với sự phát triển đó, một ngành chăn nuôi luôn đòi hỏi kỹ thuật cao là chăn nuôi bò sữa cũng phát triển đáng kể. Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước cuộc “cách mạng trắng” ở nước ta đã có những thành công ban đầu. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam có thể nói là non trẻ, các giống bò sữa cao sản thường không thích nghi với khí hậu nước ta, kỹ thuật chăn nuôi thấp …đã mang lại không ít khó khăn cho người chăn nuôi. Sự nóng vội khi nhập bò ngoại cộng với công tác chuẩn bị không tốt đã làm cho một số dự án về bò sữa của nhà nước mất trắng, còn với người dân không những không thể xóa đói giảm nghèo nhờ chăn nuôi bò sữa mà còn vỡ nợ từ những dự án này. Tuy chưa có những báo cáo cụ thể nhưng phần lớn nguyên nhân dẫn tới những trường hợp thất bại của người dân là do bò mua về mắc các bệnh sinh sản ở buồng trứng như vô sinh, chậm thành thục về tính, chậm động dục lại sau đẻ, … ngoài ra bò sữa con mắc phải một số bệnh khác ở cơ quan sinh sản.
Như chúng ta đã biết quá trình thành thục về tính và sự rụng trứng chủ yếu do sự điều khiển của các hormone sinh sản như FSH, LH, Oestrogene, Progesterone, … do vậy việc bò chậm thành thục về tính, hay chậm động dục lại sau khi đẻ chủ yếu là do rối loạn các hormone này. Ở Việt Nam, những nghiên cứu về hormone trên gia súc chưa nhiều, chưa có công bố cụ thể và toàn diện nào về bản đồ hormone trong trường hợp sinh lý bình thường và định lượng hormone trong quá trình bệnh lý buồng trứng ở gia súc.
Vì vậy, để mở đầu trong việc góp phần xây dựng bản đồ hormone, ứng dụng trong chẩn đoán, phòng và trị một số hiện tượng rối loạn sinh sản ở đàn bò sữa nuôi tại Việt Nam chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xác định diễn biến một số hormone sinh sản nhằm ứng dụng trong chẩn đoán, phòng, trị hiện tượng chậm thành thục tính và chậm động dục lại sau đẻ ở bò sữa do nguyên nhân bệnh lý buồng trứng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Xác định diễn biến hormone FSH và Progesterone trên bò sữa có chu kỳ sinh dục bình thường góp phần xây dựng bản đồ diễn biến hormone dùng trong chẩn đoán bệnh.
- Xác định diễn biến hormone FSH và Progestrone trên bò sữa bệnh lý, do yếu tố nội tiết từ nguyên nhân buồng trứng.
- Ứng dụng đưa ra một số phác đồ điều trị bằng hormone
- Đưa ra những khuyến cáo trong điều trị bằng hormone.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh sản của bò cái
2.1.1. Đặc điểm cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục cái
Trong chăn nuôi gia súc, biết tác động và đầu tư đúng mức vào sinh sản thì đó là con đường nhanh nhất, tốt nhất và kinh tế nhất để góp phần nâng cao năng suất vật nuôi.
Cơ quan sinh dục bò cái gồm những bộ phận chủ yếu: Buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo và âm hộ.
* Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của bò gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng, gần mút sừng tử cung và nằm trong xoang chậu, hình dáng buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình bầu dục hoặc ô van dẹt, khi mới sinh buồng trứng có khối lượng khoảng 0,3 gram, khi trưởng thành có khối lượng khoảng 10 – 20 gram, kích thước dài 1 – 2 cm, rộng 1 – 1,5 cm (Nguyễn Tấn Anh, 1995 [2]). Theo Kunitado Sato (1992) [48], kích thước của buồng trứng là: 35 x 25 x 15 mm, kích thước này có biến động giữa các bò cái và buồng trứng có hoạt động thì lớn hơn bình thường không hoạt động. Buồng trứng của gia súc có chức năng sinh ra trứng và tiết dịch nội tiết (Lưu Công Khánh, 1995 [15]).
Cấu tạo của buồng trứng gồm lớp trong và lớp vỏ được bao bọc bởi lớp biểu mô mầm. Lớp trong có nhân mạch máu, tổ chức liên kết. Trên buồng trứng có từ 70.000 – 100.000 noãn bào ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Tầng ngoài là những noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều. Tầng trong là những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng, khi noãn bào chín được nổi lên bề mặt buồng trứng. Noãn bào sơ cấp có trứng ở giữa, xung quanh là tế bào noãn bào. Tế bào noãn bào lúc đầu hình dẹt, sau hình khối và hình trụ. Noãn bào thứ cấp do tế bào noãn bào tăng sinh thành nhiều tầng và tiết ra dịch noãn bào ngày càng nhiều và hình thành xoang noãn bào, ép trứng về một phía, khi noãn bào chín là quá trình sinh trưởng đã hoàn thành, dịch noãn bào nhiều, noãn bào nổi lên bề mặt buồng trứng. Đến một giai đoạn xác định, noãn bào vỡ ra, tế bào trứng theo dịch noãn bào đi vào loa kèn và đi vào ống dẫn trứng. Nơi noãn bào vỡ sẽ hình thành thể vàng. Thể vàng được hình thành sau khi trứng rụng do sự nở to và sự lutein hoá của các tế bào kết hạt được bắt đầu từ đó (Trần Tiến Dũng, 2002 [7]. Mô lutein lớn lên chủ yếu do sự nở to của các tế bào lutein gọi là thể vàng: thể vàng là một thể rắn màu vàng.
* Ống dẫn trứng (Ovidustus)
Ống dẫn trứng treo trên màng treo ống dẫn trứng. Có thể chia ống dẫn trứng thành 4 đoạn chức năng: Đoạn tua diềm - phễu - phồng ống dẫn trứng và đoạn eo của ống dẫn trứng (Nguyễn Tấn Anh 1995 [2]).
Chức năng của ống dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng theo chiều ngược nhau và đồng thời một lúc. Cấu tạo của ống dẫn trứng thích hợp tốt với chức năng phức tạp đó. Một đầu của ống dẫn trứng thông với xoang bụng gần sát buồng trứng và có hình loa kèn, loa kèn là màng mỏng tạo thành 1 cái tán rộng, vàng tán có các tua diềm lô nhô không đều ôm lấy buồng trứng. Đối với bò diện tích của loa kèn thường rộng 20 - 30 cm2 và phủ toàn bộ buồng trứng (Hoàng Kim Giao 1997 [13]). Bộ phận nhô tua diềm vận chuyển trứng rụng từ bề mặt buồng trứng tới phễu. Trứng được chuyển qua lớp nhầy đi đến phồng ống dẫn trứng (nơi xảy ra sự thụ tinh và phân chia sóm của phôi). Phôi được lưu lại trong ống dẫn trứng vài ngày trước khi về tử cung. Dịch ống dẫn trứng cung cấp điều kiện thích hợp cho sự thụ tinh và phân chia của phôi bao gồm chất dinh dưỡng và bảo vệ cho tinh trùng, noãn bào và hợp tử - phôi sau đó.
* Tử cung (Uterus)
Tử cung của các loài có vú đều gồm 2 sừng, 1 thân và 1 cổ tử cung. Đối với bò cái tơ thì toàn bộ tử cung nằm trong xoang chậu, khi đã đẻ nhiều lứa thì tử cung nằm trong xoang bụng. Tử cung dài 35 - 50 cm, tử cung là nơi làm tổ của hợp tử, ở đây hợp tử sau này là thai phát triển được là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp nội mạc tử cung cung cấp. Giai đoạn đầu hợp tử sống được một phần dựa vào noãn hoàng, một phần dựa vào “sữa tử cung” thông qua cơ chế thẩm thấu, sau này giữa mẹ và con hình thành hệ thống nhau thai.
Nội mạc tử cung và dịch tử cung giữ một vai trò chủ chốt trong quá trình sinh sản như vận chuyển tinh trùng và trứng, tham gia điều hoà chức năng của thể vàng, đảm nhận sự làm tổ, mang thai và đẻ.
Tử cung của bò có 3 phần từ ngoài vào trong là: Cổ tử cung, thân tử cung và sừng tử cung.
a. Sừng tử cung: ở gia súc cái sừng tử cung gồm 2 sừng trái và phải, độ dài của sừng 20 - 35 cm, đường kính phần dưới sừng tử cung 3 - 4 cm, phần ngọn chỉ khoảng 5- 8 mm. Khác với gia súc khác, 2 sừng tử cung ở phần gần với thân tử cung dính lại với nhau tạo thành một lõm hình lòng máng phía trên của tử cung gọi là rãnh đầu tử cung 3 - 5 cm ta dễ dàng nhận thấy khi khám qua trực tràng.
b. Thân tử cung: ở bò thân tử cung rất ngắn, chỉ khoảng 2 – 4 cm, thân tử cung nối giữa cổ tử cung với sừng tử cung. Cấu tạo bằng những lớp cơ trơn dày, cơ vòng ở trong, cơ dọc ở ngoài có khả năng đàn hồi tốt, trong cùng là các tuyến sinh dục có khả năng tiết ra những chất giúp cho sự vận động của tinh trùng cũng như sự phát triển của thai.
c. Cổ tử cung: Cổ tử cung là phần cuối cùng của tử cung, cổ tử cung tròn thông với âm đạo, luôn luôn đóng, chỉ mở khi nào hưng phấn cao độ, hoặc lúc sinh đẻ hay khi bị bệnh lý. Cổ tử cung dài khoảng 5 - 10 cm, đường kính 2 - 5 cm (Tăng Xuân Lưu và Cs, 2003 Tr 14 [22]).
Niêm mạc cổ tử cung gấp nhiều lần làm cho thành tử cung không đồng đều nhau tạo thành những thuỳ, gọi là thuỳ hoa nở. Thuỳ ngoài cùng nhô vào âm đạo 0,5 - 1,0 cm nhìn bên ngoài tựa như hoa cúc đại. Khám qua trực tràng cầm vào cổ tử cung tựa như cầm vào một đoạn cổ gà. Cổ tử cung có khác biệt ít nhiều giữa bò già, bò trẻ, giữa bò đẻ nhiều, bò đẻ ít, giữa các giống, giữa bò đẻ bình thường và bò đẻ không bình thường. Oestrogen làm cho tế bào biểu mô cổ tử cung tiết niêm dịch, niêm dịch này có đặc điểm kháng khuẩn, do đó bảo vệ cho tử cung (Trần Tiến Dũng và Cs, 2002 [7]).
* Âm đạo (Vagina)
Âm đạo của bò có dạng hình ống, vách mỏng và rất đàn hồi, dài khoảng 30 – 40 cm (Siphilop R.M, 1967 [50]), âm đạo của bò Việt Nam dài khoảng 22 – 25 cm (Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương, 1997 [13]; Trần Tiến Dũng và Cs, 2002 [7]), âm đạo là cơ quan giao cấu nơi tinh dịch được phóng ra đọng lại ở đó và chuyển tiếp vào tử cung qua các đại phân tử của các cột nhầy ở cổ tử cung, tinh thanh không được chuyển tiếp vào cổ tử cung, phần lớn chúng được thải ra ngoài và hấp thu qua âm đạo. Ngoài ra âm đạo còn là ống thải các chất dịch cổ tử cung, dịch nội mạc tử cung và là đường cho thai đi qua khi sinh đẻ.
* Âm hộ (Vulva)
Âm hộ là bộ phận sinh dục bên ngoài, gồm phần tiền đình và phần liên quan của âm môn. Tiền đình là bộ phận của hệ thống đường sinh dục cái, nó chung cho hệ thống sinh dục và hệ tiết niệu, nó dài 10 - 12 cm. Âm môn gồm có tiểu âm môn (nếp gấp trong, môi trong của âm hộ) và đại âm môn (nếp gấp ngoài, môi ngoài của âm hộ). Môi ngoài được phủ một lớp lông mịn cho đến niêm mạc (Trần Tiến Dũng và Cs, 2002 [7]).
2.1.2. Đặc tính sinh lý sinh sản của bò cái
* Sự thành thục về tính và tuổi phối giống lần đầu
Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện, buồng trứng có noãn bào chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử cung cũng biến đổi theo và đủ điều kiện cho thai phát triển trong tử cung. Những dấu hiệu động dục xuất hiện đối với gia súc ở tuổi như vậy gọi là thành thục về tính. Trong thực tế, thành thục về tính thường đến sớm hơn thành thục về thể vóc. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, gia súc, ngoại cảnh và mức độ nuôi dưỡng quản lý. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt thì sự sinh trưởng được thúc đẩy và thành thục về tính sẽ đến sớm hơn. Bò sữa thành thục tính dục khi thể trọng đạt từ 30 – 40 % thể trọng lúc trưởng thành, còn bò thịt thì mức độ cao hơn 45 – 50 % (Nguyễn Quốc Đạt và Cs, 1998 [11]).
Bò cái nếu nuôi dưỡng tốt thì thành thục lúc 12 tháng tuổi, còn tầm vóc để bảo đảm cho sự phối giống phải từ 18 tháng tuổi trở lên (Siphilop R.M, 1967 [50]). Đối với bò lang trắng đen Hà Lan cho ăn đầy đủ chăm sóc tốt thì thành thục lúc 10 – 12 tháng tuổi, chăm sóc kém có thể kéo dài tới 16 – 18 tháng tuổi. Tuổi phối giống lứa đầu đối với bò sữa theo V.S. Mikhakop (1974) cho rằng vào độ tuổi 12 - 24 tháng tuổi, còn theo S. Mirnop (1980) lại cho rằng phối giống lần đầu tốt nhất vào lúc 15 - 18 tháng tuổi (trích theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [20]).
Trong điều kiện nước ta do ảnh hưởng của khí hậu và chế độ dinh dưỡng không thích hợp cho nên tuổi đẻ lứa đầu thường là cao: bò vàng Việt Nam đẻ lứa đầu từ 33 – 48 tháng tuổi (Nguyễn Văn Thưởng và Cs, 1992 [29]). Bò sữa Hà Ấn F2 (75 % máu bò Hà Lan) là 46 tháng (Nguyễn Kim Ninh, 1994 [24]).
* Dậy thì (Puberty)
Dậy thì ở bò cái được xác định ở độ tuổi động dục lần đầu có rụng trứng (dậy thì chưa phải là thành thục về tính (Cexual maturity). Dậy thì của con vật được kiểm soát bởi nhiều yếu tố và cơ chế nhất định về sinh lý kể cả các tuyến sinh dục thuỳ trước tuyến yên: ảnh hưởng cả di truyền và ngoại cảnh (mùa vụ, nhiệt độ, dinh dưỡng, môi trường, yếu tố di truyền.v.v..) tác động đến các cơ quan này. Trung bình tuổi dậy thì là 8 - 11 tháng, bò Jersey lúc 8 tháng với thể trọng 160 kg, còn bò HF trung bình là 11 tháng tuổi với trọng lượng 270 kg. Nếu nuôi kém thì dậy thì ở 20 tháng tuổi. Kunitado Sato, 1992 [48]).
* Chu kỳ động dục
Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của bò được diễn ra liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển lớn dần đến độ chín nổi cộm lên trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần rụng trứng con vật có những biểu hiện tính dục bên ngoài gọi là động dục. Trứng rụng có chu kỳ nên động dục cũng có chu kỳ, 1 chu kỳ động dục của bò và lợn thông thường là 21 ngày (dao động 17 – 24 ngày), của trâu là 25 ngày (tính trung bình). Quá trình trứng phát triển chín và rụng đều chịu sự điều hoà chặt chẽ của hormone (Trần Tiến Dũng, 2002 [7]). Trên cơ sở đó nhiều tác giả đã phân chia chu kỳ động dục thành 2 pha:
- Pha Folliculin: Gồm toàn bộ biểu hiện trước khi rụng trứng.
- Pha Lutein: Là những biểu hiện sau khi trứng rụng và hình thành thể vàng.Trong chu kỳ động dục của bò nhiều tác giả đã đề cập đến các đợt sóng nang (Foliculas Wave).
Sóng nang là sự phát triển đồng loạt của một số bao noãn ở cùng một thời gian. Các công trình nghiên cứu, theo dõi sự phát triển của buồng trứng Invivo bằng phương pháp nội soi và siêu âm được nhiều tác giả công bố. Các tác giả cho thấy ở bò trong một chu kỳ thường có 2 - 3 đợt sóng nang phát triển (một số ít có 4 đợt). Đợt 1 bắt đầu diễn ra sau khi rụng trứng, vào ngày thứ 3 - 9 của chu kỳ. Đợt 2 vào ngày 11 - 17 và đợt 3 vào ngày 18 - 20. Mỗi đợt sóng nang có thể huy động tới 15 nang kích thước từ 5 - 7mm phát triển. Sau này có 1 số nang phát triển mạnh hơn gọi là nang trội (nang khống chế), kích thước của nang khống chế ở đợt 1, 2, 3 có thể đạt tới 12 - 15 mm và các kích thước nang tương ứng quan sát thấy vào các ngày 6, 13, 21 (Salin, 1987; trích theo Nguyễn Đức Lâm Nghiệp, 2008 [23]).
Hình 2.1. Đồ thị sóng nang trong chu kỳ (trích theo Đào Thị Thúy Hồng, 2009 [15])
Đặc điểm quan trọng trong các đợt phát triển nang là sự phát triển có tính tự điều khiển và cạnh tranh giữa các nang. Một đợt có 1 - 2 nang trội, vài nang lớn phát triển và sự phát triển của các nang còn lại bị kìm hãm, Tuy vậy khi thể vàng còn tồn tại, nang khống chế và nang lớn sẽ bị thoái hoá, chỉ có đợt cuối cùng khi thể vàng không còn thì nang khống chế mới phát triển tới chín và rụng trứng mới được xẩy ra. Do đặc điểm này các đợt phát triển nang gọi là sóng phát triển. Trong mỗi đợt sóng như vậy sự tồn tại của các nang không phải nang khống chế dao động 5 - 6 ngày. Riêng nang khống chế có thể phát triển nhanh sau ngày 18 của chu kỳ, tốc độ phát triển của nang khống chế ở thời điểm này có thể đạt 1,6 mm/ngày (Fortune và Cs, 1988; Savio và Cs, 1988, trích theo Hoàng Kim Giao và Cs, 1997 [13]).
Ở bò chu kỳ động dục thường kéo dài 21 ngày, thời gian động dục thường kéo dài 25 – 36 giờ. Theo Siphilop R.M (1967) [50], chu kỳ động dục của gia súc mang tính đặc trưng theo loài.
Chu kỳ động dục của bò được chia làm 4 giai đoạn (4 pha riêng biệt) nhưng liên tiếp nhau:
- Giai đoạn trước động dục: Là giai đoạn thời kỳ thoái hoá thể vàng của chu kỳ trước cho đến giai đoạn động dục kỳ này.
- Giai đoạn động dục: Kéo dài 8 - 30 giờ là giai đoạn trong đó bò chấp nhận sự phối giống. Trong giai đoạn này xảy ra quá trình cuối cùng của sự chín muồi tế bào trứng và nang trứng.
- Giai đoạn sau động dục: Đầu giai đoạn sau động dục xảy ra là hiện tượng nang trứng rách ra và vách của nang trứng rách phát triển thành thể vàng trong vòng 3 ngày.
- Giai đoạn cân bằng sinh học (An, Di-oestrus): giai đoạn này kéo dài 12 - 15 ngày và là thể vàng sản sinh mạnh Progesterone (Kunitado Sato, 1992 [48]).
Đặc điểm của từng giai đoạn động dục là những thay đổi về nội tiết, buồng trứng và cơ quan sinh dục được mô tả chi tiết qua bảng sau:
Bảng 2.1. Các giai đoạn của pha động dục(trích theo Nguyễn Đức Lâm Nghiệp, 2008 [23])
Các biểu hiện
Trước chịu đực
Chịu đực
Sau chịu đực
Cân bằng
Biểu hiện bên ngoài dáng vẻ
Băn khoăn, ngơ ngác không yên, đi lại, đái rắt – kêu (không cho con khác nhảy, bỏ đi rong
Tìm đực hoặc đến gần con khác, chịu cho nhảy, mê ì.
Còn chịu cho nhảy và phối giống (một thời gian ngắn).
Bình thường
Ăn uống
Kém ăn, gặm cỏ lơ là
Ăn ít hoặc không ăn
Ăn ít
Ăn uống bình thường
Âm hộ
Sưng, xung huyết, đỏ, hơi phù, bóng ướt, màng âm hộ hé mở
Bớt sưng, hơi thâm, se dính cỏ rác.
Hết sưng
Bình thường
Biến đổi bên trong buồng trứng
Cơ quan trứng phát triển
Nang trứng nhô, căng
Ở bò rụng trứng quãng 12 – 14 giờ sau khi kết thúc chịu đực
Có thể vàng nhô lên
Tử cung (TC)
Màng nhầy tử cung dày lên tụ huyết
Màng nhầy tử cung dày, trương lực tối đa
Trương lực bớt căng
Bình thường
Cổ tử cung
Hé mở, đỏ hồng, bớt ớt, niêm dịch lỏng, nhiều, trong suốt, dễ đứt (kéo dài 1-2 cm)
Mở rộng, niêm dịch đặc dính có màu nửa trong kéo dài 7-10 cm.
Hẹp dần, niêm dịch đặc, giảm độ keo dính, màu đục bã đậu dễ đứt
Khép kín bình thường, không có niêm dịch
Âm đạo
Đỏ hồng, ướt bóng
Bớt đỏ
Dần dần trở về bình thường
Bình thường
Nội tiết
Nang trứng tiết oestradiol 17( với lượng nhiều dần.
Progestetrone giảm thấp do thể vàng chu kỳ trước ngừng hoạt động.
LH thấp nhất trong suốt giai đoạn này.
PGF2( tăng dần đạt đỉnh cao trước chịu đực 5 ngày, kéo dài 3 – 4 ngày rồi giảm.
Oestradiol 17( đỉnh cao
LH đạt đỉnh cao ở ngày chịu đực rồi tụt xuống đột ngột.
PGF2( ở mức thấp nhất
Oestradiol giảm đột ngột sau đó tăng dần để tạo một đỉnh thấp vào ngày thứ 5-6 của chu kỳ sau;
Progesterone tăng dần đến ngày 9-10 đạt đỉnh cao quãng 5-6 ngày.
LH thấp nhất cho đến ngày chịu đực của chu kỳ sau.
PGF2( bắt đầu tăng. Đến ngày 14 đạt đỉnh cao trong 3-4 ngày trước khi bắt đầu chu kỳ mới.
2.1.3. Sự điều hoà hoạt động sinh dục của tuyến nội tiết
Hoạt động sinh dục chịu sự điều tiết của hệ thần kinh thể dịch. Hệ thần kinh thông qua các thụ quan nhậy cảm là nơi tiếp nhận tất cả các xung động của ngoại cảnh vào cơ thể, đầu tiên là đại não và vỏ não mà trực tiếp là Hypothalamus tiết ra các chất kích thích (yếu tố giải phóng) GH-RF kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH, LH, các hormone đó theo máu tác động tới buồng trứng làm nang trứng phát triển đến mức độ chín và tiết ra oestrogen.
Trong quá trình sinh lý bình thường, gia súc đến tuổi trưởng thành, buồng trứng đã có nang trứng phát triển ở các giai đoạn khác nhau, trong cơ thể con vật đã có sẵn một lượng nhất định về oestrogen, chính oestrogen tác động lên trung khu vỏ đại não và ảnh hưởng đến Hypothalamus tạo điều kiện cho sự xuất hiện và lan truyền các xung động thần kinh gây tiết GnRH chu kỳ (Gonadotropin Realising hormone hay là hormone giải phóng F.RH và L.RH).
F.RH (Folliculin Realeasing hormone) P-RH (Prolactin realeasing hormone).
L.RH (lutein Realeasing hormone).
(F.RH và L.RH gọi chung là GnRH).
F.RH kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết Follicules simulating hormone (FSH) kích tố này kích thích sự phát triển noãn nang của buồng trứng, noãn nang phát triển trứng chín, lượng oestrogen tiết ra nhiều hơn. Oestrogen tác động vào các bộ phận sinh dục thứ cấp đồng thời tác động lên trung tâm hypolathamus, vỏ đại não gây nên hiện tượng động dục. LRH kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết ra hormone kích thích sinh hoàng tố (lutein stumulin hormone) LH, LH tác động vào buồng trứng, làm trứng chín muồi. Kết hợp với FSH làm noãn bào vỡ ra và gây nên hiện tượng thải trứng, hình thành thể vàng và LRH kích thích thuỳ trước tuyến yên phân tiết LTH (luteino trofic hormone) LTH tác động vào buồng trứng duy trì sự tồn tại của thể vàng kích thích thể vàng phân tiết progesterone. Progesterone tác động lên tuyến yên ức chế phân tiết FSH, LH. Quá trình động dục chấm dứt.
Progesterone tác động vào tử cung làm cho tử cung dày lên tạo cơ sở tốt cho việc làm tổ của hợp tử - phôi lúc ban đầu (tạo sữa tử cung), nên con vật có chửa thể vàng tồn tại suốt thời gian mang thai, có nghĩa là lượng progesterone được duy trì với nồng độ cao trong máu. Nếu không có chửa thể vàng tồn tại đến ngày thứ 15 - 17 của chu kỳ sau đó teo dần cũng có nghĩa là hàm lượng progesterone cũng giảm dần, giảm đến một mức độ nhất định nó lại cùng với một số nhân tố khác kích thích vỏ đại não Hypothalamus tuyến yên, lúc này tuyến yên ngừng phân tiết LTH, tăng cường phân tiết FSH, LH. Chu kỳ sinh dục mới lại hình thành.
3
RF và IF 2
1 FSH, LH, ACTH, GH và
Gonadotropins
Hormone tuyến đích
Hình 2.2. Hypothalamus điều khiển hoạt động hệ nội tiết
sự điều khiển ngược vòng dài (Long feedback)
sự điều khiển ngược vòng ngắn (Short feedback)
sự điều khiển ngược cực ngắn (Ultra-Short feedback)
* Vai trò của vùng dưới đồi (Hypolathamus)
Vùng dưới đồi là nơi nhận những xung đột thần kinh rồi chuyển dịch và phát ra các hormone điều hoà hoạt động nội tiết. Trung khu điều tiết sinh dục cấp cao của vùng dưới đồi sinh ra các chất kích thích, các chất này đi đến và kích thích các tế bào trung khu cấp thấp đồng thời chúng trực tiếp đi đến hoạt hoá tuyến yên, kích thích tuyến yên tiết ra một lượng hormone để duy trì sự rụng trứng và phát triển thể vàng. Như vậy ta có thể xem trung khu cấp cao là nơi điều tiết sự rụng trứng ở gia súc cái.
Các tế bào trung khu cấp thấp (nhân bụng giữa và nhân Acruate) tạo ra những chất thần kinh tiết, đây chính là các yếu tố giải phóng hormone kích dục tố (Gonadotropin Realeasing hormone - GnRH) bao gồm: Follicule Realeasing Factors (FRF) - Yếu tố giải phóng hormone Follicule Stimulating Hormone (FSH) và Lutein Releasing Factors (LRF) - yếu tố giải phóng hormone Luteine hormone (LH). FRF và LRF về bản chất là các polipeptit có khối lượng phân tử thấp, sau khi tiết ra, chúng được đổ vào mao quản gò giữa và đi vào hoạt hoá tuyến yên theo hướng tạo và tiết kích tố.
Theo Xưxoep AA, 1985 [37]) những yếu tố giải phóng hormone sinh dục của vùng dưới đồi này đều được gọi là yếu tố hoạt hoá chức năng sinh dục. Để hoạt hoá chức năng kích noãn tố và tiết một ít LH cần yếu tố này với nồng độ không cao, còn để cho rụng trứng thì phải có số lượng lớn LH và nồng độ rất cao của yếu tố giải phóng kích dục tố.
* Kích dục tố tuyến yên và vai trò của chúng trong sinh sản
Hai hormone từ tuyến yên có tác dụng kích thích sinh dục: Một hormone kích thích sự sinh trưởng và phát dục của nang trứng được gọi là kích noãn tố (FSH). Kích tố kia có tác dụng lutein hoá nang trứng gọi là kích thể vàng tố (LH). Tác dụng sinh lý của FSH (Foliculostimulating hormone) gắn liền với chức năng kích thích trứng chín không gây trứng rụng. Muốn gây được trứng rụng phải có LH (Luteinizing hormone). Để đảm bảo tốt quá trình chín và rụng trứng thì hàm lượng hai loại hormone này phải đạt một tỷ lệ nhất định và tỷ lệ đó theo đa số các nhà khoa học là: (Lê Văn Thọ và Cs, 1979 [30]).
Hiện nay cùng với việc thu được những chế phẩm FSH và LH tinh khiết, quan niệm về kích dục tố của tuyến yên cũng thay đổi.
Prolactin (Lutein tropin hormone): Prolactin có tác dụng kích thích tuyến vú phát triển và tiết sữa. Ngoài ra nó còn có tác dụng trong thời kỳ đầu có thai giúp cho thể vàng tồn tại trong buồng trứng. Một số ý kiến khác cho rằng sự tiết ra prolactin của tuyến yên thực hiện được nhờ kích thích thần kinh vùng dưới đồi và các phản xạ có điều kiện ở tử cung đã có thai. Ngược lại nếu tử cung không có thai thì tuyến yên không tiết ra prolactin.
* Vai trò của buồng trứng và kích tố nhau thai
● Vai trò của buồng trứng
Buồng trứng là nơi tiết ra các hormone: Oestrogen, progesterone và hormone ức chế inhibin. Các hormone này trực tiếp tham gia điều hoà toàn bộ hoạt động sinh sản của gia súc thông qua tác dụng kích thích hay ức chế tiết các hormone sinh dục của tuyến yên. Khi nồng độ progesterone trong máu giảm (cũng như giảm các kích thích ngoại cảnh) sẽ kích thích trung khu sinh sản vùng dưới đồi hypothalamus tiết các yếu tố giải phóng hormone sinh dục FRF và LRF (Gonandotropin Releasing hormone - GnRH). GnRH làm cho tuyến yên tiết hormone kích nang trứng FSH (Follicule Stimulating hormone) và hormone tạo thể vàng LH (Luteinizing hormone). Cuối cùng FSH và LH kích thích buồng trứng tổng hợp và tiết hormone Steroid giới tính oestrogen (E) progesterone (P).
FSH làm cho các nang trứng nguyên thuỷ (primodial follicles) trong buồng trứng phát triển. Oestrogen được tiết bởi các tế bào hạt của nang trứng và các tế bào kẽ. Nồng độ oestrogen cao trong máu sẽ kích thích thuỳ trước tuyến yên ngừng tiết FSH và đột ngột tăng tiết LH gây hiện tượng rụng trứng. Sau khi trứng rụng do sự lutein hoá hình thành thể vàng và phát triển thành thể vàng. Thể vàng tiết progesterone, đây là hormone rất cần thiết có vai trò ức chế biểu hiện động dục ở gia súc nhằm duy trì sự mang thai. Khi nồng độ FSH, LH và progesterone trong máu cao bản thân chúng tác động trở lại trung khu sinh dục hypolathamus nhằm ức chế trung khu này tiết hormone sinh dục. Các hormone Steroid giới tính có tác dụng điều hoà các chức năng của các cơ quan sinh dục phụ như: ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo, các tuyến sinh dục phụ ở con cái phát triển. Thêm nữa chúng được coi như có tác động ngược (Feedback). (Quá trình điều tiết này diễn ra hết sức phức tạp, được mô tả ở hình 2.4. Vai trò của buồng trứng trong điều hoà hoạt động sinh dục bò cái).
Hình 2.3. Cơ chế thần kinh thể dịch điều hoà chu kỳ động dục của bò cái
(trích theo Nguyễn Đức Lâm Nghiệp, 2008 [23])
● Kích tố nhau thai
Ngay sau khi hợp tử bắt đầu làm tổ ở tử cung, túi phôi được hình thành và phát triển. Khi túi phôi lớn lên tuyến nhau thai được hình thành. Hệ thống nhau thai ở bò có cấu tạo dạng múi. Núm nhau thai con và mẹ kết hợp với nhau theo hệ thống cài răng lược. Chúng chiếm gần hết tử cung. Nhau thai tiết ra hormone prolan A và prolan B.
- Prolan A: Có tác dụng tương tự FSH và oestrozen
- Prolan B: Có tác dụng tương tự LH và progesteron
Ở ngựa có chửa nhau thai tiết khá nhiều prolan A (huyết thanh ngựa chửa - HTNC) và 1 ít prolan B. Hoạt tính sinh học gần giống FSH.
2.1.4. Hiện tượng rối loạn sinh sản, các phương pháp khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản ở gia súc cái
* Nguyên nhân gây ra hiện tượng rối loạn sinh sản
Khi gia súc cái đến tuổi sinh sản hoặc sau khi đẻ xong, đến thời kỳ hưng phấn và động dục nhưng không thấy xuất hiện chu kỳ động dục hoặc xuất hiện các trạng thái bệnh lý trong quá trình sinh lý sinh dục được gọi là hiện tượng rối loạn sinh sản. Đây là một nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ sinh đẻ ở đàn gia súc, hạn chế tốc độ gia tăng đàn gia súc, gây tổn thất về kinh tế trong chăn nuôi.
Biểu hiện của hiện tượng chậm sinh, vô sinh ở trâu bò cái thường là chậm thành thục về tính, chậm động dục lại sau đẻ, phối giống nhiều lần không thụ thai hay là động dục liên tục, mất chu kỳ sinh dục...
Theo Kunitado Sato (1992) [48] nguyên nhân gây ra hiện tượng rối loại sinh sản bao gồm:
+ Các yếu tố liên quan đến độ tuổi, hệ nội tiết, hệ thần kinh hoạt động tuyến sữa, các bệnh ký sinh trùng và truyền nhiễm.
+ Các trường hợp rối loạn chức năng, thoái hoá các bộ phận của cơ quan sinh dục đặc biệt ở buồng trứng, tồn lưu thể vàng, rối loạn chu kỳ sinh dục, những dị tật về tử cung và các bộ phận sinh dục khác.
+ Các trường hợp do thức ăn, dinh dưỡng, điều kiện chăm sóc, các trường hợp này chủ yếu gây rối loạn trao đổi chất đặc biệt là vitamin, khoáng đa lượng và vi lượng.
* Các phương pháp khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản
Có nhiều phương pháp để khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản, nguyên tắc điều trị của bất kỳ phương pháp nào cũng đảm bảo hai yêu cầu:
- Hồi phục được khả năng sinh sản cho gia súc.
- Bảo toàn đàn gia súc về khả năng khắc phục và sử dụng chúng.
Để đảm bảo việc điều trị có kết quả khâu chẩn đoán phải chính xác, can thiệp kịp thời cũng như việc lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp có ý nghĩa quan trọng. Có thể dùng các biện pháp sau để khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản:
● Vitamin liệu pháp: kích thích các phản ứng miễn dịch của cơ thể, thúc đẩy quá trình tái sinh, hồi phục tử cung, buồng trứng. Các vitamin thường dùng là các vitamin thuộc nhóm A, D, E.
● Phương pháp điều trị ngoại khoa
Có thể dùng một số thủ thuật ngoại khoa để phá vỡ thể vàng, phá vỡ hoặc chọc dò u nang buồng trứng, cắt bỏ hoàn toàn hoặc một phần đối với trường hợp u nang buồng trứng.
● Hormone liệu pháp: là biện pháp sử dụng các chế phẩm hormone tự nhiên hay tổng hợp. Cơ chế tác dụng của hormone liệu pháp dựa trên cơ sở thay thế kích thích và triệu chứng liệu pháp. Nhiều hormone có thể sử dụng để khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản như những chế phẩm hormone thuộc nhóm Oestrogene (Syoestrol, Folicullin, Estrograndon, Estroginol...). Các chế phẩm thuộc thuỳ sau tuyến yên như Oxytoxin, Gipotoxin. Các chế phẩm Oestrogene dùng điều trị các bệnh sát nhau, xơ hoá tử cung, giảm hoặc mất trương lực cơ tử cung và một số trường hợp thiểu năng buồng trứng.
a) Khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản bằng chế phẩm gonadotropin
Dựa trên nguyên lý kích thích trực tiếp đến hoạt động của buồng trứng cũng như kích thích gián tiếp thông qua hoạt động tiết gonadotropin của tuyến yên các chế phẩm gonadotropin được sử dụng rộng rãi để khắc phục vô sinh ở trâu, bò cái. Các chế phẩm thường dùng là PMSG (Pregnant Mare Serum Gonadotropin), Gravohormone, HCG (Human Chorionic Gonadotropin), v.v.
- PMSG là loại dung dịch màu vàng nhạt, trong một số trường hợp có màu hơi đỏ có khi hơi lắng cặn do sự kết tủa của các protein khi lắc tạo hỗn dịch màu vàng nhạt.
Hoạt tính: được tính theo đơn vị chuột (đvc), mỗi đơn vị chuột được xác định bởi số lượng huyết thanh tiêm dưới da cho chuột bạch ở độ tuổi chưa thành thục (20 – 28 ngày, trọng lượng 6 – 8 gram) gây hiện tượng phát phì dạ con, cổ tử cung mở, âm đạo có những phản ứng của động dục với tỷ lệ 50%.
Tác dụng: nhờ có hai loại hormone FSH và LH, chủ yếu là FSH sẽ kích thích sinh trưởng và phát triển của noãn bao, gây rụng trứng và hình thành thể vàng. PMSG làm tăng nhanh sự sinh trưởng, chín của tế bào trứng và rụng trứng, làm tăng biểu hiện động dục, tạo điều kiện cho sự thụ tinh, PMSG có hiệu quả nhất đối với trâu, bò cái bị nhược năng buồng trứng, mất tính dục, có chu kỳ động dục nhưng không rụng trứng (Nguyễn Xuân Trạch, 1996 [35]).
- HCG là kích tố nhau thai người
Chế phẩm này được thu từ nước tiểu của người phụ nữ có thai. HCG được sinh ra từ tế bào Langerhans tiết dịch và được bài tiết qua nước tiểu. Do tỷ lệ LH trong kích tố này cao hơn FSH và nó có tác dụng như LH ở thuỳ trước tuyến yên do đó thúc đẩy sự rụng trứng và phát triển thể vàng.
HCG được sử dụng trong trường hợp nhược năng buồng trứng, đa nang buồng trứng, động dục liên tục ở trâu bò. Kích thích rụng trứng, tăng sinh sản. HCG được sản xuất dưới dạng đông khô hoặc bột kết tinh màu trắng nhạt, ở nước ta chế phẩm HCG được viện quân y 103 sản xuất ở dạng đông khô chứa 5000 – 10.000 UI/lọ. Công ty nuôi trồng thuỷ sản trung ương cũng sản xuất HCG dưới dạng đông khô chứa từ 2000 – 20.000 UI/lọ.
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu sử dụng PMSG và HCG trên đàn trâu cái, bò cái chậm sinh.
Lê Văn Thọ và Cs (1979) [30] đã nghiên cứu sử dụng PMSG và HCG trên đàn bò chậm sinh ở nông trường Phù Đổng. PMSG được tiêm với liều 15 đvc/kg thể trọng. Một số bò cái khác được tiêm thêm HCG với liều 1500 UI/con, kết quả là nhóm bò cái tơ cơ bản có tỷ lệ động dục 88,10%, thụ thai 67,50%. Bò cái tơ động dục 86,60% và thụ thai 61,10%. Ở số bò được tiêm kết hợp PMSG với HCG cho kết quả cao hơn, tỷ lệ động dục từ 89 – 95%, tỷ lệ thụ thai đạt 70,70 – 77,70%. Các tác giả cho biết chu kỳ sinh dục của bò được tiêm PMSG và HCG thể hiện như sinh lý bình thường, thời gian bắt đầu động dục sau khi xử lý trung bình là 5,1 ngày (dao động 2 – 10 ngày).
Nguyễn Tấn Anh và Cs (1995) [2] đã sử dụng huyết thanh ngựa chửa cho bò sữa sinh sản và bò tơ đạt tỷ lệ động dục tương ứng là 76,75%, 72,94%, tỷ lệ thụ thai là 76,05% và 73,38%.
b) Khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản bằng Progesterone phối hợp chế phẩm gonadotropin.
Chế phẩm hormone tự nhiên ở dạng tinh khiết màu trắng, không tan trong nước, chỉ tan trong rượu, ether, clorofoc, tan ít trong dầu, thường được sản xuất ở dạng dung dịch dầu nồng độ 1% và 2,5% (10 và 25 mg/ml, 1 mg = 1 UI).
Nguyên lý của phương pháp là khi tiêm Progesterone sẽ làm teo nhỏ thể vàng, kích thích tuyến yên tiết FSH, làm phát triển noãn bao. Sau khi Progesterone hết tác dụng, tuyến yên sẽ tiết Gonadotropin với số lượng lớn. Kết hợp với việc thêm chế phẩm Gonadotropin bổ sung sẽ làm cho noãn bao chín và rụng trứng, con vật sẽ động dục và thụ thai. Phương pháp này rất hiệu quả khi điều trị thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng, nhược năng buồng trứng.
Perez Garcia (1994) đã tiêm ba lần Progesterone cho 40 bò cái hướng thịt vào các ngày 1; 4; 7 mỗi lần 100 mg, ngày thứ 9 tiêm PMSG 1500 đvc/con. Kết quả sau khi tiêm bốn ngày có 90% số bò động dục (36 con), tỷ lệ thụ thai sau 2 kỳ phối giống là 80% (trích theo Tăng Xuân Lưu, 2003 [22]).
Sử dụng Progesterone gây động dục ở bò có nhiều phác đồ điều trị và liều lượng khác nhau. Có thể dùng riêng biệt hoặc kết hợp với PMSG và HCG. Theo Hoàng Kim Giao và Cs (1997) [13] đã sử dụng phác đồ sau đạt hiệu quả cao:
- Tiêm cho bò Progesterone vào các ngày 1; 3 và 5 với liều lượng tương ứng là 30 mg, 50 mg, 75 mg. Ngày thứ 7 tiêm PMSG 1500 – 1800 đvc/con, ngày 9 và ngày 10 bò động dục và phối giống.
- Tiêm Progesterone vào các ngày 1; 4 và 7 với liều tương ứng là: 30 mg, 60 mg và 90 mg, ngày thứ 9 tiêm PMSG liều 1500 – 1800 đvc/con, ngày thứ 11 – 12 bò động dục và phối giống.
c) Khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản bằng các chế phẩm PGF2α
Prostaglandin có tác dụng phân hủy thể vàng kích thích sinh trưởng, phát triển bao noãn, kích thích tiết GnRH, FSH, LH gây rụng trứng, vì vậy các chế phẩm PGF2α được sử dụng rộng rãi trong điều trị vô sinh và chậm sinh do thể vàng tồn lưu, điều trị u nang buồng trứng, động dục ngầm, phối giống nhiều lần không chửa.
Do PGF2α tự nhiên bị phân huỷ rất nhanh và giá thành sản xuất cao cho nên các nhà sản xuất đã làm ra các chế phẩm có tác dụng tương tự PGF2α tự nhiên nhưng có tác dụng mạnh hơn, thời gian phân huỷ lâu hơn PGF2α tự nhiên.
Có rất nhiều chế phẩm PGF2α tổng hợp, các chế phẩm PGF2α hay dùng là Oestrophan, Enzaprost, Estrumate, Lutalyse ... sau khi xử lý bằng chế phẩm PGF2α thì thể vàng chức năng nhanh chóng bị phân huỷ dẫn tới hàm lượng Progesterone trong máu giảm nhanh so với trong điều kiện tự nhiên (hàm lượng Progesterone trong điều kiện tự nhiên bắt đầu giảm sau khi Prostaglandin được phân tiết từ 3 – 6 giờ và thể vàng bị phân huỷ hoàn toàn trong vòng 24 – 48 giờ). Nồng độ Progesterone trong máu giảm đi làm trung tâm điều khiển sinh học ở Hypothalamus được giải phóng sẽ tiết GnRH, hormone này kích thích tuyến yên phân tiết gonadotropin (FSH, LH) làm bao noãn chín và rụng trứng. Nếu cùng lúc xử lý trên nhiều gia súc cái, chúng sẽ động dục đồng loạt.
Sử dụng Prostaglandin điều khiển sinh sản đã được ứng dụng rộng rãi và được tổng kết bởi các tác giả Gnaves (1974) [44], Henricks (1978) [45], Louis T.M (1972) [49]. Liều lượng của PGF2α và cách sử dụng theo các tác giả trên, phụ thuộc vào bản thân hoá học của PGF2α, trạng thái sinh lý của gia súc cái và giai đoạn của chu kỳ động dục.
Agarwal (1987) [38] nghiên cứu trên bò lai cho biết: sau khi tiêm PGF2α bò động dục 100%. Thời gian từ khi tiêm đến khi xuất hiện động dục là 48 – 96 giờ, kể cả tiêm một lần hay tiêm hai lần cách nhau 11 ngày. Tác giả cho rằng phương pháp này gây động dục đồng loạt phù hợp cho việc chủ động thực hiện kế hoạch phối giống. Tương tự như vậy, Busse T (1995) [40] dùng chất tương đương PGF2α tiêm cho bò hai lần cách nhau 11 ngày, sau khi tiêm lần thứ hai 60 giờ đã có 87,20 % bò động dục.
Đối với bò cái tơ, Bor T.C (1986) [39] cho biết chỉ cần tiêm một liều PGF2α đã có kết quả rất tốt về động dục và khoảng cách từ khi tiêm đến khi động dục là 48 – 72 giờ với tỷ lệ có chửa đạt 70%. Kết quả tương tự như vậy đã được các tác giả Dhoble và Gupta (1987) [42] khẳng định. Các tác giả này cho biết sử dụng PGF2α và các chất đồng dạng của nó có tác dụng rất tốt trong gây động dục đồng loạt, gây rụng trứng, làm giảm khoảng cách lứa đẻ và nâng cao hiệu quả sinh sản của bò cái.
Theo Hoàng Kim Giao và Cs (1997) [13] đối với những bò sinh sản bình thường có thể rút ngắn khoảng cách lứa đẻ bằng cách tiêm PGF2α. Nhiều tác giả đã sử dụng PGF2α tiêm cho bò cái có thể vàng bệnh lý tồn lưu. Nguyễn Tấn Anh và Cs (1995) [2] đã sử dụng PGF2α tiêm cho bò lai Sind chậm sinh đạt tỷ lệ động dục 85,80% tỷ lệ thụ thai đạt 65,21%. Tăng Xuân Lưu và Cs (2001) [21] cho biết khi tiêm cho 68 bò của hai giống bò F1 và F2 có thể vàng bệnh lý tồn lưu, kết quả đã có 59 con bò động dục trở lại đạt 85,71% ở nhóm F1 và 87,50% ở nhóm bò F2. Tỷ lệ phối giống có chửa tương ứng là 70,83% ở nhóm F1 và 68,57% ở nhóm bò F2. Nguyễn Kim Ninh (1994) [24] tiêm PGF2α cho bò lai hướng sữa F1 cho tỷ lệ động dục 81,50% và phối giống có chửa là 77,40%. Theo Hoàng Kim Giao và Cs (1997) [13] đối với những bò động dục yếu, rụng trứng kém, sau khi động dục 5 – 10 ngày có thể tiêm PGF2α, bò sẽ động dục sớm hơn, phối giống đạt hiệu quả cao hơn. Những bò động dục thầm lặng cũng có thể tiêm PGF2α kích thích để biểu hiện động dục rõ, mạnh hơn.
Tăng Xuân Lưu và Cs (2003) [22] cho biết: khi dùng PGF2α điều trị 45 bò cái có u thể vàng kéo dài đã thu được tỷ lệ động dục là 88,90% và tỷ lệ thụ thai là 65% sau hai lần phối giống. Cũng có thể dùng PGF2α điều trị viêm tử cung nhờ tác dụng tăng co bóp tử cung, tống chất bẩn trong tử cung ra ngoài đồng thời giúp cho sự bình thường hoá hoạt động của bộ máy sinh dục của PGF2α. Nhìn chung tỷ lệ khỏi viêm đạt 70 – 90%. Nhiều tác giả đã kết hợp sử dụng PGF2α với Lugol hoặc Iodine để điều trị viêm tử cung đạt tỷ lệ cao.
Theo Tăng Xuân Lưu và Cs (2003) [22] kết hợp PGF2α , Iodine và Oxytoxin điều trị bò có u nang thể vàng đã thu được tỷ lệ động dục là 100%, tỷ lệ thụ thai sau hai lần phối giống là 79,41%, cao hơn so với chỉ dùng riêng PGF2α (đạt tỷ lệ động dục 88,90% và tỷ lệ thụ thai là 65% sau hai lần phối giống).
d) Khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản bằng hormone GnRH (Gonadotropin Releasing Hormone = hormone giải phóng kích dục tố)
Đây là chế phẩm tổng hợp tương tự như hormone do trung khu Hypothalamus tiết ra, có tác dụng kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH và LH. Trong một số trường hợp, do một số nguyên nhân nào đó lượng GnRH tiết không đủ, chức năng của tuyến yên hoạt động không bình thường nên rất cần được bổ sung hormone này. GnRH thường được sử dụng trong trường hợp buồng trứng bò kém phát triển hoặc bị u nang hoặc đối với bò động dục thầm lặng, không rõ động dục nhưng phối giống nhiều lần không có chửa.
Theo Thatcher và Cs (1993), khi tiêm GnRH 12 – 14 ngày sau đẻ có thể giảm nguy cơ u nang buồng trứng và giảm khoảng cách từ lúc đẻ đến lúc có chửa (trích theo Khuất Văn Dũng, 2005 [9]).
Theo các tác giả Tăng Xuân Lưu và Cs (2003) [22] đối với bò động dục không rõ hoặc động dục không rụng trứng dùng GnRH tiêm liều 100 mg/con kết hợp thụt lugol 0,1 – 0,2%, tiêm oxytoxin 40 UI/lần. Cho tỷ lệ động dục 100% và tỷ lệ có chửa qua hai kỳ phối giống đạt 78,50%
* Hormone và các phương pháp định lượng hormone
Để định lượng được nồng độ hormone trong dịch thể, các phương pháp đòi hỏi phải có độ chính xác cao.
Hormone sinh dục do tuyến sinh dục tiết ra tham gia vào quá trình điều tiết đảm bảo chức năng sinh sản. Chúng điều tiết các phản ứng sinh hoá học ảnh hưởng tới sự thành thục trứng, sự phát triển của tế bào trứng, tế bào tinh trùng, sự thụ tinh ... hormone sinh dục gồm có bốn nhóm: nhóm hormone protein, nhóm hormone steroid, nhóm hormone chứa amin, nhóm hormone Eicosanoid (Lê Đức Trình, 2003 [33]).
● Phương pháp định lượng sinh học (bioassay)
Định lượng hormone theo phương pháp sinh học (bioassay) được áp dụng sớm nhất. Đây là phương pháp rất nhạy tuy nhiên độ chính xác không cao so với các phương pháp hoá học hay vật lý.
● Nguyên lý phương pháp ELISA
ELISA là phương pháp định lượng miễn dịch enzyme dựa trên nguyên lý của sự kết hợp đặc hiệu giữa kháng thể - kháng nguyên. Khi cho tiếp xúc giữa kháng thể và kháng nguyên đã kích thích sinh ra chúng thì phản ứng giữa kháng thể – kháng nguyên sẽ xảy ra một cách đặc hiệu. Về bản chất, sự kết hợp giữa kháng thể – kháng nguyên chính là sự liên kết giữa các nhóm chức khác nhau của kháng nguyên với trung tâm hoạt động của kháng thể nhờ các lực liên kết đặc trưng là lực Wander – Wals, lực liên kết Hydro và lực liên kết tĩnh điện (Vũ Triệu An, 1998 [1]).
Trong mỗi phân tử kháng thể (IgG) có hai trung tâm hoạt động nên cùng lúc nó có thể liên kết với hai phân tử kháng nguyên cùng loại, còn mỗi phân tử kháng nguyên lại có nhiều nhóm chức (epitop) quyết định tính chất kháng nguyên nên nó có thể kết hợp cùng lúc với nhiều phân tử kháng thể.
ELISA là một phương pháp định lượng miễn dịch enzyme không gây tổn thương đến tính miễn dịch của kháng nguyên, kháng thể, kháng kháng thể khi sử dụng enzyme để gắn trong quá trình tạo phản ứng miễn dịch. Phương pháp này có ưu điểm là làm tăng độ nhạy của phản ứng miễn dịch cạnh tranh thông qua việc sử dụng các phản ứng miễn dịch đặc biệt, sử dụng nhiều chất khác nhau để đánh dấu kháng nguyên, kháng thể.
Các enzyme được sử dụng trong phương pháp ELISA có hoạt tính cao như peroxydase (chế từ củ cải đen), glucose - oxydase (chế từ nấm mốc) hoặc (galacto-oxydase (chế từ vi khuẩn E.coli) để gắn hormone giống nhau, trong đó peroxydase được sử dụng một cách thông dụng nhất. Trong quá trình định lượng hormone, người ta sử dụng cơ chất 3.3’ diaminobenzidin để phát hiện phức hợp kháng thể - kháng nguyên gắn enzyme. Dưới tác dụng của peroxydase cơ chất nói trên sẽ tạo thành sản phẩm có màu nâu thẫm có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
● Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật EIA trong chăn nuôi
Hiện nay các nghiên cứu và ứng dụng của kỹ thuật EIA đối với ngựa sinh sản chưa nhiều và mới bắt đầu tiến hành nghiên cứu bởi các tác giả Phan Văn Kiểm, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Hữu Tra … năm 2004-2005 đã đưa ra một số kết quả nhất định bằng kỹ thuật EIA và đã được áp dụng để:
Xác định động thái hormone LH trong chu kỳ động dục để xác định thời gian động dục, thời điểm rụng trứng nhằm xây dựng quy trình phối giống đạt tỷ lệ thụ thai cao góp phần nâng cao năng suất sinh sản của ngựa (Hausel.,et al, 2000 [46]).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BAO CAO THAC SY_ LINH MOI 24.12.doc