KẾT LUẬN
Chủng virus KTY-PED01 có khả năng gây
bệnh trên lợn thí nghiệm tương đương với
chủng virus cường độc, với triệu chứng và bệnh
tích rất điển hình của lợn mắc PED. Triệu chứng
lâm sàng chủ yếu của lợn được gây nhiễm là:
bỏ ăn, sốt, nôn mửa, gầy còm và đặc biệt là tiêu
chảy phân màu vàng, dính bết ở hậu môn.
Bệnh tích đại thể chủ yếu của lợn được gây
nhiễm chủng KTY-PED01 là ruột non căng
phồng, thành ruột mỏng, xuất huyết, bên trong
ruột chứa dịch lỏng màu vàng. Dạ dày căng
phồng, chứa thức ăn không tiêu, xuất huyết. Các
hạch lympho, đặc biệt là hạch màng treo ruột có
biểu hiện sưng to, xuất huyết.
Bệnh tích vi thể của lợn được gây nhiễm chủng
KTY-PED01 là: niêm mạc ruột bong tróc, lông
nhung đứt nát và hoại tử, có biểu hiện sung huyết,
xuất huyết và sự thâm nhiễm các tế bào viêm ở hạ
niêm mạc, ngoài ra còn hình thành các không bào
nằm ở đầu lông nhung. Biểu mô dạ dày bị bong
tróc, đứt nát, phần tuyến bị phá hủy, xuất huyết.
Các hạch lâm ba có biểu hiện sung huyết, xuất
huyết, các nang lympho bị thoái hóa. Ngoài ra còn
có sự thoái hóa, hoại tử xuất huyết ở một số cơ
quan khác như: gan, lách, thận, phổi.
Dựa vào các kết quả trên, chủng virus KTYPED01 có thể được lựa chọn để tiến hành nghiên
cứu sâu hơn phục vụ cho các nghiên cứu chọn
chủng virus tiềm năng để sản xuất vacxin, thử
hiệu lực của vacxin hoặc sản xuất các chế phẩm
sinh học phục vụ cho chẩn đoán, phòng và trị
bệnh PED.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định độc lực của virus gây bệnh tiêu chảy cấp trên lợn chủng KTY-PED01 được phân lập tại miền Bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
XAÙC ÑÒNH ÑOÄC LÖÏC CUÛA VIRUS GAÂY BEÄNH TIEÂU CHAÛY CAÁP TREÂN LÔÏN
CHUÛNG KTY-PED01 ÑÖÔÏC PHAÂN LAÄP TAÏI MIEÀN BAÉC VIEÄT NAM
Trương Quang Lâm, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Hữu Nam,
Nguyễn Thị Ngọc, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Yến, Ngô Thị Hạnh
Khoa Thú y, Học Viện Nông nghiệp Việt Nam
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu độc lực của chủng virus KTY-PED01 trên lợn
5 ngày tuổi. Lợn thí nghiệm âm tính với kháng thể kháng virus PED được gây nhiễm chủng virus KTY-
PED01 với liều 2 ml/con qua đường uống với hiệu giá 2x103TCID
50
/ml. Sau gây nhiễm, lợn thí nghiệm
được theo dõi về triệu chứng lâm sàng và các tổn thương đại thể và vi thể ở một số cơ quan trong 15 ngày
kể từ ngày gây nhiễm. Kết quả nghiên cứu triệu chứng lâm sàng đã chỉ ra rằng lợn sau gây nhiễm có triệu
chứng sốt, nôn mửa, mất nước, gầy còm và đặc biệt là tiêu chảy phân lỏng, màu vàng. Kết quả xét nghiệm
mẫu phân lợn bằng kỹ thuật RT-PCR cho thấy sự hiện diện của chủng virus KTY-PED01 trong phân sau
1 ngày gây nhiễm. Tổn thương đại thể chủ yếu ở lợn được gây nhiễm với chủng virus KTY-PED01 là
ruột non căng phồng, thành ruột mỏng, xuất huyết, bên trong ruột chứa dịch lỏng màu vàng. Dạ dày căng
phồng, chứa thức ăn không tiêu. Các hạch lympho có biểu hiện sưng, xuất huyết. Bệnh tích vi thể cho thấy
sự bong tróc, đứt nát các lông nhung ruột, sự xuất huyết, thâm nhiễm tế bào viêm, hạch lympho xuất huyết.
Kết quả nghiên cứu cho thấy chủng virus KTY-PED01 có khả năng gây bệnh cho lợn thí nghiệm với
biểu hiện về triệu chứng lâm sàng, biến đổi bệnh tích đại thể và vi thể giống với lợn mắc chủng virus PED
độc lực cao gây bệnh tự nhiên được ghi nhận tại miền Bắc Việt Nam.
Từ khóa: Chủng virus KTY-PED01, độc lực.
Determination of virulence of KTY-PED01 virus strain isolated
in the North, Viet Nam
Truong Quang Lam, Nguyen Thi Lan, Nguyen Huu Nam,
Nguyen Thi Ngoc, Nguyen Thi Hoa, Nguyen Thi Yen, Ngo Thi Hanh
SUMMARY
In this study, we investigated the virulence of KTY-PED01 virus strain in the piglet at 5-days
old. The experimental pigs (negative with PEDV antibody) were infected with PED virus strain.
Each experimental pig was orally inoculated with a dose: 2 ml of 2x103TCID50/ml (2ml/pig). After
inoculation, the experimental pigs were recorded for the clinical signs, gross and histological lesions
of some tissues in 15 days post inoculation. The studied results demonstrated that the infected pigs
with PED virus strain presented the clinical signs and symptoms of fever, vomiting, dehydration,
rough hair, thin flanks and diarrhea. The result of testing fecal samples through RT-PCR technique
indicated that the KTY-PED01 virus strain was presented in the feces of the infected pigs at 1 day
post inoculation. The gross lesions were consistently observed, including intestine inflammation,
hemorrhage, thin wall and bloating stomach, containing undigested food, and kidneys with spotting
hemorrhage, lung inflammation. The lymph nodes were characterized by swelling and hemorrhage
of the pigs infected with KTY-PED01 virus strain. The histological lesions included villous atrophy and
lymphocytic inflammation in the intestine, hemorrhage, inflammatory cell infitration, haemorrhagic
lymph nodes. The results of our study showed that the KTY-PED01 virus strain is capable in causing
severe disease in pigs with clinical signs, symptoms, gross lesions and histological lesions were
similar to those of highly pathogenic PED virus strain identified previously in the North, Viet Nam.
Keywords: KTY-PED01 virus strain, virulence.
14
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tiêu chảy cấp trên lợn do virus PED
(Porcine Epidemic Diarrhea Virus) thuộc giống
Coronavirus, họ Coronaviridae bùng phát đầu
tiên tại Bỉ và Anh năm 1971 (Oldham J, 1972),
sau đó nhanh chóng lây lan và xảy ra phổ biến
ở các quốc gia châu Âu khác như Đức, Pháp,
Hà Lan... và ở châu Á như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan với tỷ lệ chết lên
đến 50 - 90% ở lợn con nhỏ hơn 2- 3 tuần tuổi
(Chen et al., 2014; Song và Park, 2012). Năm
2013, dịch PED bùng phát tại Mỹ (Stevenson
et al., 2013), gây thiệt hại trên 7 triệu lợn trong
năm đầu tiên có dịch (Cima, 2014). Đây là bệnh
truyền nhiễm, lây lan nhanh, gây thiệt hại lớn
với đặc điểm xảy ra trên lợn ở tất cả các lứa tuổi
với triệu chứng lâm sàng chủ yếu gồm: chán ăn,
nôn và tiêu chảy. Tỷ lệ lây lan và tử vong ở lợn
con dưới 7 ngày tuổi rất cao, có thể lên tới 100%
bởi tiêu chảy và mất nước nặng.
Ở Việt Nam, bệnh tiêu chảy cấp ở lợn lần
đầu tiên được phát hiện vào năm 2008 tại tỉnh
Đồng Nai (Toan et al., 2011) và báo cáo tại miền
Bắc lần đầu tiên vào năm 2012 (Nguyễn Văn
Điệp, 2012). Theo các nghiên cứu đã công bố,
bệnh tiêu chảy cấp xảy ra trên lợn mọi lứa tuổi.
Bệnh nhanh chóng lan rộng, gây ảnh hưởng lớn
đến kinh tế chăn nuôi lợn do làm tăng tỷ lệ bệnh,
tỷ lệ chết cao, đặc biệt trên lợn con theo mẹ từ
50 - 100%. Hiện nay, việc điều trị cho đàn lợn
bị mắc PED gặp rất nhiều khó khăn do chưa có
chế phẩm điều trị đặc hiệu; để ngăn chặn và tiến
tới khống chế dịch bệnh thì việc dùng vacxin từ
chính chủng virus phân lập tại Việt Nam cho đàn
lợn được xem là giải pháp tối ưu. Các nghiên
cứu trước đó tại Viện Thú y, Trung tâm chẩn
đoán Thú y Trung ương, và phòng thí nghiệm
trọng điểm CNSH thú y - Học viện Nông nghiệp
Việt Nam đã xác định được các ca nhiễm PED
trên lợn ở phía Bắc Việt Nam, tuy nhiên cho
tới nay chưa có bất kỳ công bố rộng rãi nào về
khả năng gây bệnh của chủng virus PED phân
lập. Để phục vụ cho công tác sản xuất vacxin
thì việc xác định khả năng gây bệnh của chủng
virus PED phân lập là việc làm rất cần thiết. Do
đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Xác
định độc lực của virus gây bệnh tiêu chảy cấp
trên lợn chủng virus KTY-PED01 được phân lập
tại miền Bắc Việt Nam”.
II. NỘI DUNG, VẬT LIỆU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Xác định được khả năng gây bệnh của chủng
virus KTY-PED01 trên lợn con theo mẹ.
Xác định triệu chứng lâm sàng, bệnh tích đại
thể, bệnh tích vi thể của lợn con theo mẹ được
gây nhiễm thực nghiệm bằng chủng virus KTY-
PED01.
2.2. Nguyên vật liệu
Động vật: Nghiên cứu được tiến hành trên
2 lô lợn: lô thí nghiệm (5 lợn: TN1, TN2, TN3,
TN4, TN5) và lô đối chứng (5 lợn: ĐC1, ĐC2,
ĐC3, ĐC4, ĐC5), tất cả là lợn con theo mẹ (4 - 5
ngày tuổi) thuộc giống Yorkshire. Trước khi tiến
hành gây nhiễm, toàn bộ lợn thí nghiệm được
lấy máu kiểm tra kháng thể kháng PEDV bằng
phương pháp ELISA và kiểm tra virus PED
bằng phương pháp RT-PCR. Lợn được chọn làm
thí nghiệm phải có kết quả âm tính với kháng
thể kháng virus PED, âm tính với virus PED và
một số virus khác như: TGE, Rotavirus, Circo
virus type 2 (PCV2), hội chứng rối loạn hô hấp
và sinh sản ở lợn (PRRS), dịch tả lợn (CSF) và
Porcine Deltacoronavirus (PDCoV).
Chủng giống virus KTY-PED01 được phân
lập từ ruột non của lợn con theo mẹ có triệu
chứng lâm sàng và bệnh tích điển hình của lợn
mắc PED ở tỉnh Hưng Yên năm 2017. Hiệu giá
của chủng virus KTY- PED01 đạt 107 TCID
50
/
ml. Chủng virus đang được lưu giữ và bảo quản
tại Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ sinh
học Thú y, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp RT-PCR
Bao gồm các bước tách chiết RNA của virus
15
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
và các bước thực hiện kỹ thuật RT-PCR. RNA
của virus được tách chiết bằng kit QIAamp của
hãng Qiagen (Đức) theo hướng dẫn của nhà sản
xuất. Phản ứng RT-PCR được thực hiện theo
quy trình của bộ kít.
Cặp mồi được sử dụng là: Cặp mồi PM1
(mồi xuôi: 5’ CCC CAG TAC TGT TAT TGA
CGT ATA AAC 3’, mồi ngược: 5’ GTT TAG
ACT AAA TGA AGC ACT TTC 3’) (Song et
al., 2006), cặp mồi này cho phép xác định một
phần thuộc đoạn gen M của virus PED có kích
thước 751 bp. Tiến hành khuếch đại sản phẩm
trong máy PCR với chu kỳ nhiệt: 500C: 30 phút,
950C: 2 phút; 35 chu kỳ (950C: 30 giây, 530C:
60 giây, 720C: 1 phút); 720C: 10 phút, 40C: kết
thúc. Điện di kiểm tra kết quả RT-PCR ở hiệu
điện thế 100 V trong 30 phút. Quan sát và chụp
ảnh kết quả điện di sản phẩm RT-PCR trên máy
chụp ảnh gel.
2.3.2. Gây bệnh thực nghiệm
Bố trí thí nghiệm: Lợn thí nghiệm được chia
thành 2 lô: Lô thí nghiệm (Lô TN) gồm 5 lợn
(ký hiệu từ TN1 đến TN5) và lô đối chứng 5 lợn
(ký hiệu ĐC1 đến ĐC5).
Thí nghiệm: Khu thí nghiệm được đảm bảo
có độ an toàn sinh học cấp II: Vệ sinh sạch sẽ,
thường xuyên phun thuốc sát trùng và vô trùng,
các dụng cụ sử dụng đúng quy định, có màng
lọc không khí ngăn chặn mầm bệnh từ bên
ngoài vào và từ phòng gây nhiễm sang phòng
đối chứng. Nhiệt độ phòng duy trì ở 30 - 320C,
độ ẩm không quá 90%, lợn được cho ăn 3 bữa/
ngày (sáng, trưa, tối) theo khẩu phần của lợn
con theo mẹ.
Gây nhiễm cho lợn: Nhóm lợn thí nghiệm
được gây nhiễm chủng virus KTY-PED01 qua
đường uống bằng syringe với liều 2 ml/con,
hiệu giá 2x103TCID
50
/ml.
Theo dõi lợn sau khi gây nhiễm: thể trạng,
tình hình sức khỏe, tình trạng ăn uống bằng quan
sát và ghi chép hàng ngày. Theo dõi thân nhiệt
của lợn thí nghiệm bằng cách đo bằng nhiệt kế
ở hậu môn của lợn 2 lần/ngày vào 9 giờ và 17
giờ. Tiến hành lấy mẫu phân hàng ngày (ngày 1
đến ngày 15 sau gây nhiễm) để kiểm tra sự có
mặt của virus trong cơ thể lợn thí nghiệm. Mẫu
phân được bảo quản lạnh trong thùng đá và vận
chuyển về phòng thí nghiệm trong ngày.
2.3.3. Xác định bệnh tích đại thể và vi thể
Quy trình mổ khám: Lợn được mổ khám
theo tiêu chuẩn TCVN 8402:2010 (Bộ Khoa
học và công nghệ, 2010).
Lợn thí nghiệm sẽ được mổ khám khi chết
trong quá trình theo dõi hoặc khi kết thúc theo
dõi (15 ngày), ghi chép, chụp ảnh để thu thập
thông tin về bệnh tích đại thể. Các mẫu cơ quan
từ những lợn mổ khám như dạ dày, ruột non,
ruột già, hạch lympho, gan, phổi, thận... sẽ cố
định trong formol 10% để làm tiêu bản xác định
biến đổi vi thể.
Làm tiêu bản vi thể: Bệnh phẩm được cố
định bằng formol 10%, đúc parafin bằng hệ
thống chuyền đúc mô tự động STP 120. Tiêu
bản được cắt ở độ dày 2 - 7 µm, sau đó nhuộm
bằng phương pháp HE (Haematoxylin Eosin).
2.3.4. Phương pháp nuôi cấy tế bào Vero
Môi trường đầy đủ DMEM có 10% FBS
được làm ấm trong tủ ấm 37oC trong 30 phút
trước khi lấy tế bào ra nuôi cấy. Giải đông tế
bào ở nhiệt độ phòng. Ly tâm 3000 vòng/5 phút
để loại bỏ dung dịch bảo quản và giữ lại cặn tế
bào. Hòa tan cặn tế bào trong 1ml môi trường
đã chuẩn bị ở trên. Chuyển tế bào vào bình nuôi
cấy chứa 5ml môi trường đầy đủ. Giữ tế bào ở
370C với 5% CO
2
, hàng ngày theo dõi sự phát
triển của tế bào. Cấy chuyển tế bào khi tế bào
mọc một lớp ở bình nuôi cấy.
2.2.5. Phương pháp phân lập virus
Bước một, chuẩn bị tế bào phân lập: Tế bào
Vero được đưa vào nuôi cấy trong môi trường
và điều kiện thích hợp, môi trường DMEM
(Dulbecco’s Modified Eagle Medium) có bổ
sung 10% FBS (Fetal bovine serum) nuôi tế bào
ở 37oC với 5% CO
2
, khi tế bào mọc vừa kín đáy
bình thì tiến hành gây nhiễm virus.
16
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
Bước hai, chuẩn bị mẫu phân lập: Mẫu bệnh
phẩm là ruột non của lợn được gây nhiễm PED
được xử lý theo quy trình sau: ruột nghiền bằng
chày cối vô trùng pha loãng trong DMEM theo
tỷ lệ 1:5, phá vỡ tế bào bằng máy phát sóng
siêu âm, ly tâm 10.000 vòng/10 phút/40C loại
bỏ cặn, xử lý kháng sinh rồi lọc qua màng lọc
0,22 μm, sau đó gây nhiễm lên môi trường tế
bào Vero.
Bước ba, gây nhiễm virus và quan sát kết
quả: Từ các tế bào đã chuẩn bị ở bước một, hút
bỏ môi trường nuôi cấy và bổ sung 100µl mẫu
phân lập đã chuẩn bị ở bước hai, ủ trong thời
gian 60 phút ở 37oC, sau đó bổ sung 5 ml môi
trường phân lập gồm (DMEM có chứa tryptose
phosphate Broth (0,3%), dịch chiết nấm men
(0,02%), và trypsin để ở 370C với 5% CO
2
.
Hàng ngày theo dõi sự phá huỷ tế bào bằng
kính hiển vi soi ngược. Nếu xuất hiện bệnh tích
tế bào thì thu lại virus khi tế bào bị phá hủy đạt
80% - 90% diện tích đáy của bình nuôi. Nếu 5
ngày không thấy xuất hiện bệnh tích thì thu lại
tế bào và môi trường nuôi cấy, đông tan 3 lần
và tiếp tục cấy chuyển cho đến khi xuất hiện
bệnh tích tế bào. Nếu cấy chuyển 9 lần liên tiếp
mà không thấy xuất hiện bệnh tích tế bào thì
coi như âm tính phân lập.
2.3.6. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm GraphPad
Prism version 7.03.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả triệu chứng lâm sàng chủ yếu
của lợn được gây nhiễm
3.1.1. Thân nhiệt của lợn được gây bệnh thực
nghiệm với chủng KTY-PED01
Sau khi gây bệnh, chúng tôi tiến hành đo
thân nhiệt hằng ngày của lợn vào thời điểm cố
định là 9 giờ và 17 giờ. Sau đó ghi chép lại,
xử lý số liệu qua phần mềm và được thể hiện ở
hình 1. Lợn sốt nếu thân nhiệt lớn hơn 39,50C.
Qua hình 1 thể hiện nhiệt độ trung bình của lợn
ở lô thí nghiệm và lô đối chứng, có thể thấy lợn
thí nghiệm đều có biểu hiện sốt trên 400C sau
1 ngày gây nhiễm và thân nhiệt vẫn giữ ở mức
sốt trên 39,50C nhưng có xu hướng giảm dần
trong 3 ngày đầu sau gây nhiễm. Từ ngày thứ
4 đến ngày 15 sau gây nhiễm, thân nhiệt của
tất cả các lợn thí nghiệm đều dao động ở mức
sinh lý bình thường. Ngày thứ 5 sau gây nhiễm,
có 1 lợn (TN2) ở lô thí nghiệm bị chết và ngày
thứ 6 có 1 lợn thí nghiệm (TN4) bị chết, các lợn
bị chết khi thân nhiệt ở mức nhiệt sinh lý bình
thường khoảng 39,20C. Lợn có hiện tượng sốt là
do virus tấn công vào cơ thể, phá huỷ tế bào và
sản sinh các chất độc, kích thích vào trung khu
điều hoà nhiệt, làm rối loạn trung khu điều hoà
nhiệt, gây hiện tượng sốt cao, kèm theo đó là
hiện tượng mệt mỏi, giảm ăn hoặc bỏ ăn. Lợn
đối chứng có thân nhiệt dao động trong phạm vi
sinh lý bình thường.
Hình 1. Thân nhiệt trung bình của lợn sau khi gây bệnh thực nghiệm với chủng virus
KTY-PED01 (0C)
17
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
3.1.2. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu của lợn
được gây nhiễm với chủng virus KTY-PED01
Lợn thí nghiệm và lợn đối chứng đều được
theo dõi triệu chứng lâm sàng trong vòng 15
ngày, kết quả theo dõi được ghi chép lại theo
từng ngày. Kết quả cho thấy các lợn ở lô thí
nghiệm đều có biểu hiện triệu chứng ủ rũ,
nôn, tiêu chảy, mất nước của lợn mắc virus
PED. Ở lô thí nghiệm trong thời gian nghiên
cứu có 2 lợn chết vào ngày thứ 5 và ngày thứ
6 sau gây nhiễm, chiếm tỷ lệ 40% tổng số
động vật ở lô thí nghiệm. Triệu chứng lâm
sàng chủ yếu của lợn được gây nhiễm với
chủng virus KTY-PED01 là: Sốt trong 3 ngày
đầu tiên sau gây nhiễm, ủ rũ, mệt mỏi, bỏ ăn,
nôn, tiêu chảy phân lỏng vàng, da khô, lông
xơ xác, phân vàng dính bết vào hậu môn, gầy
còm. Mức độ nặng nhẹ của các triệu chứng
gần như giống nhau ở các lợn thí nghiệm.
Riêng triệu chứng da khô, lông xơ xác, mắt
trũng sâu, bụng hóp, gầy còm được quan sát
thấy sau 5 ngày gây nhiễm, do lợn tiêu chảy
liên tục dẫn đến hiện tượng mất nước và chất
điện giải nên cơ thể bị suy kiệt. Trong khi
đó lợn đối chứng vẫn ăn uống và khỏe mạnh
bình thường.
Trong nghiên cứu gây bệnh thực nghiệm 4 chủng
IN19338/2013, NC35140/2013, NC49469/2013 và
IL2097/2014 cho lợn con theo mẹ 5 ngày tuổi, tác
giả Chen et al. (2016) đã mô tả một số triệu chứng
của lợn được gây nhiễm các chủng virus trên
như sau:
Ở các lô lợn được gây nhiễm chủng
IN19338/2013, NC35140/2013 và
NC49469/2013 đều có hiện tượng ủ rũ, tiêu
chảy, bỏ ăn, mất nước, các triệu chứng này
nghiêm trọng nhất khoảng 4 ngày sau gây nhiễm
và kéo dài đến hết thời gian theo dõi. Kết quả
nghiên cứu triệu chứng lâm sàng của chúng tôi
tương tự với kết quả nghiên cứu triệu chứng lâm
sàng của tác giả Chen et al. (2016) khi tiến hành
gây nhiễm 3 chủng virus trên, nhưng khác với
kết quả lâm sàng của lợn thí nghiệm được gây
nhiễm chủng IL2097/2014. Chủng virus này chỉ
gây ra những triệu chứng có biểu hiện nhẹ trong
khoảng 1-2 ngày sau gây nhiễm trên lợn thí
nghiệm: chỉ có 1 lợn thí nghiệm bị tiêu chảy nhẹ
ở ngày đầu tiên sau gây nhiễm, lợn không mất
tính thèm ăn, không bị mất nước và lợn phục hồi
sau 4 ngày gây nhiễm IL2097/2014.
Nhóm nghiên cứu tập trung trình bày một
số triệu chứng chính của lợn được gây nhiễm
chủng KTY-PED01 như: tiêu chảy, nôn bằng
phương pháp chấm điểm. Kết quả được thể hiện
ở hình 2.
Hình 2. Biểu đồ thể hiện giá trị điểm trung bình triệu chứng tiêu chảy của lợn
được gây nhiễm với chủng virus KTY-PED01
Ghi chú: 0: Không tiêu chảy; 1: Tiêu chảy ít (dạng phân mềm, lỏng); 2: Tiêu chảy mạnh
(phân dạng nước)
18
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
Ngày thứ 5: Lợn TN2 chết; ngày thứ 6: Lợn
TN4 chết.
Kết quả cho thấy ở lô thí nghiệm, lợn xuất
hiện triệu chứng tiêu chảy vào ngày đầu tiên sau
gây nhiễm với mức độ nhẹ, chiếm khoảng 80%
số động vật thí nghiệm. Mức độ tiêu chảy tăng
dần từ ngày thứ 2 sau gây nhiễm, tất cả các lợn
đều tiêu chảy, trong đó có 60% số lợn có biểu
hiện tiêu chảy mạnh ở mức 2 điểm và 40% lợn
tiêu chảy nhẹ ở mức 1 điểm, xu hướng tiêu chảy
tiếp tục tăng cho đến ngày thứ 4, tất cả các lợn
ở lô thí nghiệm đều tiêu chảy mạnh ở mức 2
điểm và giữ ở mức này cho đến hết thời gian
theo dõi thí nghiệm (15 ngày). Khi so sánh về
thời gian xuất hiện triệu chứng tiêu chảy và mức
độ tiêu chảy thì kết quả của chúng tôi tương tự
với kết quả nghiên cứu 3 chủng IN19338/2013,
NC35140/2013, NC49469/2013 của Chen et
al. (2016) và kết quả của Chang et al. (2017)
khi gây nhiễm chủng PEDVPT-P5 cho lợn 5
tuần tuổi. Tuy nhiên, có sự khác biệt về thời
gian kéo dài của triệu chứng tiêu chảy giữa
chủng KTY-PED01 và các chủng này. Chủng
IN19338/2013 gây triệu chứng tiêu chảy trong
7 ngày, chủng NC35140/2013 sau 7 ngày gây
nhiễm chỉ gây tiêu chảy ở mức nhẹ, riêng chủng
NC49469/2013 sau 7 ngày gây nhiễm vẫn gây
tiêu chảy ở mức độ mạnh. Đối với nghiên cứu
của Chang et al. (2017), mức độ tiêu chảy giảm
dần sau 9 ngày gây nhiễm PEDVPT-P5.
Ở lô lợn đối chứng, không có bất kỳ lợn nào
có biểu hiện tiêu chảy.
Bên cạnh triệu chứng tiêu chảy, triệu chứng
nôn cũng được quan sát thấy ở các lợn trong lô
thí nghiệm. Kết quả được thể hiện ở hình 3.
Hình 3. Biểu đồ thể hiện giá trị điểm trung bình triệu chứng nôn của lợn được gây nhiễm
với chủng virus KTY-PED01
Ghi chú: 1 điểm: có nôn; 0 điểm: không nôn
Kết quả cho thấy ở lô thí nghiệm lợn được
gây nhiễm chủng virus KTY-PED01 có biểu
hiện nôn vào ngày thứ 2 sau gây nhiễm, chiếm
khoảng 40% số lợn thí nghiệm, trình trạng
nôn mạnh nhất được quan sát vào ngày thứ 3
và thứ 4 sau gây nhiễm khi có 3/5 lợn có biểu
hiện (chiếm 60%), sau đó mức độ triệu chứng
nôn giảm dần ở lợn thí nghiệm, từ ngày thứ 8
đến hết thời gian thí nghiệm, không ghi nhận
thêm lợn có biểu hiện nôn. Ở lô đối chứng,
không quan sát thấy triệu chứng nôn ở bất kỳ
lợn nào.
Kết quả này của chúng tôi khác với kết quả
của Chen et al. (2016) khi nghiên cứu độc lực
của 4 chủng phân lập tại Mỹ, không quan sát
thấy triệu chứng nôn ở lợn thí nghiệm.
19
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
3.2. Kết quả kiểm tra sự bài thải của virus
PED qua phân lợn thí nghiệm
Lợn thí nghiệm sau khi được gây nhiễm chủng
virus KTY-PED01 có biểu hiện tiêu chảy sẽ được
lấy mẫu và kiểm tra bằng phương pháp RT-PCR để
kiểm tra sự có mặt của virus PED và một số virus
gây tiêu chảy khác như: Rotavirus, TGEV, CSFV,
PDCoV. Kết quả được trình bày ở hình 5 và hình 6.
Hình 4. Triệu chứng lâm sàng ở lợn thí nghiệm. (A) Triệu chứng nôn. (B) Lợn tiêu chảy
A B
Hình 5. Kết quả xác định lợn dương tính với virus PED sau 15 ngày gây nhiễm
Hình 6. Kết quả phản ứng RT-PCR với mồi khuếch đại một phần gen M
sau 3 ngày gây nhiễm chủng virus KTY-PED01
Ghi chú: Thang chuẩn M 100 bp; giếng từ 1 - 5 là mẫu phân của 5 lợn gây nhiễm chủng KTY-
PED01 sau 3 ngày, giếng 6 là đối chứng âm (nước tinh khiết không chứa RNA và DNA); giếng 7 là
đối chứng dương (RNA của vacxin PED). Với kích thước vạch DNA là 715 bp.
20
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
Qua kết quả RT-PCR, chúng tôi thấy 4/5 lợn
ở lô thí nghiệm được gây nhiễm chủng virus
KTY-PED01 phát hiện được virus PED trong
mẫu phân vào ngày thứ 1 sau gây nhiễm (chiếm
80%). Kết quả này tương tự với kết quả nghiên
cứu độc lực của 3 chủng virus PED nguyên
gốc US phân lập tại Mỹ của Chen et al. (2016)
và kết quả của Chang et al. (2017) khi nghiên
cứu độc lực của chủng PEDVPT-P5. Từ ngày
thứ 2 sau gây nhiễm đến hết thời gian nghiên
cứu ghi nhận thấy tất cả lợn trong lô thí nghiệm
đều dương tính với virus PED trong mẫu phân
tiêu chảy, đạt 100%. Do đến ngày thứ 5 sau gây
nhiễm có 1 lợn (TN2) ở lô thí nghiệm bị chết
và ngày thứ 6 sau gây nhiễm có 1 lợn (TN4)
chết, những lợn này đều được mổ khám kiểm
tra bệnh tích đại thể, kiểm tra virus bằng phương
pháp RT-PCR. Kết quả phân lập và RT-PCR đều
dương tính với virus PED, và âm tính với các
virus gây tiêu chảy khác (Rotavirus, TGEV,
CSFV, PDoV), chứng tỏ lợn thí nghiệm bị chết
đều do virus PED gây ra. Từ ngày thứ 7 cho đến
hết thời gian thí nghiệm, không ghi nhận thêm
ca lợn thí nghiệm nào bị chết, kết luận số lợn
chết chiếm 40% tổng số lợn thí nghiệm. Ở lô đối
chứng, 5/5 lợn đều khỏe mạnh, không có biểu
hiện triệu chứng của lợn mắc PED và kết quả
RT-PCR đều âm tính với virus PED, điều này
chứng tỏ nhóm nghiên cứu đã gây nhiễm thành
công virus PED cho lợn thí nghiệm.
3.3. Nghiên cứu biến đổi bệnh lý của lợn thực
nghiệm
3.3.1. Kết quả bệnh tích đại thể của lợn được
gây nhiễm chủng virus KTY-PED01
Sau khi gây nhiễm virus KTY-PED01, các
lợn bị chết sẽ được mổ khám ngay để quan sát
bệnh tích và những lợn còn lại cũng được mổ
khám ở ngày 15 (sau khi kết thúc thí nghiệm)
để quan sát, ghi chép lại bệnh tích đại thể. Bệnh
tích đại thể trên các cơ quan của lợn thí nghiệm
được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Bệnh tích đại thể của lợn được gây nhiễm chủng virus KTY-PED01
Bệnh tích tại một số cơ quan
Ruột
căng phồng, thành mỏng,
chứa dịch vàng. Xuất huyết
Dạ dày
căng, chứa thức
ăn không tiêu
Hạch lâm ba
sưng to, xuất huyết,
bầm tím
Phổi
viêm
Cơ quan khác
Thận sưng, xuất
huyết; lách sưng
Lô TN
(con) 5/5 5/5 5/5 1/5 2/5
Lô ĐC
(con) 0/5 0/5 0/5 0/5 0/5
Kết quả cho thấy, lợn được gây nhiễm chủng
virus KTY-PED01 có các bệnh tích chủ yếu
như: ruột non căng phồng, thành ruột mỏng, có
thể nhìn thấy được bên trong. Chất chứa trong
ruột là dịch lỏng màu vàng, lợn cợn. Ống dưỡng
chấp căng, màu đỏ, nổi rất rõ. Bộc lộ niêm mạc
phía trong ruột thấy có hiện tượng xuất huyết
lan tràn. Dạ dày căng phồng, chứa thức ăn
không tiêu, xuất huyết. Hầu hết các hạch đều
sưng, đặc biệt là hạch màng treo ruột sưng rất
lớn, và có hiện tượng xuất huyết. Đây là bệnh
tích điển hình nhất của lợn được gây nhiễm
chủng virus KTY-PED01. Ngoài ra còn có các
bệnh tích khác như phổi sung huyết nhẹ, thận
xuất huyết điểm, lách sưng, gan sung huyết, mật
căng. Đây là những bệnh tích không đặc trưng
vì không phải mổ khám lợn nào cũng thấy xuất
hiện. Không quan sát thấy bệnh tích đại thể bất
thường nào ở lô lợn đối chứng.
Như vậy cho thấy trên lợn mà chúng tôi
nghiên cứu đều cho kết quả bệnh tích đại thể phù
hợp với các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn
Văn Điệp và Nguyễn Thị Lan (2013), lợn mắc
PED có tổn thương đại thể giống với lợn mắc
21
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
TGE: dạ dày trống rỗng do lợn nôn, ống
dưỡng chấp không chứa nhiều dịch dưỡng do
sự kém hấp thu ở ruột. Các đoạn ruột non
chứa đầy dịch, căng phồng, thành ruột mỏng
tới mức có thể nhìn thấy bên trong do sự teo
lại của tầng niêm mạc, chất chứa bên trong
ruột lợn cợn, hạch màng treo ruột sưng to
thành dải rõ rệt.
Hình 7. Bệnh tích đại thể của lợn thí nghiệm được gây nhiễm virus PED
(A) Dạ dày, ruột căng, thành mỏng. (B) Hạch màng treo ruột sưng.
(C) Thành ruột mỏng, xuất huyết. (D) Thận xuất huyết điểm
A
3.3.2. Kết quả bệnh tích vi thể của lợn được
gây nhiễm chủng virus KTY-PED01
Chúng tôi nhận thấy rằng bệnh tích vi thể
chủ yếu nhất của cả 5 lợn là những biến đổi ở
dạ dày, ruột và hạch lympho. Cụ thể được trình
bày ở bảng 2.
Bảng 2. Bệnh tích vi thể của lợn được gây nhiễm chủng virus KTY-PED01
Bệnh tích tại một số cơ quan
Ruột
Niêm mạc bong tróc.
Lông nhung đứt nát.
Thâm nhiễm tế bào
viêm. Xuất huyết
Dạ dày
Biểu mô bị
đứt nát. Xuất
huyết
Hạch lympho
Các nang lympho
thoái hóa. Hồng
cầu lan tràn. Thâm
nhiễm tế bào viêm
Phổi
Thâm nhiễm các
tế bào viêm
Cơ quan khác
Thận, lách thâm
nhiễm tế bào
viêm, xuất huyết
Lô TN
(con) 5/5 5/5 5/5 2/5 3/5
Lô ĐC
(con) 0/5 0/5 0/5 0/5 0/5
Kết quả cho thấy, bệnh tích vi thể chủ yếu
của 5 lợn thí nghiệm là: Hiện tượng xuất huyết,
bong tróc, đứt nát lông nhung ruột và niêm mạc
dạ dày, thâm nhiễm tế bào viêm ở các cơ quan
với tỷ lệ cao. Ngoài ra còn thấy hoại tử tế bào và
thoái hóa tế bào. Trong đó có 5/5 mẫu ruột đều
có các tổn thương như: Niêm mạc bong tróc,
lông nhung đứt nát và thâm nhiễm các tế bào
viêm, sung huyết, xuất huyết. Dạ dày ở cả 5 mẫu
nghiên cứu đều có biểu hiện bong tróc niêm
mạc, xuất huyết và sung huyết. Hạch lympho có
biểu hiện chủ yếu là xuất huyết và thoái hóa các
nang lympho. Phổi trong các mẫu nghiên cứu
chủ yếu có biểu hiện xuất huyết, tăng sinh tổ
chức kẽ, thâm nhiễm tế bào viêm. Các bệnh tích
này đều không xuất hiện ở lô đối chứng.
B C D
22
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
3.4. Kết quả phân lập lại chủng virus KTY-
PED01 trên môi trường tế bào vero
Sau khi mổ khám tất cả lợn ở lô thí nghiệm,
chúng tôi tiến hành thu mẫu và phân lập lại
chủng virus KTY-PED01 trên môi trường tế bào
Vero. Kết quả thể hiện ở bảng 3.
Hình 8. Bệnh tích vi thể của lợn thí nghiệm được gây nhiễm virus PED
(A) Biểu mô ruột đứt nát (HEx10). (B) Ruột non sung huyết, xuất huyết (HEx10).
(C) Biểu mô dạ dày đứt nát (HEx10). (D) Thâm nhiễm tế bào viêm ở ruột (HEx40)
Bảng 3. Kết quả phân lập lại chủng virus KTY-PED01 trên môi trường tế bào Vero
STT Lợn thí nghiệm P0 P1 P2 P3 RT-PCR sau phân lập (P3)
1 TN1 0 1 1 1 +
2 TN2 0 1 1 1 +
3 TN3 0 0 1 1 +
4 TN4 0 1 1 1 +
5 TN5 0 1 1 1 +
Ghi chú: Pn: Đời cấy chuyển virus thứ n; 0: Không xuất hiện bệnh tích tế bào; 1: Xuất hiện bệnh tích
tế bào; + : Kết quả dương tính với virus PED
Qua bảng kết quả có thể thấy chủng virus
KTY-PED01 không gây bệnh tích trên tế bào
Vero ngay trong đời đầu tiên gây nhiễm (P0).
Đến đời cấy chuyển thứ 1, có 4/5 mẫu gây bệnh
tích trên tế bào, chiếm 80% tổng số mẫu thí
nghiệm. Từ đời cấy chuyển thứ 2, quan sát thấy
tất cả các mẫu gây nhiễm đều xuất hiện bệnh tích
trên tế bào. Với bệnh tích đặc trưng là các tế bào
dung giải màng tạo thành tế bào khổng lồ chứa
nhiều nhân bên trong (thể hợp bào - syncytium).
Khi xuất hiện bệnh tích tế bào, dịch nuôi cấy
được thu để kiểm tra sự có mặt của virus PED
bằng phương pháp RT-PCR. Kết quả cho thấy
100% các mẫu đều dương tính với virus PED,
và bệnh tích xuất hiện trên tế bào chính là do
chủng virus KTY-PED01 gây ra.
Hình 9. (A) Tế bào Vero không được gây nhiễm virus PED.
(B) Bệnh tích của PEDV trên tế bào Vero đời P1
A B C D
A B
23
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
IV. KẾT LUẬN
Chủng virus KTY-PED01 có khả năng gây
bệnh trên lợn thí nghiệm tương đương với
chủng virus cường độc, với triệu chứng và bệnh
tích rất điển hình của lợn mắc PED. Triệu chứng
lâm sàng chủ yếu của lợn được gây nhiễm là:
bỏ ăn, sốt, nôn mửa, gầy còm và đặc biệt là tiêu
chảy phân màu vàng, dính bết ở hậu môn.
Bệnh tích đại thể chủ yếu của lợn được gây
nhiễm chủng KTY-PED01 là ruột non căng
phồng, thành ruột mỏng, xuất huyết, bên trong
ruột chứa dịch lỏng màu vàng. Dạ dày căng
phồng, chứa thức ăn không tiêu, xuất huyết. Các
hạch lympho, đặc biệt là hạch màng treo ruột có
biểu hiện sưng to, xuất huyết.
Bệnh tích vi thể của lợn được gây nhiễm chủng
KTY-PED01 là: niêm mạc ruột bong tróc, lông
nhung đứt nát và hoại tử, có biểu hiện sung huyết,
xuất huyết và sự thâm nhiễm các tế bào viêm ở hạ
niêm mạc, ngoài ra còn hình thành các không bào
nằm ở đầu lông nhung. Biểu mô dạ dày bị bong
tróc, đứt nát, phần tuyến bị phá hủy, xuất huyết.
Các hạch lâm ba có biểu hiện sung huyết, xuất
huyết, các nang lympho bị thoái hóa. Ngoài ra còn
có sự thoái hóa, hoại tử xuất huyết ở một số cơ
quan khác như: gan, lách, thận, phổi.
Dựa vào các kết quả trên, chủng virus KTY-
PED01 có thể được lựa chọn để tiến hành nghiên
cứu sâu hơn phục vụ cho các nghiên cứu chọn
chủng virus tiềm năng để sản xuất vacxin, thử
hiệu lực của vacxin hoặc sản xuất các chế phẩm
sinh học phục vụ cho chẩn đoán, phòng và trị
bệnh PED.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chang, Y.-C., Kao, C.-F., Chang, C.-Y., Jeng, C.-R.,
Tsai, P.-S., Pang, V., Chang, H.-W., 2017. Evaluation
and Comparison of the Pathogenicity and Host
Immune Responses Induced by a G2b Taiwan
Porcine Epidemic Diarrhea Virus (Strain Pintung
52) and Its Highly Cell-Culture Passaged Strain in
Conventional 5-Week-Old Pigs. Viruses, 9(5), 121.
2. Chen, Q., Li, G., Stasko, J., Thomas, J. T.,
Stensland, W. R., Pillatzki, A. E., Gauger, P. C.,
Schwartz, K. J., Madson, D. & other authors,
2014. Isolation and characterization of porcine
epidemic diarrhea viruses associated with the
2013 disease outbreak among swine in the United
States. J. Clin Microbiol 52, 234–243.
3. Chen Qi., Phillip C. Gauger, Molly R. Stafne, Joseph
T. Thomas, Darin M. Madson, Haiyan Huang, Ying
Zheng, Ganwu Li and Jianqiang Zhang, 2016.
Pathogenesis comparison between the United States
porcine epidemic diarrhoea virus prototype and
S-INDEL-variant strains in conventional neonatal
piglets. Journal of General Virology, 97, 1107–1121.
4. Cima, G., 2014. PED virus reinfecting U.S.
herds. Virus estimated to have killed 7 million-
plus pigs. J Am Vet Med Assoc 245, 166–167.
5. Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị
Hoa, Yamaguchi, 2014. Một số đặc điểm dịch tễ
và bệnh lý của bệnh tiêu chảy thành dịch trên lợn
ở một số tỉnh phía bắc Việt Nam. Tạp chí Khoa
học kỹ thuật Thú y, tập XXI., số 2, tr43-tr56.
6. Oldham, J., 1972. Epidemic diarrhoea: How it all
began. Letter to the editor. Pig farming (Suppl.),
72–73.
7. Song, D. S., Kang, B. K., Oh, J. S., Ha, G. W., Yang,
J. S., Moon, H. J., Park, B. K., 2006. Multiplex
Reverse Transcription-PCR for Rapid Differential
Detection of Porcine Epidemic Diarrhea Virus,
Transmissible Gastroenteritis Virus, and Porcine
Group A Rotavirus. Journal of Veterinary
Diagnostic Investigation, 18(3), 278–281.
8. Song, D. & Park, B., 2012. Porcine epidemic
diarrhoea virus: a comprehensive review of
molecular epidemiology, diagnosis, and vaccines.
Virus Genes 44, 167–175.
9. Stevenson, G. W., Hoang, H., Schwartz, K. J.,
Burrough, E. R., Sun, D., Madson, D., Cooper, V.
L., Pillatzki, A., Gauger, P. & other authors, 2013.
Emergence of porcine epidemic diarrhea virus in
the United States: clinical signs, lesions, and viral
genomic sequences. J Vet Diagn Invest 25, 649–654.
10. Toan, N.T., Puranaveja, S., Thanawongnuwech,
R., 2011. Genetic characterization of porcine
epidemic diarrhea virus (PEDV) isolates from
southern Vietnam during 2009-2010 outbreaks.
The Thai Journal of Veterinary Medicine 41, 55.
Ngày nhận 5-12-2018
Ngày phản biện 29-1-2019
Ngày đăng 1-9-2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xac_dinh_doc_luc_cua_virus_gay_benh_tieu_chay_cap_tren_lon_c.pdf