Nghiên cứu của Xu Si và cộng sự (2016) khi tiến
hành cho chuột béo phì ăn khẩu phần chứa tinh
bột đề kháng RS4 acetat liên tục trong 6 tháng thử
nghiệm cũng cho thấy sự giảm đáng kể các chỉ số
Tryglycerid, LDL-cholesterol, choleserol toàn phần
và tăng HDL-cholesterol [15]. Thông thường, ở
những người béo phì, sự tăng vọt các acid béo tự do
(FFA) trong huyết tương là yếu tố nền tảng gây ra sự
đề kháng insulin dẫn đến thực trạng ĐTĐ [3]. Nồng
độ các FFA cao trong máu gây cản trở rất lớn đến
sự tiếp nhận insulin ở ngoại vi và điều chỉnh mức
đường huyết trong cơ thể.
Do đó, thông qua việc điều hòa nồng độ FFA, các
acid béo chuỗi ngắn còn có tác dụng làm tăng sự
nhạy cảm insulin trên những bệnh nhân ĐTĐ týp 2
thường đi kèm với bệnh béo phì.
Ngoài ra, các acid béo chuỗi ngắn còn có tác
dụng tăng khả năng hấp thu glucose vào trong các tế
bào mô cơ và tế bào mô mỡ, đây cũng là một yếu tố
làm giảm sự đề kháng insulin. Kết quả này đã được
chứng minh trong nghiên cứu Robertson (2005) với
một chế độ ăn giàu tinh bột đề kháng Hi Maize 260
cho hàm lượng SCFA (chủ yếu là acid propionic và
acid acetic) cao hơn đáng kể so với nhóm placebo
dẫn đến hàm lượng SCFA đến các mô cơ và mô mỡ
nhiều hơn và lượng glucose được hấp thu ở nhóm tế
bào này cao hơn đáng kể [11].
Như vậy, quá trình chuyển hóa của tinh bột mì
acetat dù là tinh bột đề kháng với enzym amylase
nhưng khác hoàn toàn với cellulose tồn tại trong
khẩu phần ăn hằng ngày của chúng ta. Sự khác biệt
là do trong khi phần RS của tinh bột mì acetat vẫn
có thể được chuyển hóa trong đường tiêu hóa còn
cellulose là loại chất xơ không được hòa tan trong
ruột non cũng không được các vi sinh vật lên men
tại ruột già trên cơ thể người nên nó được đào thải
nguyên vẹn ra bên ngoài. Các kết quả thu được cho
thấy sự phù hợp vào nhận định ban đầu của nhóm
khi tiến hành nghiên cứu tinh bột mì acetat trong
in-vitro về tính ưu việt của loại RS này trong hỗ trợ
điều trị bệnh ĐTĐ.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định khả năng hạn chế tăng đường huyết sau ăn và chuyển hóa của tinh bột mì Acetat trên chuột nhắt khỏe mạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
Xác định khả năng hạn chế tăng đường huyết sau ăn và chuyển hóa của
tinh bột mì acetat trên chuột nhắt khỏe mạnh
Thái Khoa Bảo Châu, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Hữu Dũng
Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược Huế, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Ngày nay, tinh bột đề kháng (resistant starch - RS) được quan tâm như một loại thực phẩm
chức năng làm hạn chế sự tăng đường máu sau ăn và hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường. Hiện nay, nhóm nghiên
cứu chúng tôi đã bán tổng hợp tinh bột lúa mì acetylated (TBAC) để hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường, đó
là RS4 được hình thành do sự biến đổi cấu trúc hóa học. TBAC đã được chứng minh cho thấy khả năng chống
lại sự thủy phân của enzym amylase trong thử nghiệm in vitro cũng như an toàn trong in vivo. Phương pháp
nghiên cứu: Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiếp tục đánh giá khả năng của TBAC hạn chế sự gia tăng glucose
máu sau ăn và xác định các acid béo chuỗi ngắn (short-chain fatty acids - SCFA) được chuyển hóa từ TBAC
trong đường tiêu hóa của chuột khỏe mạnh bằng HPLC. Kết quả: Lô chuột được cho ăn TBAC biểu hiện mức
tăng đường huyết rất hạn chế và duy trì ổn định trong 2 giờ sau bữa ăn so với nhóm đối chứng được cho ăn
tinh bột lúa mì tự nhiên (TBTN). Đồng thời, hàm lượng SCFA được tạo ra trong manh tràng của lô chuột ăn
TBAC cao hơn đáng kể so với lô chuột được nuôi bằng TBTN, đặc biệt là acid acetic và propionic lần lượt là
28% và 26%. Kết luận: TBAC đã cho thấy hạn chế tăng đường huyết sau ăn ở chuột một cách hiệu quả thông
qua khả năng chống thủy phân amylase ở ruột non. Khi đi vào manh tràng, nó được lên men để tạo thành
SCFA cung cấp một phần năng lượng cho các hoạt động của cơ thể, tránh lên men thối gây ra rối loạn tiêu
hóa, vốn là những hạn chế vốn có của thực phẩm giàu chất xơ và cellulose thông thường.
Từ khóa: tinh bột lúa mì acetyl hóa, tinh bột lúa mì tự nhiên, SCFA, đường huyết.
Abstract
Determination the limit of postprandial blood glucose increase and
the metabolism of acetylated wheat starch on healthy mice
Thai Khoa Bao Chau, Nguyen Huu Tien, Tran Huu Dung
Faculty of Pharmacy, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Introduction: Nowadays, resistant starches are interested as a supplement food by effecting on the limit
of postprandial blood glucose increase and supporting for the diabetes treatment. Recently, we have semi-
synthesized the acetylated wheat starch (AWS) oriented for supporting the treatment of diabetes mellitus,
which is the RS4 formed by chemical structure modification. AWS has been proved itself to show strong
resistance to amylase activity in-vitro as well as to be safety in-vivo. Materials and Methods: In this study,
we continued to evaluate AWS’s ability to limit postprandial blood glucose increase and determined short-
chain fatty acids (SCFAs) metabolized from AWS in the gastrointestinal tract of healthy mice by HPLC. Results:
the mice fed AWS exhibited a very limited increase in blood glucose levels and remained stable for 2 hours
after meals comparing with the control group (mice fed natural wheat starch) (NWS). Simultaneously, the
content of SCFAs produced in the caecum of the mice fed AWS was significantly higher than mice fed NWS,
especially with acetic and propionic acids by 28% and 26%, respectively. Conclusion: AWS has been shown to
limit postprandial hyperglycemia in mice effectively through the resistance to amylase hydrolysis in the small
intestine. When going into the caecum, it is fermented to form SCFAs that provide a part of the energy for the
body’s activities and to avoid rotten fermentation causing digestive disorders, which are inherent restrictions
of normal high cellulose and fiber food.
Keywords: acetylated wheat starch, natural wheat starch, SCFA, blood glucose.
Địa chỉ liên hệ: Trần Hữu Dũng, email: thdung@huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2019.5.2
Ngày nhận bài: 3/7/2019, Ngày đồng ý đăng: 17/7/2019; Ngày xuất bản: 26/8/2019
16
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) đang thực sự là mối
lo ngại đối với xã hội hiện nay bởi tốc độ gia tăng
nhanh chóng trên toàn thế giới. Theo nghiên cứu
của Cục Quản lý Khám chữa bệnh Việt Nam, tính đến
năm 2015, số lượng bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ ở độ
tuổi trưởng thành là 3,5 triệu người, chiếm 6% dân
số của nước ta và ước tính đến năm 2040 có khoảng
6,1 triệu người mắc bệnh ĐTĐ. Đây là mối đe dọa
tiềm ẩn cho các bệnh rối loạn nội tiết và các bệnh tim
mạch. Trong các phác đồ điều trị bệnh ĐTĐ, ngoài
phương pháp dùng thuốc thì việc điều chỉnh lối sống
và chế độ dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng.
Ngày nay, bên cạnh các khuyến cáo hạn chế hầu hết
lượng tinh bột tiêu thụ ở bệnh nhân ĐTĐ, các nhà
dinh dưỡng học trên thế giới đang hướng đến tìm
kiếm những thực phẩm đảm bảo cung cấp năng
lượng cho hoạt động hằng ngày mà không làm tăng
cao mức đường huyết sau ăn trên bệnh nhân, và tinh
bột đề kháng, một loại thực phẩm có tác dụng đề
kháng với các enzyme phân cắt tinh bột thành đường
đơn ở ruột non, là một trong những sự lựa chọn và
được nhiều nghiên cứu hiện nay hướng đến.
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu
về tinh bột đề kháng (RS) và đã khẳng định được
vai trò của loại tinh bột này nhờ vào tác dụng đề
kháng với enzyme amylase nên không được tiêu hóa
và hấp thu ở ruột non, góp phần hạn chế đáng kể sự
gia tăng đột ngột đường huyết trên in-vitro, in-vivo
cũng như trên lâm sàng (clinical trial). Không những
vậy, sau khi rời khỏi ruột non, RS sẽ được lên men
tạo thành các acid béo chuỗi ngắn (SCFAs), đây là
những acid béo hữu cơ có cấu trúc từ 1-6 carbon và
có thể tồn tại ở dạng mạch thẳng hoặc mạch nhánh.
Sau khi được tái hấp thu vào tuần hoàn, sự hiện diện
của các acid béo chuỗi ngắn này góp phần không
nhỏ vào cung cấp năng lượng cho cơ thể cũng như
những ảnh hưởng lên chỉ số glucose máu trên bệnh
nhân ĐTĐ. Do vậy, năm 2016 FDA đã công nhận và
cho phép sử dụng một số RS làm thực phẩm chức
năng hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân ĐTĐ [16].
Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước về RS
vẫn còn rất hạn chế. Năm 2015, Trần Hữu Dũng và
cộng sự đã bắt đầu thực hiện nghiên cứu bán tổng
hợp tinh bột mì acetat định hướng dùng trong hỗ
trợ điều trị ĐTĐ. Loại tinh bột này đã xác định được
các đặc tính lý hóa cũng như các phân đoạn dinh
dưỡng. Đây là loại tinh bột đề kháng RS
4
được hình
thành do biến đổi cấu trúc hóa học và có khả năng
đề kháng với enzyme amylase rất rõ rệt trên in-vitro
[2]. Tiếp theo nhóm nghiên cứu của Trần Hữu Dũng
tiếp tục tiến hành thử nghiệm độc tính cấp và độc
tính mãn trên chuột thí nghiệm và đã khẳng định
được sự an toàn của loại tinh bột này trên in-vivo.
Với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về sự cải thiện
chỉ số glucose máu sau khi ăn trên cơ thể sống của
tinh bột mì acetat trong định hướng hỗ trợ điều trị
bệnh ĐTĐ, đồng thời xác định sự chuyển hóa của
loại tinh bột này sau khi thoát khỏi sự tiêu hóa của
ruột non liệu có chuyển hóa tạo ra những acid béo
chuỗi ngắn hay được đào thải nguyên vẹn trong
đường tiêu hóa như nhóm chất xơ không hòa tan
(cellulose), nhóm nghiên cứu tiếp tục thực hiện đề
tài này với các mục tiêu gồm đánh giá tác dụng hạn
chế tăng đường huyết sau ăn và xác định các acid
béo chuỗi ngắn được chuyển hóa từ tinh bột mì
acetat trong đường tiêu hóa của chuột thí nghiệm
bằng phương pháp HPLC.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Nguyên vật liệu nghiên cứu
Mẫu tinh bột mì tự nhiên (TBTN) được tạo thành
bằng cách tinh chế và loại tạp bột lúa mì của Công
ty trách nhiệm hữu hạn bột mì Meizan; tinh bột mì
acetat (TBAC) được tạo thành bằng phương pháp
acetyl hóa bởi tác nhân anhydrid acetic 9% trong
150 phút ở nhiệt độ phòng và luôn duy trì pH môi
trường trong khoảng 8 - 8,4. Tinh bột mì acetat có
hàm lượng acetyl là 2,42%, chứa hàm lượng tinh bột
tiêu hóa nhanh (RDS) là 25,03%, tinh bột tiêu hóa
chậm (SDS) là 22,85% và tinh bột đề kháng (RS) là
34,54% [2].
Chuột nhắt trắng đực thuần chủng dòng Swiss,
có thể trọng 20-24g, trưởng thành, khỏe mạnh.
Chuột được nuôi một tháng để thích nghi với môi
trường thí nghiệm.
2.2. Xác định khả năng hạn chế tăng glucose
máu sau ăn của TBAC trên chuột thí nghiệm
Chọn 18 cá thể chuột nhắt trắng đực thuần chủng
dòng Swiss, có thể trọng 20-24g. Mỗi con được đánh
dấu, phân thành 3 lô ngẫu nhiên, mỗi lô 6 con dùng
cho nghiên cứu. Các lô chuột nhịn đói qua đêm 16h
trước khi thử nghiệm. Cho các lô chuột ăn 1 lần duy
nhất mỗi loại huyền phù tinh bột (loại I; II; III) liều
5g/kg bằng đường bơm mẫu xuống thực quản chuột
với kim đầu tù lần lượt:
- Lô 1: cho ăn huyền phù I (phân tán 0,48g TBTN
trong 1ml nước cất);
- Lô 2: cho ăn huyền phù II (phân tán 0,24g TBTN
và 0,24g TBAC trong 1ml nước);
- Lô 3: cho ăn huyền phù III (phân tán 0,48g TBAC
trong 1 ml nước).
Sau đó, máu toàn phần được lấy từ đuôi chuột tại
thời điểm trước ăn và các thời điểm 30, 60, 90, 120
phút sau ăn để xác định nồng độ glucose máu bằng
17
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
máy đo đường huyết tự động Accu Check Performa
(Roche, Đức). Thí nghiệm được lặp lại 3 lần nhằm
xác định các giá trị trung bình, sự khác biệt. So sánh
giữa các nhóm dùng ANOVA test, so sánh trong cùng
nhóm tại 2 thời điểm trước sau thử nghiệm dùng
pair t – test, độ tin cậy 95%.
2.3. Xác định hàm lượng các SCFA tại các phân
đoạn đường ruột của chuột thí nghiệm
Chuột nhắt trắng đực thuần chủng dòng Swiss
khỏe mạnh, trọng lượng 20-24g, 10 tuần tuổi, chuột
được phân thành ngẫu nhiên 2 lô, mỗi lô 8 con (Lô
TN và Lô AC). Hàng ngày cho các chuột mỗi lô ăn
mỗi huyền phù tinh bột khác nhau bằng đường bơm
mẫu xuống thực quản chuột thí nghiệm với kim đầu
tù lần lượt:
- Lô TN: cho ăn huyền phù chứa TBTN 2 lần/ngày
(liều 5g/kg mỗi buổi sáng và chiều).
- Lô AC: cho ăn huyền phù chứa TBAC 2 lần/ngày
(liều 5g/kg mỗi buổi sáng và chiều).
Chuột được nuôi liên tục trong 21 ngày, thức
uống là sữa Vinamilk và nước lọc cho uống tự
do. Đến ngày 21 tiến hành gây mê, mổ chuột thí
nghiệm để thu được các phân đoạn chất chuyển
hóa trên đường tiêu hóa chuột bao gồm tá tràng,
hồi manh tràng và đại tràng. Các mẫu này được
Nồng độ
glucose
máu
(mmol/l)
Thời điểm (phút) Lô 1 Lô 2 Lô 3 ANOVA test
0 8,0 ± 1,6 9,1 ± 2,3 7,6 ± 1,7 p > 0,05
30 14,3 ± 2,1 15,5 ± 1,6 11,5 ± 0,4 p > 0,05
60 16,1 ± 0,7 12,9 ± 1,8 10,3 ± 2,1 p < 0,05
90 12,9 ± 1,6 11,3 ± 3,1 7,7 ± 1,9 p < 0,05
120 9,9 ± 0,8 9,8 ±1,5 7,6 ± 1,7 p > 0,05
xác định hàm lượng các SCFA bằng phản ứng tạo
dẫn xuất hydrazide với 1-EDC-HCl (1-ethyl-3-(3-
dimethylaminopropyl) carbodiimide hydrochloride),
2-NPH-HCl (2-nitrophenyl-hydrazine hydrochloride)
trong pyridin và phân tích trên HPLC với cột Agilent
Eclipse XDB-C8 (150 x 4,6 mm, 5 µm) ở 40oC, pha
động gồm MeOH - ACN - đệm TFA 0,057 mM (pH
4,5) với gradient thay đổi theo thời gian: 0:13:87 (0
- 9 phút) - 10:20:70 (10 - 35 phút) - 0:13:87 (36 - 40
phút). Tốc độ dòng là 1,4 ml/phút, thể tích tiêm mẫu
là 20 µl, bước sóng phát hiện tại 396 nm. Chất nội
chuẩn là acid 2-ethylbutyric [1].
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Xác định khả năng hạn chế tăng glucose
máu sau ăn của TBAC trên chuột thí nghiệm
Kết quả khảo sát sự ảnh hưởng của các khẩu
phần ăn chứa TBAC và TBTN lên chỉ số đường huyết
sau khi ăn trên chuột nhắt trắng được trình bày ở
Bảng 1. Các giá trị glucose máu trung bình được lấy
từ ba lô chuột (n=6) cho ăn các chất thử nghiêm
gồm TBAC, TBTN và hỗn hợp tinh bột TN/AC với tỉ lệ
50/50 tại các thời điểm 0 phút (trước khi dùng chất
thử nghiệm), 30, 60, 90, 120 phút sau khi dùng chất
thử nghiệm bằng máy đo đường huyết.
Bảng 1. Nồng độ glucose máu ở các lô chuột thử nghiệm theo thời gian
Từ kết quả thử nghiệm cho thấy, nồng độ glucose
máu tại thời điểm trước khi cho ăn không có sự khác
biệt đáng kể (p > 0,05). Tuy nhiên, nồng độ glucose
máu tại thời điểm sau khi ăn tại 60 phút và 90 phút
của lô cho ăn TBAC (tương ứng với 10,30 và 7,7
mmol/l) thấp hơn rõ rệt so với lô cho ăn TBTN (tương
ứng với 16,1 và 12,9 mmol/l) (p < 0,05). Điều này đã
góp phần làm rõ hơn khả năng đề kháng sự thủy phân
của amylase trong nhóm chuột cho ăn TBAC, dẫn đến
sự hạn chế rất tốt trong việc gây tăng glucose máu.
Để minh họa rõ hơn sự biến thiên đường huyết
trước và sau ăn, các số liệu ở Bảng 1 được quy đổi
về phần trăm tăng glucose máu sau 30, 60, 90 và 120
phút so với glucose máu lúc đói được thể hiện ở đồ
thị Hình 1.
Hình 1. Đồ thị khảo sát sự thay đổi
chỉ số glucose máu trước và sau bữa ăn của
các lô chuột
18
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
Đồ thị cho thấy nồng độ glucose máu tại các thời
điểm sau ăn của lô cho ăn TBAC và lô cho ăn AC/TN
biến thiên hầu như không đáng kể so với sự tăng hay
giảm rất lớn nồng độ glucose máu ở lô cho ăn TBTN,
được thể hiện rất rõ ở độ dốc rất lớn trền đường
biến thiên. Cụ thể, tại thời điểm 30 phút của lô cho
ăn tinh bột AC và lô cho ăn hỗn hợp AC/TN, nồng độ
glucose tăng cao nhất (55,8% và 70,5%) nhưng vẫn
thấp hơn so với lô ăn TBTN (80,9%) dù khác biệt này
chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tuy nhiên sau
đó nồng độ glucose máu đã giảm dần về 60 phút
(tương ứng với 36,7% và 42,3%) và sau 90 phút hầu
như tương đương với nồng độ glucose lúc đói. Trong
khi nồng độ glucose máu ở lô cho ăn TBTN tiếp tục
tăng cao và đạt đỉnh tại 60 phút (106%) và sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Như vậy, khẩu phần ăn chứa TBAC giúp hạn chế
gia tăng đột ngột nồng độ glucose máu trên chuột
thí nghiệm so với lô có chứa khẩu phần có TBTN.
Nguyên nhân là do tinh bột mì acetat có chứa hàm
lượng tinh bột tiêu hóa nhanh RDS là 25,0%, tinh
bột tiêu hóa chậm SDS là 22,8% và tinh bột đề kháng
RS là 34,5%. Loại tinh bột này chứa tỉ lệ RDS và SDS
thấp hơn, trong khi lại chứa tỷ lệ RS cao hơn nhiều
so với TBTN. Hàm lượng RS cao đồng nghĩa với việc
phần carbohydrat bị thủy phân với enzym amylase
thấp. Khả năng kháng lại sự thủy phân của enzym
làm cho sự hấp thu glucose ở ruột non ở mức độ
chậm và ở qui mô nhỏ (chủ yếu ở sự thủy phân của
RDS và SDS), làm cho mức đường huyết sau khi ăn
TBAC tăng lên từ từ và giảm xuống một cách chậm
rãi và sự thay đổi này hầu như không đáng kể so
với sự biến thiên đột ngột nồng độ glucose máu ở
khẩu phần ăn chứa TBTN, qua đó sự bài tiết insulin
được điều chỉnh thích hợp hơn, góp phần cải thiện
độ nhạy cảm của insulin. Điều này chứng mình tinh
bột mì acetat có khả năng điều hòa đường huyết
rất tốt. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Shimotoyodome (2009) thực hiện trên nhóm chuột
có chế độ ăn giàu chất béo, nồng độ glucose máu
theo dõi trong suốt 120 phút ở nhóm chuột ăn tinh
bột bắp biến tính RS
4
thấp hơn rất nhiều so với nhóm
chứng ăn tinh bột bắp tự nhiên. Ngoài ra, nghiên
cứu cũng chứng minh được rằng lượng insulin tiết ra
để điều hòa mức đường huyết của nhóm chuột ăn
RS
4
cũng thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
chứng ăn tinh bột bắp [13].
3.2. Xác định hàm lượng các SCFA tại các phân
đoạn đường ruột của chuột thí nghiệm
Các acid béo chuỗi ngắn (SCFA) được tạo ra bởi sự
lên men của các vi sinh vật yếm khí trong phần ruột
già của đường tiêu hóa là chủ yếu. Sau khi tạo dẫn
xuất hydrazide trong pyridin và phân tích trên HPLC
thu được sắc kí đồ như Hình 2, hàm lượng các SCFA
bao gồm acid succinic, acid acetic, acid propionic, acid
butyric và acid valeric trong các phân đoạn đường
ruột chuột trong mỗi lô chuột cho ăn TBTN (Lô 1) và
TBAC (Lô 2) được thể hiện trong Bảng 2.
Hình 2. Sắc ký đồ các dẫn xuất hydrazide của acid succinic, acetic, propionic, butyric và valeric
trong phân chuột sau khi ăn TBAC
Bảng 2. Hàm lượng SCFA trong các phân đoạn tiêu hóa ở chuột ăn TBTN và TBAC
SCFA(umol/g) Suc. Ace. Pro. But. Val. Tổng SCFA
Lô
TN
Ruột non 0,7 ± 2,3 1,7 ± 2,7 0,23 ± 2,6 0,1 ± 3,2 0,0 2,7 ± 2,6
Manh tràng 0,9 ± 3,6 29,6 ± 1,9 5,2 ± 1,7 2,3 ± 2,7 0,1 ± 0,4 38,1 ± 2,8
Đại tràng 0,7 ± 2,8 33,5 ± 4,3 4,0 ± 1,3 1,5 ± 2,8 0,1 ± 0,3 39,8 ± 3,0
Trực tràng 0,02 ± 1,3 7,2 ± 3,7 1,9 ± 1,0 0,3 ± 1,6 0,1 ± 0,3 9,52 ± 1,2
Lô
AC
Ruột non 0,3 ± 1,7 3,0 ± 0,8 0,2 ± 1,8 0,1 ± 1,2 0,0 3,6 ± 0,5
Manh tràng 2,7 ± 1,9 37,8 ± 2,7 6,5 ± 2,1 2,4 ± 1,8 0,1 ± 0,3 49,5 ± 1,8
Đại tràng 1,5 ± 0,5 42,0 ± 1,9 6,2 ± 2,3 3,1 ± 2,7 0,1 ± 0,2 52,9 ± 1,2
Trực tràng 0,2 ± 2,6 14,4 ± 0,9 3,6 ± 1,9 0,9 ± 3,1 0,1 ± 0,3 19,2 ± 1,6
19
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
Để nhìn nhận rõ hơn nữa về sự ảnh hưởng giữa
hai chế độ ăn khác nhau đến hàm lượng SCFA ở mỗi
nhóm chuột, cũng như sự thay đổi tổng hàm lượng
các SCFA trong các phân đoạn đường ruột chuột, các
số liệu về tổng hàm lượng SCFA ở mỗi phân đoạn
tiêu hóa của chuột trên các lô thí nghiệm được biểu
diễn trong biểu đồ ở Hình 3.
Hình 3. Đồ thị biểu diễn tổng hàm lượng SCFA trên
các phân đoạn ruột của hai lô chuột sau 21 ngày
cho ăn các loại tinh bột TN và AC
Từ đồ thị cho thấy đã có sự biến thiên hàm lượng
các SCFA trên cả hai lô chuột ăn TBTN và TBAC rất lớn
trong các phân đoạn ruột tiêu hóa. Ban đầu, hàm
lượng các SCFA được xác định ở phân đoạn ruột
non hầu như không đáng kể. Nhưng đến phân đoạn
manh tràng và đại tràng, hàm lượng các SCFA đã có
sự gia tăng rất lớn. Tuy nhiên sau đó đến trực tràng,
hàm lượng SCFA lại có sự giảm đáng kể (p < 0,05) so
với ở các phân đoạn trước. Điều đó cho thấy rằng
các SCFA không phải sẵn có trong nguồn thức ăn,
cũng như không được tạo ra tại ruột non mà được
tạo ra từ sự chuyển hóa của tinh bột tại manh tràng
và đại tràng dưới sự lên men của vi khuẩn yếm khí.
Đồng thời, đã có sự tái hấp thu của các SCFA này
ngay trong phần đại tràng xa và trực tràng, thể hiện
rõ bởi sự suy giảm hàm lượng các SCFA trong trực
tràng. Kết quả nghiên cứu này có giá trị chứng minh
rõ nhận định ban đầu là SCFA, sản phẩm được tạo ra
từ sự lên men yếm khí của tinh bột trong manh tràng
và đại tràng, được tái hấp thu ở trực tràng nhằm
cung cấp một phần năng lượng đáng kể cho sự hoạt
động đường ruột và các nguồn vi khuẩn đường ruột
cũng như cho các hoạt động của cơ thể sống. Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của Govers và cộng
sự (1999) khi thử nghiệm trên lợn với các khẩu phần
ăn chứa RS
2,
nồng độ các SCFAs ở manh tràng và đại
tràng gần được tạo ra cao hơn đáng kể so với nồng
độ SCFAs ở hồi tràng, sau đó nồng độ SCFAs giảm
đáng kể ở đại tràng xa [7]. Ngoài ra, nghiên cứu của
Le Leu và cộng sự (2006) cũng tiến hành trên chuột
cống thí nghiệm khi so sánh giữa các khẩu phần
ăn chứa tinh bột ngô hàm lượng amylose cao với
các tỷ lệ khác nhau cũng cho kết quả tương tự rằng
SCFA được tạo nhiều nhất từ manh tràng và giảm
dần trong các phân đoạn đường tiêu hóa sau đó [8].
Đồng thời, sự biến thiên của hàm lượng mỗi SCFA ở
mỗi phân đoạn tiêu hóa chuột của các lô thí nghiệm
được biểu diễn trong biểu đồ ở Hình 4.
Hình 4. Hàm lượng SCFA trong các phân đoạn
đường ruột ở chuột ăn TBTN (a) và TBAC (b)
Từ kết quả đã cho thấy rằng acid acetic, acid
propionic, acid butyric vẫn chiếm tỉ lệ lớn so với tổng
SCFA được tạo ra ở manh tràng (chiếm khoảng 90-
95%) mặc dù ở hai khẩu phần ăn hoàn toàn khác
nhau trong đó acid acetic chiếm tỷ lệ lớn nhất (76
- 77%), tiếp theo là acid propionic (13%) và acid
butyric (5 - 6%). Nguyên nhân là do mặc dù các vi
sinh vật tồn tại ở trong suốt đường tiêu hóa của
chuột thí nghiệm rất đa dạng nhưng trong số đó
ngành Bacteroidetes - chịu trách nhiệm lên men
tạo ra nhiều acid acetic và acid propionic và ngành
Firmicutes - lên men tạo ra acid butyric là chiếm chủ
yếu trong quần thể vi sinh vật đó [12].
Đồng thời, cũng từ sự biến thiên hàm lượng
SCFA trên các lô chuột thử nghiệm ở Hình 3 và Hình
4 cho thấy tổng hàm lượng SCFA ở nhóm chuột cho
ăn TBAC đều cao hơn trên nhóm chuột cho ăn TBTN
tương ứng ở mỗi phân đoạn tiêu hóa trong ruột
già. Nguyên nhân là do mỗi chế độ ăn khác nhau
sẽ trực tiếp ảnh hưởng sự đa dạng của quần thể
vi sinh vật trong ruột già của chuột thí nghiệm và
20
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
dẫn đến lượng acid béo chuỗi ngắn được tạo ra ở
manh tràng là khác nhau. Thêm vào đó, tinh bột mì
acetat có chứa hàm lượng tinh bột đề kháng RS là
34,5% cao hơn rất nhiều so với tinh bột tự nhiên
nên lượng carbohydrate đề kháng sự tiêu hóa của
enzym amylase cũng cao hơn nhiều, do đó lượng
carbohydrate ở manh tràng làm “thức ăn” cho hệ
vi sinh vật yếm khí nhiều hơn. Điều đó càng khẳng
định rằng khẩu phần ăn chứa TBAC có khả năng tạo
ra nhiều SCFA hơn khẩu phần ăn chứa TBTN. Kết quả
nghiên cứu của Le Thanh (2014) được tiến hành trên
chuột cống thí nghiệm cũng cho kết quả tương tự
về hàm lượng SCFA ở manh tràng của khẩu phần
ăn chứa tinh bột acetat được biến tính từ khoai lớn
hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng cho ăn tinh bột
khoai tự nhiên. Bên cạnh đó, tỷ lệ giữa các acid béo
chuỗi ngắn tạo ra ở manh tràng cũng tương tự so
với kết quả của nhóm nghiên cứu acid acetic, acid
propionic, acid butyric tương ứng 73:13:13 trên
nhóm chứng và 74:19:7 trên nhóm cho ăn RS
4
[9].
Để minh họa rõ hơn sự chênh lệch khác biệt
giữa tỷ lệ mỗi SCFA giữa lô chuột cho ăn TBAC so
với lô ăn TBTN, sự biến thiên hàm lượng mỗi SCFA
ở phân đoạn manh tràng được biểu diễn trong biểu
đồ Hình 5.
Hình 5. Đồ thị biểu diễn hàm lượng các SCFA ở
manh tràng của hai lô chuột cho ăn các loại tinh bột
TN và AC
Kết quả cho thấy, nhóm chuột cho ăn TBAC có
hàm lượng tổng SCFA cao hơn so với nhóm ăn TBTN,
đặc biệt rõ nhất là acid acetic cao hơn 28%, acid
propionic cao hơn 26% (p < 0,05). Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của Tatsuya Morita và cộng sự
(2005) khi thử nghiệm trên chuột cống thí nghiệm
đã cho thấy rằng khẩu phần chứa tinh bột mì acetat
cho hàm lượng SCFA ở manh tràng cao hơn nhiều so
với nhóm chuột ăn tinh bột ngô. Bên cạnh đó nghiên
cứu còn chỉ ra rằng hàm lượng SCFA được lên men
bởi các vi khuẩn yếm khí sẽ tăng tỉ lệ với phần trăm
tinh bột acetat trong khẩu phần ăn (từ 10 - 30%),
đặc biệt ở khẩu phần chiếm 30% RS
4
tạo ra lượng
SCFA hơn rất nhiều so với khẩu phần ăn chứa tinh
bột ngô có hàm lượng amylose cao RS
2
[10].
Theo các nghiên cứu trên thế giới, sự khác nhau
về hàm lượng acid béo chuỗi ngắn tạo ra giữa các
khẩu phần ăn khác nhau đều liên quan mật thiết
đến một số tác dụng của tinh bột đề kháng trên in-
vivo cũng như trên lâm sàng. Cụ thể là một phần
lớn acid acetic sau khi lên men tại manh tràng ruột
nhanh chóng được hấp thu vào tuần hoàn chung và
được phân bố đến các tổ chức trung ương như não
bộ và ngoại vi như mô mỡ và cơ. Frost G. và cộng sự
(2014) đã chứng minh được rằng acid acetic dễ dàng
đi qua hàng rào máu não gây ra cảm giác no và chán
ăn, làm hạn chế lượng thức ăn cơ thể tiêu thụ trong
ngày [5]. Không những vậy, ở các tổ chức ngoại vi,
acid acetic còn tác dụng ức chế sự phân hủy lipid ở
tế bào mỡ dẫn đến giảm lượng acid béo tự do (FFA)
giải phóng ra huyết tương [6].
Khác với acid acetic, phần lớn acid propionic
được lên men tại manh tràng ruột nhanh chóng
được hấp thu theo tĩnh mạch cửa lên gan. Tại đây,
propionate là một tiền chất quan trọng để thực
hiện quá trình tích lũy đường đồng thời nó làm
giảm tích trữ các chất béo ở gan nên góp phần cải
thiện sự nhạy cảm của insulin trên chuột béo phì bị
ĐTĐ [14].
Không những vậy, các acid béo chuỗi ngắn này
khi được tái hấp thu sẽ tham gia vào sự chuyển hóa
các acid béo trong cơ thể, giúp kiểm soát cân nặng
tốt hơn trên chuột thí nghiệm béo phì. Nguyên nhân
là do các SCFA này là một trong những nguồn cung
cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể nhưng phần
năng lượng này quá ít so với phần năng lượng tinh
bột thông thường cung cấp, buộc cơ thể phải tăng
cường các quá trình oxy hóa đốt cháy các acid béo
được tích trữ ở gan, ở mô cơ và các tế bào mỡ nâu.
Ngoài ra, tại các tổ chức mỡ trắng, các acid béo
chuỗi ngắn này ức chế quá trình thủy phân chất béo
làm giảm nồng độ các acid béo tự do (FFA) được giải
phóng vào trong huyết tương, đồng nghĩa với việc
các acid béo tự do này không đến được các cơ quan
khác để tích trữ mỡ [4].
Nghiên cứu của Xu Si và cộng sự (2016) khi tiến
hành cho chuột béo phì ăn khẩu phần chứa tinh
bột đề kháng RS
4
acetat liên tục trong 6 tháng thử
nghiệm cũng cho thấy sự giảm đáng kể các chỉ số
Tryglycerid, LDL-cholesterol, choleserol toàn phần
và tăng HDL-cholesterol [15]. Thông thường, ở
những người béo phì, sự tăng vọt các acid béo tự do
(FFA) trong huyết tương là yếu tố nền tảng gây ra sự
đề kháng insulin dẫn đến thực trạng ĐTĐ [3]. Nồng
độ các FFA cao trong máu gây cản trở rất lớn đến
sự tiếp nhận insulin ở ngoại vi và điều chỉnh mức
đường huyết trong cơ thể.
Do đó, thông qua việc điều hòa nồng độ FFA, các
21
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
acid béo chuỗi ngắn còn có tác dụng làm tăng sự
nhạy cảm insulin trên những bệnh nhân ĐTĐ týp 2
thường đi kèm với bệnh béo phì.
Ngoài ra, các acid béo chuỗi ngắn còn có tác
dụng tăng khả năng hấp thu glucose vào trong các tế
bào mô cơ và tế bào mô mỡ, đây cũng là một yếu tố
làm giảm sự đề kháng insulin. Kết quả này đã được
chứng minh trong nghiên cứu Robertson (2005) với
một chế độ ăn giàu tinh bột đề kháng Hi Maize 260
cho hàm lượng SCFA (chủ yếu là acid propionic và
acid acetic) cao hơn đáng kể so với nhóm placebo
dẫn đến hàm lượng SCFA đến các mô cơ và mô mỡ
nhiều hơn và lượng glucose được hấp thu ở nhóm tế
bào này cao hơn đáng kể [11].
Như vậy, quá trình chuyển hóa của tinh bột mì
acetat dù là tinh bột đề kháng với enzym amylase
nhưng khác hoàn toàn với cellulose tồn tại trong
khẩu phần ăn hằng ngày của chúng ta. Sự khác biệt
là do trong khi phần RS của tinh bột mì acetat vẫn
có thể được chuyển hóa trong đường tiêu hóa còn
cellulose là loại chất xơ không được hòa tan trong
ruột non cũng không được các vi sinh vật lên men
tại ruột già trên cơ thể người nên nó được đào thải
nguyên vẹn ra bên ngoài. Các kết quả thu được cho
thấy sự phù hợp vào nhận định ban đầu của nhóm
khi tiến hành nghiên cứu tinh bột mì acetat trong
in-vitro về tính ưu việt của loại RS này trong hỗ trợ
điều trị bệnh ĐTĐ.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Như vậy, tinh bột đề kháng acetat của nhóm
nghiên cứu có tác dụng hạn chế sự tăng đường
huyết trên chuột thí nghiệm thông qua đề kháng sự
thủy phân của amylase tại ruột non. Không những
vậy, phần RS không bị tiêu hóa khi đi qua ruột non
sẽ được lên men tạo thành các acid béo chuỗi ngắn
cung cấp một phần năng lượng cho chuột thí nghiệm,
tránh đi tình trạng bị lên men thối trong cơ thể do
không được chuyển hóa và có thể gây tình trạng rối
loạn đường tiêu hóa, đây là một trong những nhược
điểm làm hạn chế tính ứng dụng trong công nghệ
chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, những acid béo
chuỗi ngắn này được chứng minh đóp góp vai trò
rất lớn trong việc điều chỉnh cân nặng trên người
béo phì - đây là một trong những yếu tố quan trọng
làm tăng sự nhạy cảm insulin trên những người bị
rối loạn chuyển hóa như ĐTĐ. Điều này chứng minh
tính đúng đắn trong nhận định ban đầu của nhóm
nghiên cứu về những tác dụng có lợi của tinh bột đề
kháng này trên nhóm người bị bệnh ĐTĐ.
Từ những kết quả nghiên cứu này, cho phép
nhóm nghiên cứu đề xuất tiếp tục tiến hành các thử
nghiệm sâu hơn trên in-vivo trên mô hình chuột thí
nghiệm béo phì bị ĐTĐ và trên thử nghiệm lâm sàng
(clinical trial) nhằm đưa tinh bột mì acetat vào ứng
dụng làm thực phẩm chức năng hỗ trợ trong quá
trình điều trị ĐTĐ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Mai Khánh, Nguyễn Hữu Tiến (2019),
Xác định các acid béo chuỗi ngắn được chuyển hóa từ tinh
bột đề kháng trong phân chuột bằng phương pháp HPLC,
Tạp chí Y Dược học, tập 9, số 1, tr. 65-72.
2. Trần Thị Ngọc Uyên, Nguyễn Khắc Nam, Trần Hữu
Dũng (2016), Xác định các đặc tính lý hóa và các phân
đoạn dinh dưỡng của tinh bột mì acetate dùng trong hỗ
trợ điều trị bệnh đái tháo đường, Tạp chí Y Dược học, số
đặc biệt, Hội nghị nghiên cứu khoa học sinh viên lần thứ
3/2016, tr. 61-68.
3. Al-Goblan AS, Al-Alfi MA, Khan MZ (2014),
Mechanism linking diabetes mellitus and obesity.
Diabetes, Metab Syndr Obes, 7, pp. 587-591.
4. Den Besten G., Karen van Eunen , Albert K.
Groen, (2013), The role of short-chain fatty acids in the
interplay between diet, gut microbiota, and host energy
metabolism, Journal of Lipid Research, 54(9), pp. 2325–
2340.
5. Frost, G., Sleeth, M.L., Sahuri-Arisoylu, M., Lizarbe,
B., Cerdan, S., Brody, L., Anastasovska, J., Ghourab, S.,
Hankir, M., Zhang, S., (2014), The short chain fatty acid
acetate reduces appetite via a central homeostatic
mechanism, Nature Communications, 5:3611.
6. Ge , H. , X. Li , J. Weiszmann (2008), Activation of
G protein-coupled receptor 43 in adipocytes leads to
inhibition of lipolysis and suppression of plasma free fatty
acids, Endocrinology, 149, pp. 4519 – 4526.
7. Govers MJAP, Gannon NJ, Dunshea FR (1999),
Wheat bran affects the site of fermentation of resistant
starch and luminal indexes related to colon cancer risk: a
study in pigs, Gut, 45, pp. 840–847.
8. Le Leu RK, Brown IL, Hu Y (2007), Effect of dietary
resistant starch and protein on colonic fermentation and
intestinal tumourigenesis in rats, Carcinogenesis, Vol. 28,
No.2, pp. 240-245.
9. Le Thanh-Blicharz, Anioła J, Kowalczewski P (2014),
Type IV resistant starch increases cecum short chain fatty
acids level in rats, Acta Biochim Pol, 61, pp. 109–114 .
10. Morita T, Kasaoka S, Kiriyama S., (2005), Comparative
effects of acetylated and unmodified high-amylose maize
starch in rats, Starch-Starke57, pp. 246-253.
11. Robertson, M. D., Bickerton (2005). Insulin-
22
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
sensitizing effects of dietary resistant starch and effects
on skeletal muscle and adipose tissue metabolism. Am. J.
Clin. Nutr, 82, pp. 559–567.
12. Ruth E. Ley, Fredrik Ba¨ ckhed, Peter Turnbaugh
(2005), Obesity alters gut microbial ecology, Pnas, Vol.102,
No.31, pp. 11070-11075.
13. Shimotoyodome A, Suzuki J, Fukuoka D (2009),
RS4-type resistant starch prevents high-fat diet-induced
obesity via increased hepatic fatty acid oxidation and
decreased postprandial GIP in C57BL/6J mice, Am J Physiol
Endocrinol Metab, 298, pp. E652–E662.
14. Weitkunat K, Schumann S, Nickel D (2016),
Importance of propionate for the repression of hepatic
lipogenesis and improvement of insulin sensitivity in high-
fat diet-induced obesity, Mol Nutr Food Res, 60(12), pp.
2611-2621.
15. Xu Si (2017), A comparison of RS4-type resistant
starch to RS2-type resistant starch in suppressing
oxidative stress in high-fat-diet-induced obese rats, Food
& Function, 8(1), pp. 232-240.
16. https://resistantstarchresearch.com/posts/fda-
announces-health-claim-for-resistant-starch/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xac_dinh_kha_nang_han_che_tang_duong_huyet_sau_an_va_chuyen.pdf