Xác định lỗi của pháp nhân trong vi phạm pháp luật
Trong các trường hợp pháp nhân là
người có lỗi thì người đại diện cho pháp
nhân sẽ thay mặt pháp nhân nhận trách
nhiệm của người “có trạng thái tâm lý của
chủ thể đối với hành vi và hậu quả của
hành vi”.
Vấn đề nữa cần phân biệt là lỗi của
pháp nhân là lỗi cố ý hay vô ý. Việc phân
biệt này có ý nghĩa rất lớn đối với khả năng
phải chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi
vi phạm gây ra vì nó được coi là “thước đo
trách nhiệm pháp lý”. Như đã phân tích ở
trên, lỗi được xem xét một cách “kéo dài”
nên lỗi được phân biệt chủ yếu dựa vào thái
độ của các chủ thể khi uỷ quyền và khi được
uỷ quyền. Đối với pháp nhân thương mại,
mục đích thành lập và hoạt động đương
nhiên được xác định là lợi nhuận. Do vậy,
việc ủy quyền trong các hoạt động phải xác
định được mục đích của sự ủy quyền cụ thể
là gì, có phù hợp với các quy định của pháp
luật hay không. Đó là căn cứ để xác định lỗi
cố ý hay vô ý. Đối với pháp nhân, không cần
phải xác định cụ thể lỗi cố ý trực tiếp hay
gián tiếp, vô ý do quá tự tin hay do cẩu thả
như đối với cá nhân.
Cũng cần phải chú ý là việc xử lý
VPPL, nhất là tội phạm đối với các pháp
nhân thương mại có liên quan trực tiếp đến
lợi ích của người lao động. Hiện chưa có cơ
chế để bảo vệ người lao động trong các
doanh nghiệp là pháp nhân thương mại khi
bị buộc chấm dứt hoạt động, nhất là trong
trường hợp doanh nghiệp chưa đóng bảo
hiểm cho người lao động như đã xảy ra
trong thời gian gần đây. Vì vậy, ngay cả khi
xử lý trách nhiệm hình sự với pháp nhân thì
vẫn cần cá biệt hóa trách nhiệm hình sự đối
với một số chủ thể có liên quan nếu có đủ
dấu hiệu và thỏa mãn cấu thành tội phạm
độc lập, trong đó có những cá nhân đã thành
lập ra các pháp nhân dưới dạng công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên khi các pháp
nhân này phạm tội để có thể khắc phục triệt
để những hậu quả của vi phạm do pháp nhân
gây ra
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định lỗi của pháp nhân trong vi phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong hầu hết các công trình nghiên
cứu, các văn bản pháp luật hay trong giáo
trình giảng dạy luật ở bậc đại học lỗi đều
được xác định là thái độ hoặc trạng thái tâm
lý tiêu cực của chủ thể đối với hành vi và
hậu quả của nó. Có thể thấy hàng loạt các ví
dụ về khái niệm này. Chẳng hạn: “Lỗi phản
ánh thái độ tâm lý bên trong của chủ thể đối
với hành vi trái pháp luật và hậu quả của
hành vi đó”1 hay “Lỗi là trạng thái tâm lý
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
XAÁC ÀÕNH LÖÎI CUÃA PHAÁP NHÊN TRONG VI PHAÅM PHAÁP LUÊÅT
Bùi Xuân Phái*
* TS.GV Trường Đại học Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: xác định lỗi của
pháp nhân, vi phạm pháp luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 01/05/2017
Biên tập: 12/05/2017
Duyệt bài: 19/05/2017
Article Infomation:
Keywords:
Determination of faults by the
legal entity, violation of the
law
Article History:
Received: 01 May. 2017
Edited: 12 May. 2017
Approved: 19 May. 2017
Tóm tắt:
Việc xác định lỗi của chủ thể trong vi phạm pháp luật (VPPL) là một yêu
cầu bắt buộc trong mọi trường hợp vì không có lỗi thì không có vi phạm.
Tuy nhiên, việc xác định lỗi từ trước đến nay mới chủ yếu là xác định ở chủ
thể vi phạm là cá nhân, việc xác định lỗi của chủ thể là pháp nhân chưa thực
sự được quan tâm. Về mặt lý luận, cơ sở của việc xác định lỗi của pháp nhân
chưa được giải quyết thấu đáo. Thời gian gần đây, vấn đề tội phạm hóa đối
với pháp nhân thương mại đã được đặt ra trong Bộ luật Hình sự (BLHS)
năm 2015 (đang sửa đổi, hoàn thiện). Bài viết cung cấp thêm một số vấn đề
lý luận xung quanh việc xác định lỗi của pháp nhân trong VPPL nói chung
và đặc biệt là trong các tội phạm được đề cập trong BLHS.
Abstract:
Determination of the fault of the subject in violation of the law is a
mandatory requirement in all cases because no fault means no violation.
However, the determination of faults by the subject of individuals is so far
mainly focused, and the determination of faults by the subject of legal entities
is not really interested. Theoretically, the ground for determination of faults
by legal entities has not been thoroughly addressed. Recently, the crime
matters by commercial entities have been set out in the Penal Code of 2015
(being amended and finalized). This article provides some additional
theoretical issues related to determination of the faults of the legal entity
under violation of the law in general and especially in the crimes mentioned
in the Penal Code.
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, (2016), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội,
tr. 426.
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
của cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi
phạm”2 hoặc “Lỗi là trạng thái tâm lý của
người thực hiện hành vi trái pháp luật gây
nguy hiểm cho xã hội”3; cũng có khi trực
tiếp đồng nhất lỗi trong tội phạm với lỗi nói
chung là: “thái độ tâm lý của người phạm
tội với hành vi phạm tội mà người đó thực
hiện và đối với hậu quả của hành vi đó”4.
Nói chung, theo những cách hiểu trên
đây, lỗi được hiểu là hoạt động tâm lý bên
trong của các chủ thể VPPL. Nó thuộc mặt
chủ quan của VPPL5. Đây là một khái niệm
phức tạp. Thứ nhất, lỗi là hoạt động tâm lý
bên trong của chủ thể và vì vậy nó không thể
cân, đong, đo, đếm được, do đó nó là một
khái niệm rất trừu tượng và khó khái quát.
Thứ hai, các khái niệm trên hầu như mới nói
tới lỗi với tư cách là hoạt động tâm lý của
cá nhân (hoặc con người cụ thể) chứ chưa
nói tới loại chủ thể là tổ chức, trong đó có
pháp nhân. Thực ra, nếu nói lỗi là hoạt động
tâm lý bên trong của con người thì liệu có
thể nói pháp nhân có lỗi được hay không?
Hoạt động của pháp nhân là loại hoạt động
phức tạp do sự phối hợp của nhiều người,
trong khi đó, mỗi cá nhân là một thực thể
độc lập, có nhân cách, suy nghĩ, tình cảm và
nhu cầu khác nhau. Ngay cả trong một công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì
cũng phải có cơ cấu tổ chức để hoạt động vì
một thành viên ở đây chỉ được xác định là
thành viên sáng lập. Trên thực tế, sự quyết
định của pháp nhân là quyết định của tập
thể, trong đó mỗi cá nhân có một phần trách
nhiệm gắn với những lợi ích mà họ có thể
có được do những quyết định ấy. Họ là
những người thực hiện các hoạt động của
pháp nhân sau khi đã tham gia vào pháp
nhân và đã thực hiện sự ủy quyền (thuê, giao
công việc). Trong trường hợp những
quyết định của pháp nhân được ban hành bởi
những người đại diện cho pháp nhân vượt
thẩm quyền mà pháp nhân đã uỷ quyền thì
cá nhân này sẽ phải là người chịu trách
nhiệm về phần vượt quá đó. Thực chất năng
lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể là pháp
nhân được xác định là khả năng gánh chịu
hậu quả pháp lý từ hoạt động của pháp nhân.
Nhưng điều đó không có nghĩa là trách
nhiệm được chia đều cho các chủ thể tham
gia vào pháp nhân. Chính vì vậy, cần có sự
phân hoá trách nhiệm cho cá nhân khi tham
gia hoạt động của pháp nhân. Tất nhiên, phải
có cơ chế cho việc phân hoá này. Ví dụ trong
trường hợp bồi thường thiệt hại do một
thành viên hoặc nhóm thành viên trong pháp
nhân gây ra khi hoạt động nhân danh pháp
nhân, người ta không thể đòi bồi thường đối
với từng cá nhân, mà tổ chức phải đứng ra
chịu trách nhiệm bồi thường thay, sau đó
pháp nhân có quyền yêu cầu các cá nhân
phải bồi hoàn ngược lại cho mình. Mặt khác,
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, (2012), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 320.
3 Chủ biên PGS,TS Trần Ngọc Đường, (1998), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.373.
4 Nguyễn Duy Lãm, (1996), Sổ tay Thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 212.
5 Trường Đại học Luật Hà Nội, (2016), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.
426-427.
các pháp nhân do con người thành lập ra
nhưng bản thân pháp nhân cũng là một chủ
thể có tư cách riêng, độc lập với những
người đã thành lập ra nó. Từ những lý do
trên mà chúng ta buộc phải xem lại hoặc là
khái niệm lỗi hoặc là phải xác định tư cách
của chủ thể là cá nhân hay pháp nhân trong
VPPL, nếu không thì không thể có khái
niệm VPPL nói chung cho cả cá nhân và cho
cả tổ chức (là pháp nhân). Mâu thuẫn này đã
xảy ra trong thực tế. Nếu như luật hình sự
khẳng định tội phạm chỉ có thể là các cá
nhân thì vấn đề sẽ trở nên đơn giản6, nhưng
không phải chỉ có pháp luật hình sự điều
chỉnh các quan hệ xã hội mà có rất nhiều
ngành luật tham gia điều chỉnh và vì vậy,
cũng không chỉ có khái niệm tội phạm mà
còn có nhiều khái niệm VPPL khác tùy theo
sự quy định của từng ngành luật hoặc tùy
từng quan niệm. Chẳng hạn, có quan điểm
khẳng định rằng: “ lỗi chỉ là trạng thái tâm
lý của cá nhân trong khi thực hiện hành vi
vi phạm nên không đặt ra vấn đề lỗi với tổ
chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi
phạm hành chính đối với tổ chức, chỉ cần
xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp luật
hành chính và hành vi đó theo quy định của
pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp xử
phạt vi phạm hành chính là đủ”7.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là lỗi có
phải luôn luôn là dấu hiệu bắt buộc trong
tất cả các VPPL hay không, hoặc là phải
xem xét lại khái niệm lỗi? Như ta đã xem xét
ở trên, lỗi là trạng thái (hay thái độ) tâm lý
của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của
hành vi. Trong khi đó, hoạt động của một
pháp nhân nhất định phải có sự kết hợp của
nhiều người, mỗi người lại có hoạt động
tâm lý riêng, có cách đánh giá khác nhau về
tính hợp pháp của hành vi, về hậu quả của
hành vi đó. Nói cách khác, mỗi cá nhân sẽ
có một trạng thái tâm lý độc lập. Nếu muốn
xác định lỗi cho chủ thể là pháp nhân thì
phải xem lỗi của từng cá nhân ở trong pháp
nhân và thực tế thì không có lỗi chung của
pháp nhân được. Đây là cơ sở quan trọng để
xác định trách nhiệm cuối cùng cho chủ thể
vi phạm.
Chính vì mỗi con người là một thực
thể độc lập trong một tập thể nhưng lại được
phân công trách nhiệm cụ thể với chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền theo sự phân công
hay uỷ quyền của tập thể, của pháp nhân, do
vậy, những người hoạt động nhân danh pháp
nhân và vì lợi ích của pháp nhân có lỗi thì
đương nhiên lỗi đó sẽ bị coi là lỗi của pháp
nhân và chính pháp nhân phải chịu trách
nhiệm về lỗi đó. Sự liên quan của các cá
nhân trong pháp nhân chính là do sự uỷ
quyền này. Thực ra, lỗi của pháp nhân ở đây
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Hiện nay, BLHS số100/2015/QH13 ngày 27/11/ 2015 đã quy định tội phạm hình sự đối với pháp nhân thương
mại. Tuy nhiên, Bộ luật này đang trong quá trình chỉnh sửa, nên việc áp dụng sẽ được thực hiện theo Nghị quyết
số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực của BLHS năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ
chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 và bổ sung
dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2016.
7 Trường Đại học Luật Hà Nội, (2012), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 320.
được xét một cách “kéo dài” từ thời điểm
mà pháp nhân phân công hay uỷ quyền cho
các cá nhân chịu trách nhiệm8. Tại thời điểm
các cá nhân nhận được trách nhiệm thì chính
cá nhân đã được tự do ý chí, họ có quyền
nhận hay không nhận trách nhiệm đó. Theo
sự uỷ quyền thì cá nhân, người nhận được
sự uỷ quyền gần như đương nhiên phải có
một lợi ích gì ở đó. Mặt khác, nếu cá nhân,
người được uỷ quyền có hành vi thực hiện
một cách trái pháp luật nhưng trong phạm
vi được uỷ quyền thì hành vi của cá nhân đó
chính là hành vi của pháp nhân. Trong
trường hợp đó, pháp nhân đã có sự lựa chọn,
được “tự do ý chí” và có khả năng “kiểm
soát” hành vi của người mà mình đã uỷ
quyền tại thời điểm uỷ quyền. Nếu xác định
như vậy thì rất có thể xảy ra truờng hợp bán
hoặc cho thuê tư cách pháp nhân như đã
từng xảy ra ở hàng loạt doanh nghiệp ở
thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong
thời gian gần đây. Đó là, sau khi Luật Doanh
nghiệp năm 2014 có hiệu lực, nhiều doanh
nghiệp đã ra đời mà không hoạt động hoặc
tham gia vào các hoạt động mua đi bán lại
hoá đơn hàng hoá để kiếm lợi bất chính.
Việc cho thuê doanh nghiệp gắn liền với
những lợi ích của chính người cho thuê và
người cho thuê phải chịu trách nhiệm về
việc cho thuê doanh nghiệp của chính mình
cũng như cả sự vi phạm của người đi thuê.
Việc xác định như vậy sẽ có ý nghĩa rất lớn
trong quản lý và đặc biệt là chế độ hậu kiểm
trong quản lý kinh tế ở các pháp nhân
thương mại. Chính vì vậy, tính có lỗi của tổ
chức ở đây được xác định do tổ chức hoàn
toàn có thể biết trước và điều khiển hành vi
cũng như hậu quả của hành vi do người mà
mình đã trao trách nhiệm thực hiện.
Việc xác định lỗi ở đây đã không còn
trực tiếp là việc xác định lỗi trong trường
hợp cụ thể xảy ra khi diễn ra hoạt động trái
pháp luật của cá nhân nữa và không chỉ còn
là trạng thái tâm lý nữa. Trong trường hợp
này, quan điểm cho rằng trong VPPL của
pháp nhân thì không cần xác định lỗi (chứ
không phải là không có lỗi) được coi là hợp
lý, vì rằng trong những trường hợp đó, pháp
nhân đương nhiên bị coi là có lỗi.
Bên cạnh đó, hành vi vi phạm được
thấy trong pháp nhân có thể tồn tại dưới một
dạng khác. Đó là trường hợp cá nhân người
được pháp nhân uỷ quyền đã nhân danh
pháp nhân thực hiện hành vi VPPL nhưng
hành vi đó lại nằm ngoài hoặc vượt quá
phạm vi được uỷ quyền bởi pháp nhân.
Trong trường hợp này, pháp nhân đã không
xác định trước được hành vi có thể xảy ra ở
người được uỷ quyền lúc tiến hành uỷ quyền
cho người đó. Khi đó, phải xác định hai
trường hợp:
- Pháp nhân có biết và có thể kiểm
soát được hành vi của cá nhân người được
uỷ quyền;
- Pháp nhân không biết và cũng không
thể kiểm soát được hành vi của người được
uỷ quyền.
20
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Xem thêm Bùi Xuân Phái (2002), VPPL - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 20.
Trong trường hợp thứ nhất, pháp nhân
vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm cùng với
cá nhân vi phạm, vì nếu không có danh
nghĩa của pháp nhân thì cá nhân đó không
thể thực hiện được hành vi vi phạm. Trong
điều kiện đó, pháp nhân có thể chấm dứt sự
uỷ quyền hoặc ngăn chặn người đã lợi dụng
danh nghĩa của mình để thực hiện hành vi vi
phạm. Khi đó, pháp nhân vẫn có sự tự do ý
chí và được lựa chọn một trong hai cách xử
sự đã nêu trên. Nói cách khác, pháp nhân
vẫn bị xác định là chủ thể có lỗi trong trường
hợp này. Tính có lỗi của pháp nhân ở đây
được xác định do pháp nhân hoàn toàn có
thể biết trước và điều khiển hành vi cũng
như hậu quả của hành vi do người mà mình
đã trao trách nhiệm thực hiện.
Trong trường hợp thứ hai, người được
uỷ quyền thực hiện hành vi ngoài phạm vi
uỷ quyền mà pháp nhân không thể biết và
cũng không thể kiểm soát, thì có thể khẳng
định pháp nhân không có lỗi. Căn cứ để kết
luận như vậy là dựa vào khả năng được tự
do ý chí của pháp nhân trong trường hợp này
đã không còn ý nghĩa, người thực hiện hành
vi đã nằm ngoài sự kiểm soát của pháp nhân.
Khi đó, cá nhân người thực hiện hành vi
chính là chủ thể có lỗi, là người phải chịu
trách nhiệm về hoạt động của chính mình.
Trong các trường hợp pháp nhân là
người có lỗi thì người đại diện cho pháp
nhân sẽ thay mặt pháp nhân nhận trách
nhiệm của người “có trạng thái tâm lý của
chủ thể đối với hành vi và hậu quả của
hành vi”.
Vấn đề nữa cần phân biệt là lỗi của
pháp nhân là lỗi cố ý hay vô ý. Việc phân
biệt này có ý nghĩa rất lớn đối với khả năng
phải chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi
vi phạm gây ra vì nó được coi là “thước đo
trách nhiệm pháp lý”. Như đã phân tích ở
trên, lỗi được xem xét một cách “kéo dài”
nên lỗi được phân biệt chủ yếu dựa vào thái
độ của các chủ thể khi uỷ quyền và khi được
uỷ quyền. Đối với pháp nhân thương mại,
mục đích thành lập và hoạt động đương
nhiên được xác định là lợi nhuận. Do vậy,
việc ủy quyền trong các hoạt động phải xác
định được mục đích của sự ủy quyền cụ thể
là gì, có phù hợp với các quy định của pháp
luật hay không. Đó là căn cứ để xác định lỗi
cố ý hay vô ý. Đối với pháp nhân, không cần
phải xác định cụ thể lỗi cố ý trực tiếp hay
gián tiếp, vô ý do quá tự tin hay do cẩu thả
như đối với cá nhân.
Cũng cần phải chú ý là việc xử lý
VPPL, nhất là tội phạm đối với các pháp
nhân thương mại có liên quan trực tiếp đến
lợi ích của người lao động. Hiện chưa có cơ
chế để bảo vệ người lao động trong các
doanh nghiệp là pháp nhân thương mại khi
bị buộc chấm dứt hoạt động, nhất là trong
trường hợp doanh nghiệp chưa đóng bảo
hiểm cho người lao động như đã xảy ra
trong thời gian gần đây. Vì vậy, ngay cả khi
xử lý trách nhiệm hình sự với pháp nhân thì
vẫn cần cá biệt hóa trách nhiệm hình sự đối
với một số chủ thể có liên quan nếu có đủ
dấu hiệu và thỏa mãn cấu thành tội phạm
độc lập, trong đó có những cá nhân đã thành
lập ra các pháp nhân dưới dạng công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên khi các pháp
nhân này phạm tội để có thể khắc phục triệt
để những hậu quả của vi phạm do pháp nhân
gây ra n
21
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_loi_cua_phap_nhan_trong_vi_pham_phap_luat.pdf