Study on the correlation between nitrogen content in soil and nitrate accumulation in farming producs have important
implications to determine the amount of nitrogenous fertilizer required and appropriate time for harvest, to minimize the
effects on human health caused by NO3- residues in agricultural products. This study was conducted on eight common
vegetables grown in Hai Boi commune, Dong Anh district of Hanoi for demand of city residents. The research results
indicate that the correlation between soil nitrogen and nitrate in vegetables is high level, which depends on the species
of vegetables and duration after manuring nitrogenous fertilizer. In particular, the correlation coefficient of nitrate
concentration in Brassicaceae Juncea and soil nitrogen is highest in comparison with the studied vegetables. After
fertilizer supply, nitrate content in vegetables increased very sharply, the highest accumulation was recorded from the 5th
to 11th day after fertilization depending different vegetables and decreased gradually after 11th day of manuring.
Therefore, in order to ensure the health of the consumer, it is possible to harvest vegetables from the 15th day after
fertilization. At the same time, a small quantity of nitrogenous fertilizer should be used a long with phosphate and
potassium fertilizers in a balanced way to reduce nitrate content in vegetables under standard permit for safe vegetables
as current regulations
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 545 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định mối tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm lượng nitrat tích lũy trong một số loại rau xanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
418
35(4), 418-423 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
XÁC ĐỊNH MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HÀM LƯỢNG
NITƠ TRONG ĐẤT VỚI HÀM LƯỢNG NITRAT
TÍCH LŨY TRONG MỘT SỐ LOẠI RAU XANH
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
E-mail: lanhuong.vdl@gmail.com
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 15 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Nitơ là một trong những yếu tố dinh dưỡng
quan trọng và rất cần thiết cho quá trình sinh
trưởng và phát triển của các loài cây trồng. Nitơ
tham gia vào cấu thành các chất liệu di truyền và
tất cả các loại protein cũng như các thành phần chủ
yếu khác của tế bào thực vật. Khi không được cung
cấp đủ hàm lượng nitơ cần thiết, quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây trồng sẽ bị hạn chế
hoặc ngưng hoàn toàn. Năng suất cây trồng phụ
thuộc rất lớn vào hàm lượng phân nitơ bón vào đất.
Nhưng khi bón với liều lượng quá nhiều sẽ dẫn đến
sự tích luỹ một dư lượng đáng kể nitrat (NO3-)
trong nông phẩm, đặc biệt là các loài rau xanh có
thời gian canh tác ngắn và là những thực phẩm
chính sử dụng hàng ngày của người dân [2].
Việc giảm hàm lượng NO3- trong rau quả đang
là một vấn đề lớn và quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp trên thế giới. Nông phẩm có dư lượng
NO3- cao thì càng có nhiều nguy cơ gây ngộ độc
cho người tiêu dùng. Khi xâm nhập vào cơ thể
người với liều lượng cao, NO3- sẽ chuyển thành
nitrit (NO2-) dưới tác động của các enzim trong cơ
thể, ngăn cản việc hình thành và trao đổi ôxy của
hemoglobine trong máu, dẫn đến tình trạng thiếu
ôxy của tế bào (ngộ độc nitrat). Ngoài ra, NO2-
trong cơ thể là nguồn tạo ra các nitroza gây ung
thư. NO3- đặc biệt nguy hại với cơ thể trẻ em [1].
Để hạn chế mối nguy hại do NO3- tồn dư trong
nông phẩm gây ra, đặc biệt là trong các sản phẩm
rau quả, người ta đã đưa ra quy định mức tối đa dư
lượng NO3- có trong từng loài rau quả. Việc nghiên
cứu mối tương quan giữa hàm lượng NO3- trong
rau quả với với lượng phân bón vô cơ đưa vào đất
và diễn biến hàm lượng NO3- trong rau quả theo
thời gian là rất cần thiết. Các kết quả nghiên cứu
này sẽ góp phần xác định lượng phân bón cần thiết
và thời gian thu hoạch thích hợp cho một số loài
rau quả để hàm lượng nitrat tích lũy trong sản
phẩm không vượt quá giới hạn cho phép [4].
2. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hàm lượng nitơ trong
đất phù sa sông Hồng không được bồi ở thôn Cổ
Điển, xã Hải Bối, huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội. Đây là vùng chuyên sản xuất rau xanh cung
cấp cho thị trường Hà Nội. Nghiên cứu tập trung
vào 8 loài rau được người dân trồng phổ biến gồm:
rau dền, rau mồng tơi, rau đay, rau muống, rau
ngót, cải canh, cải bẹ mào gà, cải ngọt (bảng 1).
Bảng 1. Các loài rau xanh được nghiên cứu
STT Loài rau xanh Ký hiệu Thời gian lấy mẫu
1 Rau dền RR 20/05/2012
2 Rau mồng tơi MT 20/05/2012
3 Rau đay RĐ 20/05/2012
4 Rau muống RM 20/05/2012
5 Rau ngót RN 20/05/2012
6 Cải canh CC 15/10/2012
7 Cải bẹ mào gà CMG 15/10/2012
8 Cải ngọt CN 15/10/2012
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp bón phân đạm: loại phân bón
được sử dụng cho các thí nghiệm là phân đạm
amôn 36% N. Phân đạm được hòa tan vào nước và
tưới lên các luống trồng rau với tỷ lệ 14kg phân
đạm tưới cho 1.000m2 đất trồng rau.
419
- Phương pháp lấy mẫu ngoài thực địa: các mẫu
đất, rau xanh được lấy vào thời điểm trước khi bón
phân trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 10 năm
2012, tùy thuộc vào từng loài rau. Sau khi bón phân
đạm 03 ngày bắt đầu lấy các mẫu đất và mẫu rau và
cứ cách 02 ngày lấy mẫu lặp lại đến ngày thứ 17 sau
khi bón phân. Các mẫu đất được lấy và bảo quản
theo TCVN 5297-1995. Các mẫu rau xanh được lấy
theo Tiêu chuẩn ngành 10TCN 449-2001.
- Phương pháp phân tích trong phòng thí
nghiệm: hàm lượng NO3- trong các mẫu rau xanh
được phân tích bằng phương pháp trắc quang trên
máy so màu UV-VIS. Hàm lượng nitơ tổng số
trong đất được phân tích bằng phương pháp
Kjeldahl. Các mẫu đất và rau xanh được xử lý và
phân tích tại Phòng Phân tích Thí nghiệm Tổng
hợp Địa lý - Viện Địa lý. Phân tích nhắc lại 3 lần
trên mỗi mẫu đất và mẫu rau, sau đó lấy giá trị
trung bình của 3 lần phân tích.
- Phương pháp so sánh: Kết quả phân tích hàm
lượng nitơ trong đất được so sánh trong Tiêu chuẩn
Việt Nam TCVN 7373:2004 và hàm lượng nitrat
trong các mẫu rau xanh được so sánh với giới hạn
tối đa cho phép quy định tại Quyết định số
99/2008/QĐ-BNN.
3. Kết qủa nghiên cứu
3.1. Hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau
trước khi bón phân đạm
Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng nitơ
tổng số trong đất trồng rau trước khi bón phân ở
khu vực nghiên cứu là khá cao so với giá trị trung
bình về hàm lượng nitơ tổng số trong đất phù sa ở
Việt Nam quy định tại Tiêu chuẩn Việt Nam
7373:2004 (giá trị trung bình của nitơ tổng số là
0,141%) [3]. Khi chưa bón thúc phân đạm cho rau
gần đến kỳ thu hoạch, hàm lượng nitrat trong rau
ghi nhận được là rất thấp, nằm dưới giới hạn cho
phép (500 mg NO3-/kg rau tươi) về rau an toàn của
Bộ NN&PTNN quy định (hình 1).
Hình 1. Hàm lượng nitrat tích lũy trong các loài rau trước khi bón
phân đạm
Hàm lượng NO3- tích lũy có sự biến động giữa
các loài rau và phụ thuộc vào chu kỳ canh tác. Hàm
lượng NO3- tích lũy trong những loài rau có chu kỳ
canh tác dài ngày lớn hơn so với hàm lượng tích
lũy trong các loài rau có chu kỳ canh tác ngắn
ngày. Cụ thể, cải bẹ mào gà có chu kỳ canh tác
khoảng 40 - 45 ngày và hàm lượng NO3- ghi nhận
trong rau thu hoạch lên đến 59,77 mg/kg; rau
muống có chu kỳ canh tác 35 - 40 ngày và hàm
lượng NO3- ghi nhận ở mức 57,43 mg/kg; rau dền
có chu kỳ canh tác 30 - 35 ngày và hàm lượng
NO3- ghi nhận là 38,68 mg/kg; cải ngọt có chu kỳ
canh tác 30 - 35 ngày và hàm lượng NO3- ghi nhận
là 48,60 mg/kg (bảng 2).
Bảng 2. Kết quả phân tích hàm lượng nitơ trong đất và NO3- trong rau xanh
Loài rau Thông số
RR MT RĐ RM RN CC CMG CN
N trong đất (%) 0,168 0,173 0,179 0,165 0,177 0,149 0,155 0,143
NO3- trong rau (mg/kg) 38,68 51,90 49,75 57,43 55,41 50,64 59,77 48,60
Chu kỳ canh tác (ngày) 30-35 30-35 30-35 35-40 35-40 30-35 40-45 30-35
3.2. Hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau
sau khi bón phân đạm
Sau khi bón phân đạm, giá trị nitơ trung bình
trong đất trồng các loài rau có xu hướng giảm dần
theo thời gian. Hàm lượng nitơ trung bình trong đất
ghi nhận được sau ngày thứ 3 bón phân là 0,863%
và đến ngày thứ 5 giảm xuống còn 0,645%; ngày
thứ 7 còn 0,564%; ngày thứ 9 còn 0,427%; ngày
thứ 11 còn 0,379%; ngày thứ 13 còn 0,365%; ngày
thứ 15 còn 0,298 và đến ngày thứ 17 giảm xuống
chỉ còn 0,173%. Điều này có thể giải thích là do sự
hấp thụ chất dinh dưỡng tăng dần theo sự phát triển
sinh khối của cây rau trong quá trình sinh trưởng
và do quá trình tưới nước làm một phần chất dinh
dưỡng bị rửa trôi bề mặt và rửa trôi xuống tầng đất
dưới (bảng 3, hình 2).
0
100
200
300
400
500
600
RR MT RĐ RM RN CC CMG CN
Hàm lượng nitrat trong các loài rau trước khi bón phân đạm
(mg/kg)
TCCP
420
Bảng 3. Kết quả phân tích hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau sau khi bón phân đạm
Loài rau xanh Thời điểm lấy
mẫu sau
bón phân
Chỉ tiêu
RR MT RĐ RM RN CC CMG CN
N (%) 0,863 0,896 0,858 0,978 0,875 0,903 0,935 0,964 3 ngày
NO3-(mg/kg) 461,54 423,21 349,97 482,65 498,49 576,58 532,62 556,81
N(%) 0,645 0,582 0,673 0,634 0,702 0,764 0,636 0,673 5 ngày
NO3-(mg/kg) 578,41 653,52 560,38 536,70 503,65 603,11 621,35 597,08
N(%) 0,564 0,462 0,501 0,516 0,528 0,487 0,491 0,508 7 ngày
NO3-(mg/kg) 593,54 587,97 605,13 597,22 578,56 635,89 637,50 610,23
N(%) 0,427 0,408 0,387 0,402 0,459 0,399 0,402 0,471 9 ngày
NO3-(mg/kg) 603,98 623,54 598,76 613,09 580,43 587,08 599,11 580,73
N(%) 0,379 0,354 0,328 0,297 0,288 0,301 0,382 0,403 11 ngày
NO3-(mg/kg) 530,65 498,56 503,50 570,62 511,26 509,63 510,81 498,06
N(%) 0,365 0,344 0,307 0,280 0,267 0,273 0,299 0,296 13 ngày
NO3-(mg/kg) 498,87 404,56 487,65 499,72 425,43 487,05 498,18 423,47
N(%) 0,298 0,239 0,276 0,212 0,203 0,211 0,199 0,226 15 ngày
NO3-(mg/kg) 354,91 325,43 314,54 297,89 306,87 311,23 324,76 287,19
N(%) 0,173 0,201 0,215 0,174 0,154 0,162 0,146 0,137 17 ngày
NO3-(mg/kg) 297,40 210,43 287,54 169,03 247,18 274,11 248,25 198,31
%N trong đất trồng rau
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
3 ngày 5 ngày 7 ngày 9 ngày 11 ngày 13 ngày 15 ngày 17 ngày
Thời gian sau bón phân
Hình 2. Biến động hàm lượng nitơ trong đất trồng rau
sau thời gian bón phân
Kết quả phân tích cho thấy, sau 3 ngày bón
phân đạm, hàm lượng nitrat trong các mẫu rau
nghiên cứu có xu hướng tăng khá cao, đạt mức cao
nhất từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 11 và sau đó giảm
dần. Các loài rau họ cải hấp thụ đạm nhanh hơn so
với các loài khác và có hàm lượng nitrat vượt giới
hạn cho phép trung bình khoảng 1,1 lần đối với rau
an toàn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
quy định (giới hạn cho phép là 500 mg NO3-/kg rau
tươi). Thời gian này cũng là lúc lá rau chuyển màu
xanh thẫm, cây rau bắt đầu sinh trưởng mạnh hơn.
Đối với rau dền, hàm lượng NO3- tích lũy ở
mức cao từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7 sau khi bón
phân và đạt giá trị lớn nhất ở ngày thứ 9 (623,54
mg/kg), vượt 1,25 lần tiêu chuẩn cho phép đối với
rau an toàn. Từ ngày thứ 11 sau khi bón phân, hàm
lượng NO3- tích lũy trong mẫu rau bắt đầu giảm
dần, đến ngày thứ 15 thì đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm theo quy định (hình 3).
Hình 3. Biến động hàm lượng nitrat trong rau dền
sau khi bón phân
Hàm lượng NO3- ghi nhận được trong rau mồng
tơi tăng cao vượt ngưỡng cho phép từ ngày thứ 5
đến ngày thứ 11 sau khi bón phân, nồng độ NO3-
tích lũy cao nhất ở mức 653,52 mg/kg ở ngày thứ
5. Sau thời gian 13 ngày bón phân đạm, hàm lượng
NO3- trong rau mồng tơi đã giảm xuống dưới
ngưỡng cho phép (hình 4) và có thể thu hoạch để
bán ra thị trường.
421
0
100
200
300
400
500
600
700
3
ngày
5
ngày
7
ngày
9
ngày
11
ngày
13
ngày
15
ngày
17
ngày
Hàm lượng nitrat trong rau mồng
tơi sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 4. Biến động hàm lượng nitrat trong rau mồng tơi
sau khi bón phân
Hàm lượng NO3- tích lũy trong rau đay (hình 5)
cao trong khoảng thời gian 5 - 7 ngày sau khi bón
phân, nồng độ cao nhất là 605,13 mg/kg ở ngày thứ
7. Trong thời gian từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 11
sau khi bón phân đạm, hàm lượng NO3- vượt tiêu
chuẩn cho phép và đến ngày thứ 13 tuy đã giảm
xuống dưới ngưỡng cho phép nhưng vẫn khá cao.
Để an toàn cho người tiêu dùng, nên thu hoạch rau
đay sau 15 ngày bón phân.
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
ng
ày
13
ng
ày
15
ng
ày
17
ng
ày
Hàm lượng nitrat trong rau đay
sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 5. Biến động hàm lượng nitrat trong rau đay sau khi bón phân
Tương tự như rau dền, rau muống tích lũy hàm
lượng NO3- cao vượt giới hạn cho phép trong
khoảng thời gian 5 - 11 ngày sau khi bón phân. Sau
ngày thứ 3 bón phân, hàm lượng NO3- tích lũy
trong rau muống đã khá cao (482,65 mg/kg) và chỉ
giảm mạnh từ sau 15 ngày bón phân (hình 6).
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
ng
ày
13
ng
ày
15
ng
ày
17
ng
ày
Hàm lượng nitrat trong
rau muống sau khi bón
phân (mg/kg)
TCCP
Hình 6. Biến động hàm lượng nitrat trong rau muống
sau khi bón phân
Từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 11 sau khi bón
phân, không nên thu hoạch rau ngót để cung cấp ra
thị trường vì hàm lượng NO3- tích lũy trong rau
ngót khá cao và nồng độ tích lũy cao nhất ghi nhận
ở ngày thứ 7 là 578,56 mg/kg và ở ngày thứ 9 là
580,43 mg/kg. Đến ngày thứ 13, hàm lượng NO3-
trong rau ngót đã giảm xuống dưới tiêu chuẩn cho
phép. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn sức khỏe cho
người tiêu dùng nên thu hoạch sau 15 ngày bón
phân (hình 7).
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
ng
ày
13
ng
ày
15
ng
ày
17
ng
ày
Hàm lượng nitrat trong rau
ngót sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 7. Biến động hàm lượng nitrat trong rau ngót
sau khi bón phân
422
Các loài rau họ cải hấp thụ dinh dưỡng trong
đất và chuyển hoá thành NO3- nhanh hơn các loài
rau khác, kết quả phân tích thể hiện trên các hình 8,
9, 10. Sau khi bón phân 3 ngày, hàm lượng NO3-
tích lũy trong rau cải canh, cải mào gà và cải ngọt
đã vượt từ 1,07 đến 1,15 lần tiêu chuẩn cho phép.
Đến ngày thứ 13, hàm lượng NO3- trong các loài
rau cải bắt đầu có xu hướng giảm xuống dưới 500
mg/kg và để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng
nên thu hoạch sau 15 ngày bón phân.
Hình 8. Biến động hàm lượng nitrat trong rau cải canh
sau khi bón phân
Hình 9. Biến động hàm lượng nitrat trong rau cải mào gà
sau khi bón phân
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
ng
ày
13
ng
ày
15
ng
ày
17
ng
ày
Hàm lượng nitrat trong rau cải
ngọt sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 10. Biến động hàm lượng nitrat trong rau cải ngọt sau khi
bón phân
3.3. Hệ số tương quan giữa hàm lượng nitơ trong
đất với hàm lượng nitrat trong rau
Hệ số tương quan (r) giữa hàm lượng nitơ trong
đất với hàm lượng NO3- tích lũy trong các loài rau
được tính toán và thể hiện ở bảng 4. Hệ số tương
quan lấy giá trị trong khoảng từ -1 đến 1 (-1 ≤ r
≤ 1).
Khi hệ số r càng tiến gần tới 0 thì quan hệ càng
lỏng lẻo, ngược lại khi r càng gần 1 hoặc -1 thì
quan hệ càng chặt chẽ (r > 0 có quan hệ thuận và r
< 0 có quan hệ nghịch). Trường hợp r = 0 thì giữa
hàm lượng nitơ trong đất và hàm lượng nitrat trong
rau không có quan hệ.
Từ kết quả tính toán hệ số tương quan cho thấy,
mối quan hệ giữa hàm lượng nitơ trong đất và hàm
lượng nitrat trong các loài rau có mối quan hệ
nghịch. Hàm lượng nitrat trong các loài rau khác
nhau có hệ số tương quan với hàm lượng nitơ trong
đất khác nhau và dao động từ 0,575 đến 0,631.
Hàm lượng nitơ trong đất được rau cải mào gà hấp
thu và chuyển hóa thành dạng nitrat ở mức cao
nhất, tiếp đến là sau cải ngọt và rau muống. Rau
dền có hệ số tương quan thấp nhất trong các loài
rau nghiên cứu vì hàm lượng nitrat hấp thụ của nó
thấp hơn các loài rau khác.
Việc tính toán hệ số tương quan trong nghiên
cứu này nhằm mục đích kiểm chứng được mối
quan hệ giữa hàm lượng nitơ trong đất sau khi bón
phân đạm với hàm lượng nitrat tích lũy trong các
loài rau để đưa ra được những nhận định chính xác
hơn về sự ảnh hưởng của nitơ trong đất đến hàm
lượng nitrat trong rau.
423
Bảng 4. Hệ số tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm lượng nitrat trong rau
Đối tượng Đất - rau dền Đất - mồng tơi Đất - rau đay
Đất - rau
muống
Đất- rau
ngót
Đất - rau
cải canh
Đất - rau cải
mào gà
Đất - rau
cải ngọt
Hệ số tương
quan r
- 0,575 - 0,584 - 0,598 - 0,603 - 0,586 -0,594 - 0,631 - 0,614
4. Kết luận
Các kết quả thí nghiệm cho thấy, trước khi bón
phân đạm, hàm lượng nitơ tổng số trong đất ở mức
khá, hàm lượng nitrat trong các loài rau rất thấp so
với tiêu chuẩn cho phép đối với rau an toàn của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Sau khi bón
phân đạm, hàm lượng nitơ tổng số trong đất đã
tăng nhiều và ở mức rất giàu so với thang đánh giá
về dinh dưỡng đất quy định trong Tiêu chuẩn Việt
Nam TCVN 7373:2004.
Sau ngày thứ 3 bón phân đạm, hàm lượng nitrat
tích lũy trong các loài rau đã tăng rất cao, hầu hết
các loài rau đều có hàm lượng nitrat cao nhất sau 7
đến 9 ngày bón phân và giảm dần từ ngày thứ 11.
Vì vậy, để đảm bảo sức khỏe về lâu dài cho người
tiêu dùng, nên thu hoạch và sử dụng rau sau 15
ngày bón phân.
Hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau có
mối tương quan ở mức khá, hàm lượng nitrat trong
các loài rau khác nhau có hệ số tương quan với
hàm lượng nitơ trong đất khác nhau. Hàm lượng
nitơ trong đất và nitrat trong rau cải mào gà có hệ
số tương quan lớn nhất, chứng tỏ cải mào gà có
khả năng hấp thụ dinh dưỡng và chuyển hóa thành
dạng nitrat ở mức cao nhất so với các loại rau khác.
Vì vậy, tùy thuộc vào từng loại rau, người nông
dân các vùng trồng rau cần hạn chế bón phân đạm
một cách tối đa và kết hợp các loại phân lân, phân
kali cân đối để đảm bảo hàm lượng nitrat trong rau
dưới tiêu chuẩn cho phép đối với rau an toàn do Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định.
Lời cảm ơn: công trình là kết quả nghiên cứu
của Đề tài khoa học trẻ "Xác định mối tương quan
của nitơ trong đất trồng rau và hàm lượng nitrat
tích lũy trong rau xanh" do Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam giao cho Viện Địa lý
thực hiện năm 2012.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Lê Huy Bá, 2006: Độc học môi trường cơ
bản. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh, 403tr.
[2] Trần Kim Đồng, Nguyễn Quang Phổ, Lê
Thị Hoa, 1991: Giáo trình sinh lý cây trồng. Nhà
xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà
Nội, 1991, 454tr.
[3] Bộ Khoa học và Công nghệ, 2004: Tiêu
chuẩn Việt Nam TCVN 7373:2004 - Chất lượng
đất - Giá trị chỉ thị về hàm lượng nitơ tổng số trong
đất Việt Nam.
[4] Mức giới hạn tối đa cho phép của một số vi
sinh vật và hóa chất gây hại trong sản phẩm rau,
quả, chè (Ban hành kèm theo Quyết định số
99/2008/QĐ-BNN ngày 15 tháng 10 năm 2008 của
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT).
SUMMARY
Determining the correlation between nitrogen content in soil and nitrate accumulation in vegetables
Study on the correlation between nitrogen content in soil and nitrate accumulation in farming producs have important
implications to determine the amount of nitrogenous fertilizer required and appropriate time for harvest, to minimize the
effects on human health caused by NO3- residues in agricultural products. This study was conducted on eight common
vegetables grown in Hai Boi commune, Dong Anh district of Hanoi for demand of city residents. The research results
indicate that the correlation between soil nitrogen and nitrate in vegetables is high level, which depends on the species
of vegetables and duration after manuring nitrogenous fertilizer. In particular, the correlation coefficient of nitrate
concentration in Brassicaceae Juncea and soil nitrogen is highest in comparison with the studied vegetables. After
fertilizer supply, nitrate content in vegetables increased very sharply, the highest accumulation was recorded from the 5th
to 11th day after fertilization depending different vegetables and decreased gradually after 11th day of manuring.
Therefore, in order to ensure the health of the consumer, it is possible to harvest vegetables from the 15th day after
fertilization. At the same time, a small quantity of nitrogenous fertilizer should be used a long with phosphate and
potassium fertilizers in a balanced way to reduce nitrate content in vegetables under standard permit for safe vegetables
as current regulations.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4128_14643_1_pb_777_2107857.pdf