Nhu cầu protein của lươn giống ở các mức lipid
Theo phương pháp đường cong bậc hai cho thấy
nhu cầu protein ở mức 6% lipid trong thức ăn để cá
tăng trưởng tối đa là 44,8% và khi đó tốc độ tăng
trưởng tuyệt đối đạt giá trị cao nhất là 93,7 mg/ngày.
Ở mức 9% lipid nhu cầu protein trong thức ăn để
cá tăng trưởng tối đa là 42,0% và khi đó tốc độ tăng
trưởng tuyệt đối đạt giá trị cao nhất là 91,6 mg/ngày
(Hình 1). Theo Trần Thị Thanh Hiền và cộng tác viên
(2013) thì cá thát lát còm giai đoạn 2 - 3 g/con có nhu
cầu protein cho tăng trưởng tối đa ở mức lipid 6%
là 44,2% và ở mức lipid 9% là 42,5%. So với cá thát
lát còm giống thì lươn giống trong thí nghiệm này
có nhu cầu protein ở mức lipid 6% và 9% gần tương
đương nhau. Tuy nhiên, nhu cầu protein ở mức lipid
6% của lươn thấp hơn nhu cầu protein của cá heo
(Botia modesta) cỡ 4,47 g là 45,3% (Nguyễn Thanh
Hiệu và ctv., 2018). Trần Thị Thanh Hiền và cộng
tác viên (2005) nghiên cứu nhu cầu protein của cá
lóc bông (Channa micropeltes) cỡ 3 g và 6 g cho kết
quả hàm lượng protein tối ưu cho cá ở giai đoạn này
lần lượt là 50,8% và 46,5%. Trần Thị Thanh Hiền và
Nguyễn Anh Tuấn (2009) cho rằng hàm lượng chất
béo bổ sung trong thức ăn 6% thì cá rô đồng giai
đoạn giống tăng trưởng tốt. Từ những kết quả trên
cho thấy khi gia tăng hàm lượng lipid trong thức ăn,
nhu cầu protein của lươn có xu hướng giảm và tăng
trưởng của lươn trong nghiên cứu này đạt tối đa ở
mức lipid 6% và nhanh hơn ở mức lipid 9%
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định nhu cầu protein của lươn giai đoạn giống ở các mức Lipid, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
117
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
XÁC ĐỊNH NHU CẦU PROTEIN CỦA LƯƠN
GIAI ĐOẠN GIỐNG Ở CÁC MỨC LIPID
Lam Mỹ Lan1, Trần Thị Thanh Hiền1, Trần Lê Cẩm Tú1
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định nhu cầu protein tối ưu ở các mức lipid thích hợp trong thức ăn cho lươn (Monopterus
albus) cỡ 3 - 5 g. Thí nghiệm sử dụng thức ăn chế biến với 4 mức protein (35%, 40%, 45% và 50%) cùng với 3 mức
lipid (6%, 9% và 12%). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Thí nghiệm thực hiện trong 8 tuần. Kết quả cho thấy tỷ
lệ sống của lươn không bị ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid cũng như sự tương tác của hai nhân tố này.
Tốc độ tăng trưởng của lươn, hệ số chuyển hóa thức ăn và hiệu quả sử dụng protein ảnh hưởng bởi sự tương tác của
protein và lipid trong thức ăn (p < 0,05) và đạt kết quả tốt ở nghiệm thức 45% protein và 6% lipid hay 40% protein
và 9%. Nhu cầu protein cho lươn giống tăng trưởng tối ưu là 44,8% ở mức lipid 6%.
Từ khóa: Lươn, lipid, Monopterus albus, nhu cầu protein
Lê Văn Hưng, 2013. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái và khả
năng áp dụng tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Phát
triển, 11(3): 337-344.
Lê Văn Hưng, Huỳnh Thị Mai, 2011. Nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn đề xuất các nội dung của cơ chế
chi trả dịch vụ môi trường liên quan đến đa dạng
sinh học. Báo cáo kết quả khoa học Đề tài cấp bộ
2010 - 2011.
Nguyễn Sỹ Linh, 2018. Tác động của các chính sách
liên quan đến HST đối với phát triển bền vững ở
Việt Nam. Báo cáo đánh giá hệ sinh thái quốc gia,
Hà Nội, T11.2018.
Luật số 20, 2008. Luật số 20/2008/QH12 ngày 13 tháng
11 năm 2008 về “Luật Đa dạng sinh học”.
Thủ tướng Chính phủ, 2008. Quyết định số 380/QĐ-
TTg ngày 10 tháng 4 năm 2008 về “Chính sách thí
điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng”.
Tô Xuân Phúc, 2011. Thị trường dịch vụ hệ sinh thái.
Báo cáo chuyên đề ứng dụng PES tại Việt Nam.
CIFOR, 2013. Báo cáo chuyên đề - Chi trả dịch vụ môi
trường rừng tại Việt Nam.
UBND huyện Quế Phong, 2017. Báo cáo rà soát điều
chỉnh, bổ sung dự án bảo vệ và phát triển rừng tại
Quế Phong giai đoạn 2012 - 2020.
UBND huyện Quế Phong, 2018. Báo cáo đánh giá kết
quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
chín tháng và nhiệm vụ trọng tâm trong ba tháng
cuối năm 2018 huyện Quế Phong.
Milder, J. C., S. J. Scherr, and C. Bracer., 2010. Trends
and future potential of payment for ecosystem
services to alleviate rural poverty in developing
countries. Ecology and Society 15 (2): 4.
Pagiola, S., and G. Platais, 2007. Payments for
Environmental Services: From Theory to Practice.
Washington, DC: World Bank.
Wunder Seven, 2005. Payments for Environmental
Services: Some Nuts and Bolts. CIFOR, Occasional
Paper.
Policy implementation result of payment for forest environmental services
in Que Phong district, Nghe An province
Le Van Hung, Dinh Thi Ngoc Thuy
Abstract
This article showed policy implementation result of payment for forest environmental services (PFES) in Que Phong
district, Nghe An. The participated actors of FES were identified such as state agencies, business and service providers
(mainly electricity production enterprises), and other components to join the providers including: Management
Board of Pu Hoat Nature Reserve, forest rangers, border guards, army and local people. This PFES policy brought
a total revenue of 75 billion VND from 2013 to 2017, contributing to raise the average income from 6 to 7 million
VND / household / year. The forest area in Que Phong district increased from 37,146.12 to 58,927.7 hectares in
2014 - 2017. In 2015, the area of new forest plantation was 2.1 thousand ha and in 2017 was 2.7 thousand ha; besides,
the number of violations was reduced to 112 from 91 cases.
Keywords: Forest, service, provide, biodiversity
Ngày nhận bài: 5/11/2018
Ngày phản biện: 18/11/2018
Người phản biện: PGS. TS. Mai Văn Trịnh
Ngày duyệt đăng: 21/12/2018
1 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
118
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lươn (Monopterus albus) sống tự nhiên ở ao,
kênh rạch, các dòng sông lớn, trong ruộng lúa hay
ở đầm lầy (Rainboth, 1996). Shafland và cộng tác
viên (2010) cho rằng trong dạ dày lươn có 56% cá,
32% giáp xác và 27% côn trùng. Theo Zhou và cộng
tác viên (2011), lươn được cho ăn cá tạp và thức ăn
công nghiệp có hàm lượng protein là 44%, lipid 8%
và năng lượng là 19 MJ/kg được sử dụng để nuôi
vỗ lươn bố mẹ. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, lươn
đã được nghiên cứu sản xuất giống và ương từ bột
lên giống. Lươn 5 ngày tuổi được ương bằng trứng
nước, từ 20 ngày tuổi sử dụng trùn chỉ và từ 60 ngày
tuổi trở lên cho lươn ăn cá xay kết hợp với thức ăn
viên (Nguyễn Thanh Hiệu, 2015). Kết quả điều tra
các hộ nuôi lươn cho thấy có 42,9% hộ sử dụng thức
ăn là ốc, cá tạp và 57,1% số hộ cho lươn ăn bằng thức
ăn kết hợp giữa cá tạp và thức ăn công nghiệp có
hàm lượng protein là 30% (Lương Quốc Bảo, 2015).
Nhiều hộ nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp cho cá
chình (44% protein, 8% lipid) hay cá lóc (40% protein
6% lipid) để thay thế cá tạp làm thức ăn nuôi lươn.
Ma và cộng tác viên (2014) đã nghiên cứu nhu cầu
protein và lipid của lươn (Monopterus albus) cỡ
65 g với kết quả lươn sử dụng thức ăn hiệu quả ở
mức protein 40% và lipid 4%. Hiện nay, vẫn chưa
có nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho lươn
giai đoạn giống. Vì thế, nghiên cứu xác định nhu
cầu protein của lươn giống ở các mức lipid rất cần
thiết làm cơ sở xây dựng công thức thức ăn cho lươn
giống, góp phần phát triển mô hình ương nuôi lươn.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Lươn giống có kích cỡ trung bình từ 3,1 - 3,3 g/
con và đã sử dụng tốt thức ăn chế biến được chọn
thí nghiệm. Thí nghiệm được thực hiện trong 48
bể nhựa có thể tích 60 L/bể. Nước cấp cho bể thí
nghiệm được lọc tuần hoàn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí 2 nhân tố với 4 mức
protein 35, 40, 45 và 50% protein và 3 mức lipid 6,
9, 12% tương ứng với 3 mức năng lượng thô 19, 20
và 21 KJ/g thức ăn (Bảng 1 và 2). Mỗi nghiệm thức
lặp lại 4 lần. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu
nhiên. Số lượng lươn thả 60 con/bể.
Thành phần nguyên liệu làm thức ăn cho lươn
giống gồm bột cá, bột đậu nành, bột mì, dầu, vitamin
và khoáng (Bảng 1). Tỉ lệ dầu động vật/dầu thực vật:
1/1. Thức ăn được phối trộn, ép viên kích cỡ 2 mm,
sấy khô và bảo quản ở nhiệt độ –20oC trong suốt quá
trình thí nghiệm.
Bảng 1. Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm
Nghiệm thức
Lipid - Protein (%)
Thành phần nguyên liệu (%)
Bột cá Bột đậu nành Mì tinh Dầu cá
Dầu
nành Premix Kết dính
Dịch đầu
tôm
6
35 27,4 30,0 33,5 1,7 2,9 2,0 1,0 1,5
40 34,8 30,0 26,4 1,4 2,9 2,0 1,0 1,5
45 42,2 30,0 19,4 1,0 2,9 2,0 1,0 1,5
50 49,5 30,0 12,4 0,7 2,9 2,0 1,0 1,5
9
35 27,4 30,0 30,5 3,2 4,4 2,0 1,0 1,5
40 34,8 30,0 23,4 2,9 4,4 2,0 1,0 1,5
45 42,2 30,0 16,4 2,5 4,4 2,0 1,0 1,5
50 49,6 30,0 9,3 2,2 4,4 2,0 1,0 1,5
12
35 27,5 30,0 27,4 4,7 5,9 2,0 1,0 1,5
40 34,8 30,0 20,4 4,4 5,9 2,0 1,0 1,5
45 42,3 30,0 13,3 4,0 5,9 2,0 1,0 1,5
50 49,6 30,0 6,3 3,7 5,9 2,0 1,0 1,5
Ghi chú: Bột cá Kiên Giang, bột đậu nành Achentina, *Premix: vitamin, khoáng.
119
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
2.2.2. Chăm sóc và quản lý
Lươn được cho ăn thỏa mãn nhu cầu, cho ăn
2 lần/ngày (7 giờ và 17 giờ). Ghi nhận lượng thức
ăn thừa hàng ngày và đếm số lươn chết. Trong suốt
thời gian thí nghiệm, chất lượng nước trong bể
thường xuyên được kiểm tra và duy trì ở điều kiện
tốt cho sự phát triển của lươn, nhiệt độ trung bình
dao động từ 26,3 - 28,9⁰C, pH 6,5 - 7,5 và hàm lượng
oxy 4,1 - 7,5 mg/L.
2.2.3. Thu và phân tích mẫu
Cân ngẫu nhiên 30 con lươn để xác định khối
lượng trung bình ban đầu (Wi). Khi kết thúc thí
nghiệm, cân ngẫu nhiên 30 con để xác định khối
lượng trung bình (Wf); đếm và cân toàn bộ lươn ở
mỗi bể. Các số liệu về tỷ lệ sống, tăng trọng của lươn
(WG), tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG), lượng
thức ăn ăn vào (FI), hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR)
và hiệu quả sử dụng protein (PER) được xác định.
Thành phần hóa học của thức ăn (bảng 2) được xác
định theo phương pháp AOAC (2000) và năng lượng
thô được đo bằng máy Calorimeter.
Bảng 2. Thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm
Nghiệm
thức Lipid
- Protein
(%)
Protein
(%)
Lipid
(%)
Carho-
hydrate
(%)
Tro
(%)
Năng
lượng
(KJ/g)
6
35 35,4 5,7 48,2 10,7 19,1
40 39,3 6,2 43,4 11,1 19,4
45 45,4 5,8 35,8 13,0 19,3
50 49,8 6,0 30,3 13,9 19,5
9
35 36,1 9,2 45,2 9,5 20,1
40 40,3 8,9 39,2 11,6 19,9
45 44,6 9,1 35,7 10,6 20,4
50 50,5 9,6 26,0 13,9 20,3
12
35 36,0 12,0 42,3 9,7 20,7
40 41,0 11,9 36,5 10,6 20,8
45 46,9 12,1 29,6 11,4 21,1
50 51,2 12,3 22,9 13,6 21,0
2.2.4. Xử lý số liệu
Sự khác biệt giữa các nghiệm thức được phân
tích ANOVA hai nhân tố và phép thử Duncan ở mức
ý nghĩa 0,05 bằng chương trình SPSS 20.0. Sử dụng
phương pháp đường cong bậc hai (Zeitoun et al.,
1976) để xác định nhu cầu protein của lươn.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11/2017 đến
tháng 3/2018 tại Khoa Thủy sản, Trường Đại học
Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Sinh trưởng của lươn sau 8 tuần
Kết quả thí nghiệm cho thấy có sự tương tác giữa
hai nhân tố protein và lipid lên khối lượng lươn lúc
thu hoạch (Wf), tăng trọng của lươn (WG), tốc độ
tăng trưởng của lươn (DWG) (p < 0,05) (Bảng 3).
Khối lượng và tăng trọng của lươn ở các nghiệm
thức sau 8 tuần thí nghiệm đạt 7,78 - 8,90 g và
4,64 - 5,64 g. Tốc độ tăng trưởng của lươn nhanh
nhất ở nghiệm thức 45% protein và 6% lipid nhưng
khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với nghiệm
thức 40% protein và 6% lipid hay nghiệm thức
40% protein và 9% lipid (p > 0,05). Ở các nghiệm
thức có hàm lượng protein 35% và 50% ở các mức
lipid hay nghiệm thức có mức lipid 12% ở các mức
protein thì tăng trưởng của lươn chậm lại. Tương
đồng với kết quả thí nghiệm trên lươn, ở mức
protein 50% và lipid 12% tăng trưởng của cá thát lát
còm chậm so với các mức protein và lipid thấp hơn
(Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2013). Kết quả của
nghiên cứu trên lươn tương tự kết quả nghiên cứu
trên cá lóc (Channa striata) có khối lượng ban đầu
3,34 ± 0,02 g tăng trưởng tốt ở mức protein 45%
và lipid 6,5% (Aliyu-Paiko et al., 2010). Kết quả
nghiên cứu của Trần Thị Thanh Hiền và cộng tác
viên (2013) cho thấy cá thát lát còm (Chitala chitala)
có khối lượng gia tăng (WG) và tốc độ tăng trưởng
(DWG) nhanh nhất ở nghiệm thức 45% protein và
6% lipid (Bảng 3).
3.2. Tỷ lệ sống, FI, FCR và PER
Kết quả thí nghiệm cho thấy không có sự tương
tác giữa hai nhân tố protein và lipid lên tỷ lệ sống
và lượng thức ăn ăn vào (FI) của lươn (p > 0,05)
(Bảng 4). Tỷ lệ sống của lươn ở các nghiệm thức dao
động trong khoảng 81,3 - 88,1% và khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Thức ăn có hàm
lượng protein và lipid khác nhau không ảnh hưởng
đến tỷ lệ sống của lươn. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu trên cá thát lát còm giống (71,1 - 84,4%)
của Trần Thị Thanh Hiền và cộng tác viên (2013) là
không có sự ảnh hưởng của hàm lượng protein và
lipid trong thức ăn lên tỷ lệ sống của cá (Bảng 4).
120
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
Bảng 3. Tăng trưởng của lươn sau 8 tuần thí nghiệm
Nghiệm thức
Lipid - Protein (%) Wi (g) Wf (g) WG (g) DWG (mg/ngày)
6
35 3,30 ± 0,20 8,12 ± 0,13bc 4,83 ± 0,09ab 80,4 ± 1,56ab
40 3,10 ± 0,21 8,53 ± 0,05de 5,42 ± 0,23ef 90,4 ± 3,76ef
45 3,16 ± 0,11 8,79 ± 0,13ef 5,64 ± 0,14f 93,9 ± 2,27f
50 3,20 ± 0,31 8,58 ± 0,45def 5,38 ± 0,16de 89,7 ± 2,7de
9
35 3,19 ± 0,08 7,93 ± 0,21ab 4,74 ± 0,14a 79 ± 2,32ab
40 3,27 ± 0,18 8,90 ± 0,06f 5,63 ± 0,19f 93,8 ± 3,2f
45 3,17 ± 0,13 8,33 ± 0,18cd 5,16 ± 0,2cd 85,9 ± 3,32cd
50 3,34 ± 0,09 7,92 ± 0,08ab 4,59 ± 0,16a 76,4 ± 2,65a
12
35 3,13 ± 0,21 8,39 ± 0,24cd 5,26 ± 0,15de 87,7 ± 2,44de
40 3,14 ± 0,15 8,38 ± 0,28cd 5,25 ± 0,15de 87,4 ± 2,58de
45 3,19 ± 0,19 8,15 ± 0,24bc 4,97 ± 0,12bc 82,7 ± 1,99bc
50 3,14 ± 0,17 7,78 ± 0,15a 4,64 ± 0,08a 77,3 ± 1,35a
Giá trị P
Lipid 0,365 0,000 0,000 0,000
Protein 0,873 0,000 0,000 0,000
Protein˟ Lipid 0,694 0,000 0,000 0,000
Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau bởi các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) và hiệu quả sử
dụng protein thức ăn (PER) của lươn ảnh hưởng
bởi sự tương tác giữa hai nhân hàm lượng protein,
lipid trong thức ăn (p < 0,05) (Bảng 4). Kết quả cho
thấy FCR ở nghiệm thức 6% lipid và 45% protein
(1,07 ± 0,047) là thấp nhất, kế đến là nghiệm thức
9% lipid và 40% protein (1,14 ± 0,087). Ở mức lipid
6%, FCR có khuynh hướng giảm theo sự gia tăng
hàm lượng protein trong thức ăn. Tuy nhiên, FCR lại
tăng lên khi hàm lượng protein trong thức ăn tăng
lên 50%, điều đó cho thấy khả năng chuyển hóa thức
ăn ở lươn giảm khi sử dụng thức ăn có hàm lượng
protein 35% và 50%. Hiệu quả sử dụng protein
(PER) của lươn tốt ở nghiệm thức 40% protein ở cả
ba mức lipid, tuy nhiên PER ở các nghiệm thức này
thấp hơn nghiệm thức 35% protein và 6% hay 12%
lipid. PER của lươn (1,58 - 2,34) cao hơn của cá lóc
giống (0,7 - 1,3) (Samantaray and Mohanty, 1997)
hay của cá thát lát còm giống (0,37 - 1,28) (Trần Thị
Thanh Hiền và ctv., 2013).
Bảng 4. Tỷ lệ sống, FI, FCR và PER của lươn sau 8 tuần thí nghiệm
Nghiệm thức
Lipid - Protein (%) Tỷ lệ sống (%) FI (mg/con/ngày) FCR PER
6
35 90 ± 12a 116 ± 5,8a 1,35 ± 0,046de 2,13 ± 0,07c
40 86 ± 1,0a 119 ± 4,3a 1,23 ± 0,005 abcd 2,04 ± 0,010c
45 88 ± 5,5a 108 ± 7,3a 1,07 ± 0,047a 2,07 ± 0,085c
50 90 ± 2,9a 112 ± 6,3a 1,17 ± 0,085abc 1,73 ± 0,131b
9
35 81 ± 1,0a 123 ± 8,7a 1,46 ± 0,125e 1,97 ± 0,185c
40 83 ± 5,4a 115 ± 6,7a 1,14 ± 0,087ab 2,20 ± 0,177c
45 88 ± 4,0a 119 ± 9,0a 1,29 ± 0,131bcd 1,73 ± 0,176b
50 84 ± 19a 112 ± 9,7a 1,37 ± 0,144de 1,48 ± 0,150a
12
35 83 ± 8,0a 111 ± 8,0a 1,18 ± 0,097ab 2,43 ± 0,19d
40 80 ± 6,6a 113 ± 5,4a 1,21 ± 0,082abcd 2,07 ± 0,144c
45 78 ± 13a 116 ± 10,3a 1,30 ± 0,125cd 1,71 ± 0,157b
50 84 ± 8,2a 106 ± 8,7a 1,28 ± 0,114bcd 1,58 ± 0,140ab
Giá trị P
Lipid 0,365 0,151 0,022 0,011
Protein 0,873 0,158 0,001 0,000
Protein ˟ Lipid 0,694 0, 305 0,001 0,000
Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau bởi các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
121
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
3.3. Nhu cầu protein của lươn giống ở các mức lipid
Theo phương pháp đường cong bậc hai cho thấy
nhu cầu protein ở mức 6% lipid trong thức ăn để cá
tăng trưởng tối đa là 44,8% và khi đó tốc độ tăng
trưởng tuyệt đối đạt giá trị cao nhất là 93,7 mg/ngày.
Ở mức 9% lipid nhu cầu protein trong thức ăn để
cá tăng trưởng tối đa là 42,0% và khi đó tốc độ tăng
trưởng tuyệt đối đạt giá trị cao nhất là 91,6 mg/ngày
(Hình 1). Theo Trần Thị Thanh Hiền và cộng tác viên
(2013) thì cá thát lát còm giai đoạn 2 - 3 g/con có nhu
cầu protein cho tăng trưởng tối đa ở mức lipid 6%
là 44,2% và ở mức lipid 9% là 42,5%. So với cá thát
lát còm giống thì lươn giống trong thí nghiệm này
có nhu cầu protein ở mức lipid 6% và 9% gần tương
đương nhau. Tuy nhiên, nhu cầu protein ở mức lipid
6% của lươn thấp hơn nhu cầu protein của cá heo
(Botia modesta) cỡ 4,47 g là 45,3% (Nguyễn Thanh
Hiệu và ctv., 2018). Trần Thị Thanh Hiền và cộng
tác viên (2005) nghiên cứu nhu cầu protein của cá
lóc bông (Channa micropeltes) cỡ 3 g và 6 g cho kết
quả hàm lượng protein tối ưu cho cá ở giai đoạn này
lần lượt là 50,8% và 46,5%. Trần Thị Thanh Hiền và
Nguyễn Anh Tuấn (2009) cho rằng hàm lượng chất
béo bổ sung trong thức ăn 6% thì cá rô đồng giai
đoạn giống tăng trưởng tốt. Từ những kết quả trên
cho thấy khi gia tăng hàm lượng lipid trong thức ăn,
nhu cầu protein của lươn có xu hướng giảm và tăng
trưởng của lươn trong nghiên cứu này đạt tối đa ở
mức lipid 6% và nhanh hơn ở mức lipid 9%.
Hình 1. Xác định nhu cầu protein của lươn giống ở mức 6% và 9% lipid
IV. KẾT LUẬN
Sử dụng thức ăn chế biến 44,8% protein và 6%
lipid hoặc 42% protein và 9% lipid thích hợp cho
lươn giống cỡ 3 - 5 g tăng trưởng và đạt hiệu quả sử
dụng thức ăn tốt. Nhu cầu protein cho lươn giống
tăng trưởng tối đa (93,7 mg/ngày) là 44,8% với mức
lipid là 6%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lương Quốc Bảo, 2015. Thí nghiệm nuôi lươn đồng
(Monopterus albus, Zuiew 1973) với các loại giá thể
và thức ăn khác nhau trong bể bạt tại huyện Vĩnh
Thạnh, Thành phố Cần Thơ. Luận văn tốt nghiệp cao
học, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Thanh Hiệu, 2015. Phát triển kỹ thuật sản xuất
giống và nuôi thương phẩm lươn đồng (Monopterus
albus, Zwiew 1793) tại huyện Vĩnh Thạnh, thành
phố Cần Thơ. Báo cáo kết quả dự án cấp cơ sơ, Tp.
Cần Thơ.
Nguyễn Thanh Hiệu, Dương Nhựt Long, Lam Mỹ Lan,
Lâm Văn Hiếu và Trần Minh Phú, 2018. Nghiên
cứu xác định nhu cầu protein của cá heo giống.
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam,
số 4 (89): 103-109.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009.
Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản
Nông nghiệp.
Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Dương
Thúy Yên và Nguyễn Anh Tuấn, 2005. Nhu cầu đạm
của cá lóc bông (Channa micropeltes Cuvier, 1831)
giai đoạn giống. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học
Cần Thơ: 58-65.
Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Hữu Bon, Lam Mỹ Lan
và Trần Lê Cẩm Tú, 2013. Nghiên cứu xác định
nhu cầu protein và lipid của cá thát lát còm (Chitala
chitala) giai đoạn giống. Tạp chí Khoa học, Trường
Đại học Cần Thơ, Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và
Công nghệ sinh học, 26, 196-204.
Aliyu-Paiko, M., Hashim, R., Shu-Chien, A., 2010.
Influence of dietary lipid/protein ratio on survival,
growth, body indices and digestive lipase activity in
Snakehead (Channa striatus, Bloch 1793) fry reared
in re‐circulating water system. Aquaculture Nutrition,
16. 466 - 474.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xac_dinh_nhu_cau_protein_cua_luon_giai_doan_giong_o_cac_muc.pdf