Các trường hợp không áp dụng pháp
luật nước ngoài
Theo quy định của Điều 670 BLDS,
pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến
không được áp dụng trong trường hợp chỉ khi
nào, “hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước
ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam”. Điều này có nghĩa là, hậu quả
của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam thì được phép áp dụng pháp luật
nước ngoài vào trong QHDS có yếu tố nước
ngoài mà BLDS điều chỉnh hoặc các luật
chuyên ngành khác điều chỉnh. Tuy nhiên, một
số VBQPPL như: Luật Đầu tư năm 2014; Luật
Chuyển giao công nghệ năm 2006; Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014; Luật Thương mại
năm 2005; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày
14/2/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình
thức đối tác công tư quy định việc áp dụng
pháp luật nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài
không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam.
Nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp
lý, các văn bản luật chuyên ngành này là
những mắt xích quan trọng trong quá trình
vận hành điều chỉnh mọi lĩnh vực để phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Nó xuất
phát từ những quy chuẩn chung nhất làm
nền tảng vững chắc cho sự phát triển, hoàn
thiện khuôn khổ hành lang pháp lý điều chỉnh
quan hệ xã hội, bảo vệ tuyệt đối quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên liên quan. Xét ở
phương diện điều kiện để áp dụng luật nước
ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
các bên tham gia QHDS quốc tế, đảm bảo
sự ổn định, củng cố và phát triển hợp tác về
mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc
gia. Song, việc áp dụng luật nước ngoài phải
đáp ứng điều kiện là luật nước ngoài được áp
dụng không trái với nguyên tắc cơ bản của
chế độ xã hội và pháp luật trong nước của
nước áp dụng luật nước ngoài.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 340 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định phạm vi quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bộ luật dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XÁC ĐỊNH PHẠM VI QUAN HỆ DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Tóm tắt:
Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.
Các quy định của Bộ luật Dân sự được coi là văn bản “gốc”, chung
nhất làm cơ sở để xây dựng các văn bản luật chuyên ngành khác.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, nhiều văn bản chuyên ngành còn
chứa đựng những quy định chưa tương thích với Bộ luật Dân sự về
phạm vi quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, nên cần sửa đổi để
bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật về quy định về quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài.
Hồ Xuân Thắng*
* PGS. TS. Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Sài Gòn.
Abstract
The Civil Code of 2015 has come to enforcement from January 1,
2017. The provisions under this code are the legal foundation for
other specific laws. However, until now, there are inconsistencies
among the Civil Code of 2015 and other legal documents related to
civil relations involving the foreign partners. These inconsistencies
should be reviewed and appropriate amendments should be made
to specific laws for the uniformity of legal regulations relevant to
the civil relations involving foreign partners.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài; Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
quy phạm xung đột; tập quán quốc tế;
tính đồng bộ của pháp luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/10/2018
Biên tập : 22/10/2018
Duyệt bài : 01/11/2018
Article Infomation:
Keywords: civil relations involving
the foreign partners; Civil Code of
2015; Law on Promulgation of Legal
Documents; conflict rules; international
practices; uniformity of law.
Article History:
Received : 12 Oct. 2018
Edited : 22 Oct. 2018
Approved : 01 Nov. 2018
1. Phạm vi quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài theo Bộ luật Dân sự năm 2015
Bản chất cơ bản của quan hệ dân sự
(QHDS) có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
được thể hiện tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật
Dân sự (BLDS). Phạm vi xác định QHDS
có yếu tố nước ngoài trong khoản 2 Điều
663 BLDS được phân định theo một trong
ba nhóm chính sau: a) Có ít nhất một trong
các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân
Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc
xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt
quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên
tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp
nhân Việt Nam nhưng đối tượng của QHDS
đó ở nước ngoài.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
34 Số 24(376) T12/2018
Theo quy định trên, việc xác định
phạm vi QHDS có yếu tố nước ngoài cần
dựa trên các yếu tố sau:
1.1 Có ít nhất một trong các bên tham gia
là cá nhân, pháp nhân nước ngoài
Đây là một quy định xác định chủ thể
trong QHDS có yếu tố nước ngoài. Chủ thể
này bắt buộc là cá nhân nước ngoài, tổ chức
nước ngoài. Trong quan hệ này, các nhà làm
luật đã quy định mang định lượng “tối thiểu”
một bên phải là tổ chức hay cá nhân nước
ngoài. Dưới góc độ khoa học pháp lý, chúng
tôi cho rằng, cá nhân nước ngoài được hiểu
là “người nước ngoài”, còn tổ chức nước
ngoài được hiểu là pháp nhân nước ngoài.
Khoản 1 Điều 3 Luật Xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh cư trú của người nước ngoài
tại Việt Nam 2014 quy định: "Người nước
ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc
tịch nước ngoài và người không quốc tịch
nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại
Việt Nam". Như vậy, "người nước ngoài là
người không có quốc tịch Việt Nam, bao
gồm người có quốc tịch nước ngoài và người
không quốc tịch". Trong đó, năng lực hành
vi dân sự của người nước ngoài được xác
định theo pháp luật của nước mà người đó
là công dân; trường hợp người nước ngoài
thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam
thì được xác định theo pháp luật Việt Nam.
Tổ chức nước ngoài là tổ chức được
thành lập theo pháp luật nước ngoài và có
quốc tịch nước ngoài. Khoản 1 Điều 3 Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008 ghi “quốc
tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước
khác không phải là quốc tịch Việt Nam”.
Điều 676 BLDS quy định về pháp nhân có
yếu tố nước ngoài, quốc tịch của pháp nhân
được xác định theo pháp luật của nước nơi
pháp nhân thành lập1. Ví dụ, Tập đoàn Sam
sung của Hàn Quốc hoạt động ở Việt Nam
là một pháp nhân 100% vốn nước ngoài có
quốc tịch pháp nhân nước ngoài, không phải
1 Khoản 1 Điều 676 BLDS 2015.
2 Khoản 3 Điều 676 BLDS 2015.
quốc tịch pháp nhân Việt Nam. Hau Công
ty TNHH Amway Việt Nam là một pháp
nhân có quốc tịch nước ngoài. Đây là một tổ
chức kinh tế 100% vốn nước ngoài có trụ sở
thành lập ở Mỹ và có chi nhánh hoạt động
tại 63 tỉnh, thành trong cả nước Việt Nam.
Xét về năng lực pháp luật dân sự của pháp
nhân thì tên gọi, đại diện theo pháp luật của
pháp nhân; việc tổ chức, tổ chức lại, giải
thể pháp nhân; quan hệ giữa pháp nhân với
thành viên của pháp nhân; trách nhiệm của
pháp nhân và thành viên của pháp nhân đối
với các nghĩa vụ của pháp nhân được xác
định theo pháp luật của nước mà pháp nhân
có quốc tịch, trừ “trường hợp pháp nhân
nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác
định theo pháp luật Việt Nam”2. Ví dụ, Hãng
Honda của Nhật Bản thiết lập quan hệ, thực
hiện quan hệ các giao dịch tại nước ta thì
năng lực dân sự pháp nhân nước ngoài của
hãng này được xác định theo pháp luật nước
ta là Honda Việt Nam.
1.2 Các bên tham gia đều là công dân Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác
lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt
quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài
Với nhóm này, việc xác định phạm
vi quan hệ có yếu tố nước ngoài xảy ra với
điều kiện khi các bên tham gia “xác lập, thay
đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ” là cá
nhân, pháp nhân Việt Nam tại nước ngoài.
Đối chiếu với quy định tại Điều 758 BLDS
2005: “theo pháp luật nước ngoài, phát sinh
tại nước ngoài” thì quy định “xảy ra tại
nước ngoài” của BLDS đã thể hiện nội hàm
bao quát rộng, khoa học và dễ hiểu đối với
mọi chủ thể khi áp dụng quy định pháp luật.
Mọi giao dịch dân sự đều xảy ra ở nước
ngoài mà các bên là người Việt Nam hay
tổ chức Việt Nam đều thuộc về quan hệ có
yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
35Số 24(376) T12/2018
luật Việt Nam hiện hành. Ở đây, các nhà làm
luật đã kế thừa quy định BLDS 2005 khi xác
định quan hệ có yếu tố nước ngoài mà chủ
thể là cá nhân, pháp nhân người Việt Nam
xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt
quan hệ tại nước ngoài đó xảy ra phải theo
pháp luật nước ngoài điều chỉnh.
Xác lập được hiểu các bên là người
Việt Nam, tổ chức Việt Nam bắt đầu thiết
lập quan hệ với nhau, cam kết với nhau bằng
hợp đồng miệng, bằng văn bản hoặc bằng
các hình thức khác tương đương ở nước
ngoài. Xác lập luôn luôn thể hiện các quyền
và nghĩa vụ dân sự của các bên thì mới thuộc
về xác lập quan hệ có yếu tố nước ngoài.
Thay đổi QHDS có yếu tố nước ngoài
khi đã được các chủ thể là cá nhân, pháp
nhân Việt Nam xác lập quyền và nghĩa vụ
trước đó tại nước ngoài. Thay đổi quyền và
nghĩa vụ trên cơ sở nguyên tắc chung bởi ý
chí tự nguyện của các bên, không bên nào ép
buộc bên nào, trong thực tiễn thường thống
nhất cách hiểu chung đó là phụ lục hợp đồng
đã được xác lập.
Thực hiện QHDS có yếu tố nước
ngoài xảy ra ở nước ngoài là thực hiện các
quyền và nghĩa vụ được các bên là công dân
Việt Nam, pháp nhân Việt Nam xác lập ở tại
nước ngoài. Việc thực hiện phải theo đúng
pháp luật của nước sở tại. Nếu việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong
giao dịch dân sự giữa công dân, tổ chức Việt
Nam ở nước ngoài không tuân thủ theo đúng
quy định của nước sở tại thì việc thực hiện
QHDS đó không thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật nước ta liên quan đến QHDS
có yếu tố nước ngoài.
Chấm dứt QHDS có yếu tố nước ngoài
là việc các bên là công dân Việt Nam, pháp
nhân Việt Nam chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của mình trong QHDS có yếu tố nước ngoài
tại nước ngoài theo quy định của nước đó chứ
không theo quy định pháp luật của Việt Nam.
3 Điều 758 BLDS năm 2005 xác định chỉ duy nhất “tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
1.3 Các bên tham gia đều là công dân Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối
tượng của QHDS đó ở nước ngoài
Điểm c khoản 2 Điều 663 BLDS xác
định quan hệ có yếu tố nước ngoài thể hiện
ở đối tượng của QHDS đó ở nước ngoài.
Điều đó có nghĩa, đối tượng của quan hệ là
tài sản ở nước ngoài hoặc sự kiện pháp lý
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
xảy ra tại nước ngoài. Đây là những điểm
mới đáng ghi nhận của BLDS so với BLDS
20053. Theo chúng tôi, trong giai đoạn hội
nhập kinh tế thế giới, BLDS hiện hành xác
định quan hệ có yếu tố nước ngoài của nước
ta ghi nhận đối tượng của QHDS đó ở nước
ngoài thể hiện sự hoàn thiện hành lang pháp
lý điều chỉnh QHDS có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam. Ví dụ, Chị Nguyễn Thị H là cá
nhân người Việt Nam có quan hệ hợp đồng
mua căn hộ cao cấp với một công ty (pháp
nhân Việt Nam) ở Moscow thuộc Liên bang
Nga theo quy định của pháp luật Liên bang
Nga và quan hệ này có xảy ra tranh chấp.
QHDS này được xác định là quan hệ có
yếu tố nước ngoài theo quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 663 BLDS, bởi chủ thể tham
gia trong giao dịch hợp đồng mua bán căn
hộ cao cấp ở Moscow của Liên bang Nga
đều là cá nhân, tổ chức Việt Nam, nhưng đối
tượng, việc mua bán căn hộ cao cấp (tài sản)
khi có sự kiện pháp lý xảy ra đó là ký kết
hợp đồng quan hệ tài sản do pháp luật dân
sự Liên bang Nga điều chỉnh và quá trình
thực hiện hợp đồng này có tranh chấp xảy ra
ở Liên bang Nga.
Các bên tham gia đều là công dân
Việt Nam, pháp nhân Việt Nam được hiểu là
trong một giao dịch xảy ra ở nước ngoài dù
là giao dịch đó cả hai đều là cá nhân người
Việt Nam; hoặc cả hai đều là pháp nhân
người Việt Nam; hoặc cả hai là cá nhân
người Việt Nam với pháp nhân Việt Nam,
thì thuộc về quan hệ có yếu tố nước ngoài
được điều chỉnh theo quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 663 BLDS. Quy phạm pháp
luật này thể hiện tính hiệu lực về không gian
của giao dịch dân sự là ở nước ngoài.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
36 Số 24(376) T12/2018
2. Bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật
về quy định về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài
Cho đến nay, một số văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) hiện hành chưa có sự
thống nhất với quy định về QHDS có yếu tố
nước ngoài của BLDS. Việc này đã dẫn đến
những bất cập trong quá trình áp dụng luật
trên thực tế. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung các
nội dung liên quan đến pháp luật áp dụng
đối với QHDS có yếu tố nước ngoài, cụ thể
như sau:
2.1 Thống nhất với quy định của BLDS về chủ
thể QHDS có yếu tố nước ngoài giữa “người
Việt Nam ở nước ngoài” với “người Việt Nam
định cư ở nước ngoài” trong quy định của các
quy phạm pháp luật chuyên ngành
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình:
Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 quy định “Quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là
quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một
bên tham gia là người nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài”4. Quy
định này không phù hợp với quy định về
phạm vi QHDS có yếu tố nước ngoài trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Khoản 5 Điều 3 và Điều 28 Luật Nuôi
con nuôi năm 2010 quy định, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là một nhóm chủ
thể riêng biệt trong QHDS có yếu tố nước
ngoài. Tuy nhiên, xác định chủ thể tham gia
vào QHDS có yếu tố nước ngoài, BLDS
không sử dụng cụm từ “định cư”.
Trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng:
Điểm d khoản 3 Điều 3 Nghị định số
37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính
phủ quy định: “Hợp đồng xây dựng có yếu
tố nước ngoài là hợp đồng xây dựng được ký
kết giữa một bên là nhà thầu nước ngoài với
nhà thầu trong nước hoặc chủ đầu tư trong
nước”. Quy định này không phù hợp với quy
định của BLDS về QHDS có yếu tố nước
4 Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
ngoài ở chỗ, trong quy định này không xuất
hiện hiệu lực không gian diễn ra của quan
hệ giao dịch đó ở nước ngoài. Theo đó, hợp
đồng xây dựng được các bên là công dân
Việt Nam ký kết ở nước ngoài không thuộc
đối tượng điều chỉnh của quan hệ có yếu tố
nước ngoài.
Trong lĩnh vực giáo dục:
Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục năm
2009 quy định: “Nhà nước ưu tiên đầu tư
cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
trong nước, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, đầu tư cho giáo dục”. Như vậy, cụm
từ “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”
trong điều khoản này chưa phù hợp với quy
định của BLDS về chủ thể QHDS có yếu
tố nước ngoài, bởi cụm từ “người Việt Nam
định cư ở nước ngoài” chưa được thay thế
hoặc sửa đổi, bổ sung bằng cụm từ “người
Việt Nam ở nước ngoài”.
Từ những phân tích trên, chúng tôi
đề nghị cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
mới Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Nuôi
con nuôi; khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục; Nghị
định số 37/2015/NĐ-CP của Chính phủ để
bảo đảm thống nhất với quy định của BLDS
2015 về QHDS có yếu tố nước ngoài.
2.2 Vị trí của các quy phạm xung đột
Điều 664 BLDS quy định: “Pháp
luật áp dụng đối với QHDS có yếu tố nước
ngoài được xác định theo điều ước quốc tế
mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên
hoặc luật Việt Nam”. Tuy nhiên, các văn bản
luật chuyên ngành như Luật Doanh nghiệp
năm 2014, Luật Xây dựng năm 2013, Luật
Đầu tư năm 2014; có chung nội dung liên
quan chưa đồng nhất quy định như Điều 664
BLDS. Cho đến thời điểm hiện tại, các văn
bản luật chuyên ngành chưa cụ thể hóa các
quy phạm xung đột của BLDS hiện hành cũng
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
37Số 24(376) T12/2018
như VBQPPL dưới luật liên quan. Vì các
quy định của BLDS là văn bản “gốc”, chung
nhất làm cơ sở để xây dựng các văn bản luật
chuyên ngành khác, chúng tôi cho rằng, cần
đẩy nhanh quá trình sửa đổi, bổ sung các luật
chuyên ngành phù hợp với Điều 664 BLDS
để bảo đảm tính đồng bộ, thuận lợi cho các
bên tham gia vào quan hệ theo từng lĩnh vực
ngành có yếu tố nước ngoài.
2.3 Áp dụng tập quán quốc tế
Theo quy định của Điều 666 BLDS,
tập quán quốc tế được áp dụng nếu hậu
quả của việc áp dụng đó không trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Xét theo góc độ khoa học pháp lý, việc áp
dụng tập quán quốc tế trong QHDS có yếu
tố nước ngoài nói chung và quan hệ thuộc
các lĩnh vực khác có yếu tố nước ngoài là
không thể thiếu vắng trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Cho đến thời điểm hiện tại, Luật Điều
ước quốc tế năm 2016 thể chế hóa vấn đề
áp dụng tập quán quốc tế như ghi nhận của
BLDS. Tuy nhiên, một số VBQPPL lại chưa
cụ thể hóa vấn đề này. Có thể kể đến các
văn bản như: Luật Thương mại 2005, Luật
Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa
đổi, bổ sung năm 2010; Luật Đầu tư năm
2014; Luật Trọng tài thương mại năm 2010;
Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, những
văn bản luật này chịu tác động, điều chỉnh
bởi tập quán quốc tế nhiều nhất. Do chưa
được chuẩn hóa theo quy định của BLDS về
áp dụng điều ước quốc tế (áp dụng tập quán
quốc tế nếu tập quán quốc tế không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
hoặc pháp luật Việt Nam), nên quy định về
áp dụng điều ước quốc tế trong các văn bản
này thiếu tính nhất quán.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho
rằng, cần sửa đổi, bổ sung quy định của các
văn bản luật chuyên ngành, bảo đảm thống
nhất với BLDS, theo hướng tập quán quốc
tế được áp dụng nếu hậu quả của nó không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam.
2.4 Pháp luật áp dụng đối với hợp đồng có
yếu tố nước ngoài
Điều 683 BLDS 2015 đưa ra nguyên
tắc mới về lựa chọn luật áp dụng đối với
hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, đặc
biệt với hợp đồng có ít nhất một trong các
bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài. Theo đó, các bên trong hợp đồng sẽ
có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật nước
ngoài là pháp luật áp dụng đối với hợp đồng,
trừ các trường hợp sau:
1) Hợp đồng liên quan đến việc chuyển
giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản là bất động sản, thuê bất động sản hoặc
việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ thì pháp luật áp dụng là pháp
luật Việt Nam nếu bất động sản đó được đặt
tại Việt Nam (khoản 4).
2) Nếu hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng giao kết với người tiêu dùng áp dụng
pháp luật Việt Nam trong trường hợp pháp
luật nước ngoài do các bên lựa chọn ảnh
hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao
động, người tiêu dùng theo quy định của
pháp luật Việt Nam (khoản 5).
3) Các bên có thể thỏa thuận thay đổi
pháp luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng
việc thay đổi đó không được ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba
được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp
dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý
(khoản 6).
Tuy nhiên, BLDS không giải thích
“người thứ ba được hưởng” là những người
nào. Điều này dẫn đến những cách hiểu khác
nhau. Có nơi hiểu có thể là bất kỳ cá nhân
nào trong thực tiễn thi hành luật, thậm chí
có địa phương hiểu điều đó phải là bên được
chỉ định cụ thể trong hợp đồng.
Ngoài ra, BLDS cũng quy định về
trường hợp “pháp luật của nước có mối liên
hệ gắn bó nhất với hợp đồng” (khoản 1 Điều
683 BLDS) Theo đó, trong trường hợp các
bên không có thỏa thuận về pháp luật áp
dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ
gắn bó nhất với với hợp đồng sẽ được áp
dụng. Quy định pháp luật áp dụng cho hợp
đồng, pháp luật do các bên thỏa thuận; nếu
các bên không thỏa thuận, pháp luật áp dụng
là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
38 Số 24(376) T12/2018
nhất với hợp đồng đó cũng áp dụng với hình
thức hợp đồng và “trường hợp hình thức
của hợp đồng không phù hợp với hình thức
hợp đồng theo pháp luật áp dụng đối với
hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức
hợp đồng theo pháp luật của nước nơi giao
kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì
hình thức hợp đồng đó được công nhận tại
Việt Nam”5. Trong khi đó, theo quy định của
Khoản 4 Điều 683 BLDS, “trong hợp đồng
có đối tượng là bất động sản thì pháp luật
áp dụng đối với việc chuyển giao quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động
sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất
động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là
pháp luật của nước nơi có bất động sản”.
Tuy nhiên, về vấn đề này, quy định
của một số VBQPPL hiện hành chưa có sự
thống nhất với quy định của BLDS. Ví dụ:
Điều 11 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày
22/4/2015 của Chính phủ quy định: “Hợp
đồng xây dựng phải áp dụng hệ thống pháp
luật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và
tuân thủ các quy định của Nghị định này”.
Khoản 4 Điều 3 Bộ luật Hàng hải 2015 quy
định:“Trong trường hợp quan hệ pháp luật
liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng
hoá thì áp dụng pháp luật của quốc gia nơi
hàng hoá được trả theo hợp đồng”. Những
quy định này không phù hợp với Khoản 4
Điều 683 BLDS về hợp đồng khi có xung
đột xảy ra.
Về hình thức hợp đồng, khoản 2 Điều
71 Bộ luật Hàng hải quy định: “Hợp đồng
vận chuyển tài sản được giao kết bằng văn
bản, bằng lời nói hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể; vận đơn hoặc chứng từ vận
chuyển tương đương khác là bằng chứng
của việc giao kết hợp đồng giữa các bên”.
Quy định này không phù hợp với khoản 1
Điều 531 BLDS về hình thức của hợp đồng
vận chuyển hàng hóa.
Để bảo đảm thống nhất với quy định
của BLDS về hợp đồng có yếu tố nước
ngoài, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi, bổ
sung Điều 71 Bộ luật Hàng hải, Nghị định
số 37/2015/NĐ-CP theo hướng phù hợp với
quy định của BLDS.
5 Khoản 7 Điều 683 BLDS 2015.
2.5 Các trường hợp không áp dụng pháp
luật nước ngoài
Theo quy định của Điều 670 BLDS,
pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến
không được áp dụng trong trường hợp chỉ khi
nào, “hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước
ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam”. Điều này có nghĩa là, hậu quả
của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam thì được phép áp dụng pháp luật
nước ngoài vào trong QHDS có yếu tố nước
ngoài mà BLDS điều chỉnh hoặc các luật
chuyên ngành khác điều chỉnh. Tuy nhiên, một
số VBQPPL như: Luật Đầu tư năm 2014; Luật
Chuyển giao công nghệ năm 2006; Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014; Luật Thương mại
năm 2005; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày
14/2/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình
thức đối tác công tư quy định việc áp dụng
pháp luật nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài
không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam.
Nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp
lý, các văn bản luật chuyên ngành này là
những mắt xích quan trọng trong quá trình
vận hành điều chỉnh mọi lĩnh vực để phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Nó xuất
phát từ những quy chuẩn chung nhất làm
nền tảng vững chắc cho sự phát triển, hoàn
thiện khuôn khổ hành lang pháp lý điều chỉnh
quan hệ xã hội, bảo vệ tuyệt đối quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên liên quan. Xét ở
phương diện điều kiện để áp dụng luật nước
ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
các bên tham gia QHDS quốc tế, đảm bảo
sự ổn định, củng cố và phát triển hợp tác về
mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc
gia. Song, việc áp dụng luật nước ngoài phải
đáp ứng điều kiện là luật nước ngoài được áp
dụng không trái với nguyên tắc cơ bản của
chế độ xã hội và pháp luật trong nước của
nước áp dụng luật nước ngoài.
Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành mới VBQPPL để bảo đảm thống nhất
với quy định của BLDS về các trường hợp
không áp dụng pháp luật nước ngoài■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
39Số 24(376) T12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_pham_vi_quan_he_dan_su_co_yeu_to_nuoc_ngoai_trong_b.pdf