Pumping test with constant discharge for interpretation of leaky aquifer’s hydrogeological
parameters require properly arrangement of pumping well and observation wells and to meet
assumptions of each method. A case study of pumping test at Pho Noi Textile Industrial Zone is an
example for this conclusion. Pumping test at DK1 pumping well with 02 observation wells and at a single
pumping well DK2 show a data set allows to precisely analyzed for hydrogeological parameters in the
study area. First time ever in the region, leakage factor of Pleistocene aquifer and hydraulic resistance of
upper aquitard were determined respectively L=190 m and c=109.8 day based on pumping test data.
Other hydrogeological parameters of Pleistocen aquifer were determined such as Transimissivity
Km=2538 m2/day, Storativity μ=4.84.10-3 and Diffusivity a=5.24.105m2/day.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định thông số địa chất thủy văn tầng chứa nước thấm xuyên Pleistocene khu vực Phố Nối theo tài liệu hút nước thí nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/326234566
Analysis of Pleistocene leaky aquifer’s hydrogeological parameters at Pho Noi
area based on pumping test data - Xác định các thông số địa chất thủy văn
tầng chứa nước thấm xuyên th...
Article in Journal of Mining and Geology · May 2018
CITATIONS
0
READS
49
3 authors, including:
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:
VietAs project-DANIDA View project
Amonas View project
Nguyen Bach Thao
Hanoi University of Mining and Geology
44 PUBLICATIONS 45 CITATIONS
SEE PROFILE
Pham Quy Nhan
Hanoi University of Natural Resources and Environment
45 PUBLICATIONS 676 CITATIONS
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Nguyen Bach Thao on 30 August 2018.
The user has requested enhancement of the downloaded file.
Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 59, Kỳ 3 (2018) 21-27 21
Xác định thông số địa chất thủy văn tầng chứa nước thấm
xuyên Pleistocene khu vực Phố Nối theo tài liệu hút nước thí
nghiệm
Phạm Qúy Nhân 1,*, Nguyễn Bách Thảo 2,3, Phạm Hoàng Anh 2
1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, Việt Nam
2 Khoa Khoa học và Kỹ thuật Địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam
3Trung tâm Phân tích Thí nghiệm chất lượng cao, Trường Đại học Mỏ-Địa chất, Việt Nam
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Quá trình:
Nhận bài 15/1/2017
Chấp nhận 25/2/2018
Đăng online 30/4/2018
Hút nước thí nghiệm với lưu lượng không đổi xác định thông số địa chất thủy
văn tầng chứa chứa nước thấm xuyên đòi hỏi các sơ đồ bố trí thí nghiệm
phải phù hợp cho từng phương pháp khác nhau và là cơ sở để xác định được
chính xác các thông số đó. Kết quả hút nước thí nghiệm tại tại khu công
nghiệp Dệt may Phố Nối là một ví dụ minh chứng cho nhận định trên. Hút
nước thí nghiệm chùm lỗ khoan DK1 với 02 lỗ khoan quan trắc và lỗ khoan
hút nước đơn DK2 cho phép xác định chính xác các thông số địa chất thủy
văn khu vực nghiên cứu. Lần đầu tiên, hệ số thấm xuyên của tầng chứa nước
Pleistocene và giá trị sức cản thấm của lớp thấm nước yếu bên trên được xác
định theo tài liệu hút nước thí nghiệm tương ứng là L=190 m và c=109.8 ng.
Các thông số Địa chất thủy văn chính của tầng chứa nước Pleistocene được
xác đinh là Km=2538 m2/ng, μ=4.84.10-3, a=5.24.105 m2/ng.
© 2018 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm.
Từ khóa:
Trữ lượng nước dưới đất
Thấm xuyên
Hút nước thí nghiệm
1. Mở đầu
Hút nước thí nghiệm là nhiệm vụ quan trong
trong điều tra, thăm dò nước dưới đất nhằm đánh
giá mức độ phong phú nước của các tầng chứa
nước, xác định thông số địa chất thủy văn của các
tầng chứa nước và các lớp thấm nước yếu nhằm
đánh khả năng khai thác nước đồng thời lấy mẫu
phân tích thành phần hóa học để xác định chất
lượng nguồn nước. Hút nước thí nghiệm với lưu
lượng không đổi xác định thông số trong tầng
chứa nước thấm xuyên (Leaky aquifer) đã được
nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên
cứu. Với các giả thiết khác nhau (De Glee, 1930; De
Glee, 1951; Hantush, 1956, Hantush, 1964) đã sử
dụng các công thức vận động ổn định để chỉnh lý.
Walton (1962) đã phát triển phương pháp đường
cong chuẩn của Theis, nhưng thay vì sử dụng 1
đường cong, Walton đã sử dụng họ đường cong
khác nhau để xác định thông số theo các công thức
vận động không ổn định. Để phản ánh đúng hơn
thông số của tầng chứa nước, Hantush (1960) đã
xây dựng một phương pháp phân tích có tính đến
sự biến đổi mực nước trong tầng thấm nước yếu
do quá trình thấm xuyên gây ra. Như vậy để có thể
_____________________
*Tác giả liên hệ
E-mail: pqnhan@hunre.edu.vn
22 Phạm Quý Nhân và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (3), 21-27
chỉnh lý theo các phương pháp khác nhau đòi hỏi
cần có sơ đồ cũng thời gian hút nước phù hợp mà
điều này đôi khi chúng ta còn chưa để ý đến ngay
từ khi thiết kế hút nước thí nghiệm cho tầng chứa
nước này (Châu Văn Quỳnh, 2000; Nguyễn Hữu
Căn, 1999).
2. Cơ sở lý thuyết về giải đoán thông số địa
chất thủy văn và yêu cầu hút nước thí
nghiệm
Đối với tầng chứa nước có thấm xuyên, để xây
dựng các phương pháp giải đoán thông số Địa chất
thủy văn, một số điều kiện ban đầu được đặt ra là:
- Tầng chứa nước và lớp thấm nước yếu phân
bố vô hạn.
- Tầng chứa nước và lớp thấm nước yếu đều
là các tầng đồng nhất, đẳng hướng và chiều dày
không đổi.
- Trước khi hút nước, mực nước và bề mặt áp
lực là nằm ngang.
- Lưu lượng hút nước không đổi.
- Dòng thấm qua lớp thấm nước yếu chủ yếu
theo phương thẳng đứng.
- Trị số hạ thấp mực nước trong tầng bên trên
là không đáng kể.
Tùy thuộc vào trạng thái vận động của nước
dưới đất tới giếng mà có các phương pháp chỉnh
lý thông số như sau:
2.1. Phương pháp chỉnh lý theo vận động ổn
định
Khi hút nước đạt trạng thái vận động ổn định,
2 phương pháp sau có thể được sử dụng để giải
đoán thông số như sau:
2.1.1. Phương pháp De Glee
Khi hút nước đạt đến trạng thái vận động ổn
định có thấm xuyên từ tầng thấm nước yếu (De
Glee, 1930) đã biến đổi nhận được công thức (1).
)
L
r
(K
KM2
Q
s Om
Trong đó: sm- Trị số hạ thấp mực nước đạt ổn
định trong lỗ khoan quan sát cách lỗ khoan hút
nước một khoảng cách r, m; Q- Lưu lượng của lỗ
khoan hút nước, m3/ng; L = KMc - Hệ số thấm
xuyên, m; C = M’/K’ - Sức cản thủy lực của lớp thấm
nước yếu, ngày; M - Chiều dày tầng chứa nước, m;
M’ - Chiều dày lớp thấm nước yếu, m; K -Hệ số
thấm của tầng chứa nước, m/ng; K’ - Hệ số thấm
theo phương thẳng đứng của lớp thấm nước yếu,
m/ng; K0(x) - Hàm Bessel loại 2 bậc 0 (Hàm
Hankel).
Phương pháp De Glee có thể áp dụng nếu thỏa mãn
các điều kiện sau:
- Các giả thiết trên được thỏa mãn
- Dòng thấm đến lỗ khoan đạt trạng thái ổn
định
- L > 3M
Để chỉnh lý thông số theo phương pháp này,
người ta xây dựng đường cong chuẩn trên trục tọa
độ log[K0(r/L)] và log(r/L). Vẽ đường cong thực
nghiệm trên trục tọa độ log(s) và log(r) và trùng
khít nó lên đường cong chuẩn. Chọn điểm đặc
trưng và có thể xác định được các thông số của
tầng thấm xuyên này.
Nhận xét: Để có thể so sánh được với đường
cong chuẩn của De Glee, cần ít nhất 3 lỗ khoan
quan sát trong chùm thí nghiệm, có như vậy mới
có thể xây dựng được đường cong thực nghiệm
một cách khách quan.
2.1.2. Phương pháp Hantush
Không để ý tới công trình nghiên cứu của (De
Glee, 1930; De Glee, 1951; Hantush, 1956,
Hantush, 1964) Hantush nhận thấy rằng nếu r/L
nhỏ (r/L≤0.05), phương trình 1 có thể được viết
gần đúng như (2).
)12.1(log
2
30.2
r
L
KM
Q
sm
Khi r/L≤0.16, 0.22. 0.33 và 0.45 sai số của
phương trình này so với phương trình 1 lần lượt
là nhỏ hơn 1, 2, 5 và 10 (Huisman, 1972). Đồ thị
biểu diễn mối quan hệ giữa s và r trên tọa độ bán
logarit trong khoảng giá trị r/L nhỏ là một đường
thẳng. Trong khoảng mà khi giá trị r/L lớn thì các
điểm sẽ nằm trên đường cong mà ở đó chúng sẽ
tiếp xúc với trục toạ độ có giá trị hạ thấp bằng 0.
Góc dốc của đoạn thẳng trên đồ thị sẽ lấy bằng
giá trị sai khác về trị số hạ thấp mực nước được
lấy trong khoảng 1 đơn vị log r, (3).
KM
Q
sm
2
30.2
Phần đường thẳng kéo dài trên đồ thị sẽ cắt
trục r tại điểm mà ở đó s = 0 và r = r0 và phương
trình 3 có thể được viết lại như (4).
)12.1(log
2
30.2
0
0r
L
KM
Q
Từ phương trình đó (4) ta sẽ có (5)
(1)
(2)
(3)
(4)
Phạm Quý Nhân và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (3), 21-27 23
1
12.1
12.1
00
KMC
rr
L
và do đó:
KM
r
C
2
0 )12.1/(
Phương pháp Hantush có thể được áp dụng nếu
thỏa mãn các điều kiện sau:
- Các giả thiết trên được thỏa mãn
- Dòng thấm đến lỗ khoan đạt trạng thái ổn
định
- L>3M
- r/L≤0.05
Để chỉnh lý thông số theo phương pháp này,
người ta vẽ đồ thị bán logarit s=log(r). Xác định
đường thẳng phù hợp nhất qua tất cả các điểm và
từ đó có thể xác định được các thông số của tầng
thấm xuyên này.
Nhận xét: Để có thể chỉnh lý thông số địa chất
thủy văn theo phương pháp của Hantush, cần ít
nhất 3 lỗ khoan quan sát trong chùm thí nghiệm,
có như vậy phương trình đường thẳng thực
nghiệm mới phản ánh một cách khách quan.
2.2. Phương pháp chỉnh lý theo vận động
không ổn định
2.2.1. Phương pháp Walton
Bỏ qua ảnh hưởng nhả nước từ lớp thấm
nước yếu, phương trình mực nước hạ thấp trong
tầng chứa nước thấm xuyên được mô tả theo
phương trình của Hantush và Jacob, 1955 như (7),
(8).
dy
yL
r
y
yKM
Q
s
u
)
4
exp(
1
4 2
2
)/,(
4
LruW
KM
Q
sm
Trong đó:
KMt
r
u
4
*2
µ* - Hệ số nhả nước đàn hồi; t - Thời gian hút
nước
Phương trình (8) tương tự phương trình hàm
giếng của Theis, nhưng có thêm 2 thông số trong
dấu tích phân đó là u và r/L. Phương trình (8) sẽ
gần đúng với phương trình của Theis khi giá trị L
đủ lớn sao cho r2/4L2y gần bằng 0.
Trên cơ sở phương trình (9), Walton (1962)
đã phát triển phương pháp đường cong chuẩn của
Theis, nhưng thay vì sử dụng 1 đường cong,
Walton đã sử dụng họ đường cong với các giá trị
r/L khác nhau. Họ đường cong nay có thể thành
lập trên cở sở giá trị trong bảng số liệu hàm
W(u,r/L) (Kruseman, 1994).
Phương pháp Walton được ứng dụng khi thỏa mãn
các điều kiện sau:
- Các giả thiết đã nêu ở trên
- Lớp thấm nước yếu không chịu nén ép
- Vận động của nước dưới đất tới lỗ khoan là
vận động không ổn định
Để chỉnh lý thông số theo phương pháp này,
người ta xây dựng họ đường cong chuẩn trên trục
tọa độ log[W(u,r/L)] và log[1/u]. Vẽ đường cong
thực nghiệm trên trục tọa độ log(s) và log(t) cho
từng lỗ khoan quan sát và trùng khít nó lên đường
cong chuẩn phù hợp nhất. Chọn điểm đặc trưng và
có thể xác định được các thông số của tầng thấm
xuyên này. Đối với các lỗ khoan quan sát khác làm
tương tự.
Nhận xét: Để có thể so sánh với đường cong
chuẩn của Walton, chỉ cần có trong chùm thí
nghiệm ít nhất 1 lỗ khoan quan sát.
2.2.2. Phương pháp họ đường cong chuẩn của
Hantush
Hantush (1960) đã xây dựng một phương
pháp phân tích có tính đến sự biến đổi mực nước
trong tầng thấm nước yếu do quá trình thấm
xuyên gây ra. Phương trình xác định trị số hạ thấp
mực nước tại 1 điểm nào đó như (10)
),(
4
uW
KM
Q
s
Trong đó:
*
'
.
'/'
4
KM
MKr
' là hệ số nhả nước của tầng thấm nước yếu
dy
uyy
u
erfc
y
e
uW
u
y
)
)(
),(
Giá trị của hàm W(u,β) được lập sẵn thành bảng.
Phương pháp đường cong chuẩn của Hantush
được ứng dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
- Các giả thiết đã nêu ở trên.
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
24 Phạm Quý Nhân và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (3), 21-27
- Lớp thấm nước yếu chịu nén ép hay là mức
độ chứa nước trong lớp này thay đổi khi áp lực
thay đổi.
- Vận động của nước dưới đất tới lỗ khoan là
vận động không ổn định.
t< ' M’/10K’.
Để chỉnh lý thông số theo phương pháp này,
người ta xây dựng họ đường cong chuẩn trên trục
tọa độ log[W(u,r/β)] và log[1/u]. Vẽ đường cong
thực nghiệm trên trục tọa độ log(s) và log(t) cho
từng lỗ khoan quan sát và trùng khít nó lên đường
cong chuẩn phù hợp nhất. Chọn điểm đặc trưng và
có thể xác định được các thông số của tầng thấm
xuyên này. Đối với các lỗ khoan quan sát khác làm
tương tự. Phương pháp này có thể xác định thêm
các thông số ' .
Nhận xét: Để có thể so sánh với đường cong
chuẩn của Hantush, chỉ cần ít nhất 1 lỗ khoan quan
sát trong chùm thí nghiệm. Tuy nhiên để đảm bảo
rằng quá trình nhả nước từ tầng thấm nước yếu
đã xảy ra, cần bố trí lỗ khoan quan sát trong tầng
thấm nước yếu này.
2.3. Phương pháp chỉnh lý theo tài liệu hồi
phục mực nước - Phương pháp hồi phục mực
nước của Theis
Sau khi hút nước thí nghiệm với lưu lượng
không đổi trong tầng thấm xuyên, (Hantush,
1964) bỏ qua hiệu ứng chứa nước trong tầng
thấm nước yếu đã thiết lập công thức mực nước
hồi phục tại lỗ khoan cách lỗ khoan hút nước là r:
LruWLruW
KM
Q
s /,'()/,(
4
'
KMt
r
u
4
*2
và '4
'2
KMt
r
u
Trong đó: s’ Mực nước hồi phục trong lỗ
khoan; r Khoảng cách tới lỗ khoan hút nước; t thời
gian hút nước; t’ thời gian tính từ khi bắt đầu dừng
bơm; L hệ số thấm xuyên; Q lưu lượng bơm.
Khi u, u’ tương đối nhỏ (≤0.01) và nếu thời
gian hút nước và hồi phục nhanh sao cho
t+t’≤(L2µ*)/20KM hoặc t+t’≤cµ*/20 với c là sức cản
thủy lực của lớp thấm nước yếu thì phương trình
Hình 1. Vị trí các lỗ khoan thăm dò khai thác trên bình đồ.
(13)
(14)
(15)
Phạm Quý Nhân và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (3), 21-27 25
(13) có thể được viết thành phương trình gần
đúng của Theis - Jacob như (16).
)
µ'
'4
ln
*µ
4
(ln
4
'
22 r
KMt
r
KMt
KM
Q
s
Khi KM không đổi, các hệ số nhả nước không
đổi và µ*≈µ’, phương trình (14) có thể viết lại như
(17).
'
log
4
30.2
'
t
t
KM
Q
s
Đồ thị s’ theo t/t’ trên trục tọa độ bán log (t/t’
trên trục tỷ lệ log) là đường thẳng với góc dốc (18).
KM4
Q30.2
's
Trong đó: ∆s’ là xác định hiệu số mực nước hồi
phục trong 1 đơn vị log.
Như vậy nếu các điều kiện trên thỏa mãn thì
đối với tầng chứa nước có thấm xuyên, theo tài
liệu hồi phục mực nước chỉ có thể xác định được
giá trị KM mà thôi
3. Kết quả hút nước thí nghiệm tại khu công
nghiệp Dệt may Phố Nối, Hưng Yên
Phương án thăm dò đánh giá trữ lượng khai
thác nước dưới đất Trung tâm dệt kim Phố Nối
công suất 5000m3/ng đã tiến hành khoan và hút
nước thí nghiệm tại 2 lỗ khoan thăm dò trong đó
lỗ khoan DK1 được tiến hành hút chùm với 02 lỗ
khoan quan sát và lỗ khoan DK1 được tiến hành
hút đơn. Lỗ khoan quan sát QS1, QS2 của chùm
DK1 được bố trí như Hình 2.
20, 0.5
70, 0.24
270, 0.05
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
1 10 100 1000 10000
logr, m
s
,
m
Log. (s=f(logr))
0
Hình 3. Đồ thị quan hệ giữa s và log (r).
Hình 2. Sơ đồ bố trí chùm lỗ khoan hút nước thí nghiệm DK1 trên mặt cắt.
(16)
(17)
(18)
26 Phạm Quý Nhân và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (3), 21-27
Bảng 2. Tổng hợp kết quả chỉnh lý thông số Địa chất thủy văn theo tài liệu hút nước thí nghiệm.
Chùm DK1 bao gồm lỗ khoan trung tâm DK1,
các lỗ khoan quan sát: QS1, QS2, DK2 được bố trí
để nghiên cứu tầng chứa nước. Bơm nước thí
nghiệm được tiến hành bằng bơm chìm với thời
giam bơm 72 giờ. Lưu lượng hút nước thí nghiệm
đạt 144m3/h, giữ lưu lượng ổn định trong suốt
quá trình bơm.
Ngay sau khi kết thúc hút nước thí nghiệm
chùm DK1, tiến hành hút nước thí nghiệm đơn tại
lỗ khoan DK2. Lỗ khoan này được bơm thí nghiệm
bằng máy bơm chìm với lưu lượng ổn định
130m3/giờ và thời gian bơm kéo dài 56 giờ.
Ví dụ: Chỉnh lý thông số Địa chất thủy văn
tầng chứa nước thấm xuyên theo vận động ổn
định - Phương pháp của Hantush
- Chùm lỗ khoan: DK1
- Các lỗ khoan quan sát: QS1, QS2, DK2
- Lưu lượng lỗ khoan hút nước: 144 m3/h Kết
quả tính toán:
Góc dốc: ∆s= 0.49 khi ∆log(r) = 1; r0 = 332 m;
KM2
Q30.2
s
;
s2
Q30.2
KM
;
KM = 2583 m2/ng;
KM
r
c
2
0 )12.1/( ;
c = 34 ng; 1KMc
r
12.1
r
L
12.1
00
)m(296L;
r.12.1
1
L
0
Kết quả xác định thông số địa chất thuỷ văn
theo các phương pháp khác nhau được trình bày
trong Bảng 1. So sánh các thông số của các phương
pháp nêu trên chúng tôi chọn thông số trung bình
tính theo các phương pháp có tính đến thấm
xuyên trong điều kiện vận động ổn định và không
ổn định làm thông số đại diện cho khu vực bãi
giếng và đã xác định được KM = 2538 m2/ng, μ* =
4.84.10-3, a = 5.24.105 m2/ng, L = 190 m và C =
109.8 ng.
4. Kết luận
Trên cở sở lý thuyết về các phương pháp hút
nước thí nghiệm và thực tế hút nước thí nghiệm
tại khu Công nghiệp Dệt may Phố Nối, chúng tôi có
một số kết luận:
- Sơ đồ bố trí hút nước thí nghiệm tầng chứa
nước thấm xuyên cần được xem xét bố trí cho phù
hợp với yêu cầu và các phương pháp chỉnh lý
thông số. Cụ thể, đối với tất cả các phương pháp
chỉnh lý hút nước với lưu lượng ổn định cần phải
bố trí các lỗ khoan quan sát tầng trên để đảm bảo
rằng có thể xác định được quá trình thấm xuyên
đã xảy ra hay chưa. Đối với các phương pháp
Lỗ khoan quan sát QS1 QS2 DK2
Khoảng cách từ lỗ khoan hút nước tới lỗ khoan quan sát - r,m 20 70 270
Trị số hạ thấp mực nước đạt ổn định tại các lỗ khoan quan sát - s,m 0.50 0.24 0.05
STT Phương pháp chỉnh lý Thông số
Chùm lỗ khoan DK1 Lỗ khoan hút
đơn DK2
Ghi chú
DK1 QS1 QS2
1
V
ận
đ
ộn
g
ổn
đ
ịn
h
Phương pháp
De Glee
KM (m2/ng) 2620
L (m) 195
C (ng) 14.5
2
Phương pháp
Hantush
KM (m2/ng) 2583
L (m) 296
C (ng) 34
3
V
ận
đ
ộn
g
kh
ôn
g
ổn
đ
ịn
h
Phương pháp
đường cong
chuẩn Walton
(Hantush -
Jacob)
KM (m2/ng) 2500 2450
μ* 5.34.10-3 4.35.10-3
a (m2/ng) 4.68.105 5.63.105
L (m) 133 136
C (ng) 7 384
4
T
h
eo
t
ài
liệ
u
h
ồi
p
h
ụ
c
m
ự
c
n
ư
ớ
c Phương pháp
hồi phục của
Theis
KM (m2/ng) 2770 4320 2870 2860 Qúa trình
thấm xuyên
vẫn tồn tại
Bảng 1. Kết quả hút nước thí nghiệm tại chùm lỗ khoan DK1.
Phạm Quý Nhân và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (3), 21-27 27
chỉnh lý theo vận động ổn định cần phải bố trí ít
nhất 3 lỗ khoan quan sát trong tầng thấm xuyên,
còn đối với phương pháp chỉnh lý theo vận động
không ổn định cần bố trí thêm lỗ khoan quan sát
trong tầng thấm nước yếu để đảm bảo rằng có thể
xác định được quá trình nhả nước từ tầng thấm
nước yếu đã xảy ra hay chưa.
- Tầng chứa nước Pleistoxen tại khu công
nghiệp Dệt may Phố Nối là tầng thấm xuyên với sơ
đồ hút nước như đã nêu, có thể chỉnh lý được theo
các phương pháp khác nhau thể hiện trong bảng
1. Kết quả hút nước đã xác định được thông số đại
diện cho khu vực bãi giếng là KM=2538 m2/ng; μ=
4.84.10-3; a= 5.24.105 m2/ng, L=190 m; c=
109.8ng.
Tài liệu tham khảo
Châu Văn Quỳnh, 2000. Báo cáo kết quả thăm dò
tỷ mỉ nước dưới đất vùng Ngọc Liên - Cẩm Hưng
- Cẩm Giàng, Hải Dương, tỷ lệ 1/25.000. Lưu
trữ địa chất.
De Glee G.J, 1930. Over grondwaterstromingen bij
waterronttrekking door middle van putten. J.
Waltman, Delft. P175, in Dutch.
Hantush, M.S., 1960. Modification of the theory of
leaky aquifers, Jour. of Geophys. Res., vol. 65,
no. 11, pp. 3713-3725.
Hantush, M.S., 1964. Hydraulics of wells. In
Advances in Hydrosciences. Vol.1 edited ny
V.T. Chow. 281-432, New York and London:
Academic Press
Huisman, L. 1972. Groundwater Recovery.
Macmillan Civil Engineering Hydraulics,
Macmillan, 336p.
Kruseman, G. P. and De Ridder, N. A., 1994.
Analysis and evaluation of pumping test data,
International institute for land reclamation and
improvement, Netherlands.
Nguyễn Hữu Căn,1999. Báo cáo kết quả thăm dò
đánh giá trữ lượng nước dưới đất phục vụ yêu
cầu cấp nước của khu đô thị Phố Nối - giai đoạn
1. Lưu trữ địa chất.
Phạm Qúy Nhân, 2007. Báo cáo kết quả thăm dò
đánh giá trữ lượng nước dưới đất phục vụ yêu
cầu cấp nước Trung tâm Dệt may Phố Nối với
lưu lượng 5000m3/ng. Lưu trữ Cục quản lý Tài
nguyên nước.
Walton, E.K., 1(Kruseman et al., 1994)962.
Groundwater Recovery. Macmillan Civil
Engineering Hydraulics, Macmillan, 336p.
ABSTRACT
Analysis of Pleistocene leaky aquifer’s hydrogeological parameters
at Pho Noi area based on pumping test data
Nhan Quy Pham 1, Thao Bach Nguyen 2,3, Anh Hoang Pham 2
1 Hanoi University of Natural Resources and Environment, Vietnam
2Faculty of Geology Geosciences and Geoengineering, Hanoi University of Mining and Geology, Vietnam
3Centre for Excellence in Analysis and Experiment, Hanoi University of Mining and Geology, Vietnam
Pumping test with constant discharge for interpretation of leaky aquifer’s hydrogeological
parameters require properly arrangement of pumping well and observation wells and to meet
assumptions of each method. A case study of pumping test at Pho Noi Textile Industrial Zone is an
example for this conclusion. Pumping test at DK1 pumping well with 02 observation wells and at a single
pumping well DK2 show a data set allows to precisely analyzed for hydrogeological parameters in the
study area. First time ever in the region, leakage factor of Pleistocene aquifer and hydraulic resistance of
upper aquitard were determined respectively L=190 m and c=109.8 day based on pumping test data.
Other hydrogeological parameters of Pleistocen aquifer were determined such as Transimissivity
Km=2538 m2/day, Storativity μ=4.84.10-3 and Diffusivity a=5.24.105 m2/day.
View publication stats
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3_phamquynhan21_27_8596_2115232.pdf