Độ lớn của mỗi bộ phận trong tỷ lệ chiết
khấu nói trên cần được xác định trên cơ sở
bình quân trong một thời kì tương đối dài (5-10
năm), không thể sử dụng số liệu của năm định
giá/năm phân tích dự án để tính toán định giá
hoặc phân tích dự án.
Các điều chỉnh nói trên, theo chúng tối, là
hết sức cần thiết trong sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp quy về phương pháp định giá đất,
định giá rừng, định giá bất động sản hiện hành
để đảm bảo cơ sở khoa học của phương pháp
định giá, tránh các tuỳ tiện, không thống nhất
về phương pháp và kết quả định giá.
Ngoài ra, các thu thập, phân tích của chúng
tôi từ các nguồn đáng tin cậy cho thấy, độ lớn
của các bộ phận trong tỷ lệ chiết khấu: có thể
sử dụng trong tính toán định giá, phân tích dự
án hiện nay ở Việt Nam là: tỷ lệ sinh lợi thực
tế: 2,5 – 3%; tỷ lệ lạm phát: 7,5%; tỷ lệ bù đắp
rủi ro: 10%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định tỷ lệ chiết khấu trong định giá tài sản và phân tích dự án đầu tư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2014 103
XÁC ĐỊNH TỶ LỆ CHIẾT KHẤU TRONG ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
VÀ PHÂN TÍCH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Nguyễn Quang Hà
TS. Trường Đại học Nông lâm Bắc Giang
TÓM TẮT
Trong các tài liệu, văn bản hiện hành về định giá đất, định giá rừng, phân tích chi phí – lợi ích trong quản lý dự
án, tỷ lệ chiết khấu được quy định, và được hiểu là tỷ lệ lãi suất (danh nghĩa) phổ biến trên thị trường ở thời
điểm định giá, phân tích dự án. Tác giả bài báo cho rằng, các quy định đó là thiếu cơ sở khoa học, không chính
xác, và sẽ gây ra các nhầm lẫn đáng kể trong kết quả định giá, phân tích, nhất là trong các thời kì có biến động
lớn về tỷ lệ lạm phát (như thời kì 2009 – 2013 ở Việt Nam). Theo phân tích của tác giả: tỷ lệ chiết khấu, với
bản chất là tỷ lệ sinh lợi mong đợi của nhà đầu tư, trong trường hợp tổng quát sẽ bao gồm ba bộ phận: tỷ lệ sinh
lợi thực tế, tỷ lệ lạm phát (hai bộ phận này cấu thành tỷ lệ lãi suất danh nghĩa), và tỷ lệ bù đắp rủi ro. Tuy
nhiên, việc đưa bộ phận nào trong ba bộ phận nói trên khi tính toán tỷ lệ chiết khấu tuỳ thuộc chủ yếu vào loại
giá cả sử dụng (giá cố định – đã loại trừ yếu tố lạm phát) hay giá hiện hành – tính đến yếu tố lạm phát). Mặt
khác, độ lớn của từng bộ phận cần được xác định dựa vào số liệu bình quân của cả thời kì, chứ không thể chỉ
dựa vào số liệu của năm tính toán, định giá. Sửa đổi, bổ sung các điểm nói trên trong các quy định, hướng dẫn
hiện hành về tỷ lệ chiết khấu là hết sức cần thiết để đảm bảo tính chính xác, thống nhất trong định giá bất động
sản, định giá rừng, và phân tích dự án đầu tư.
Từ khóa: Định giá tài sản, lãi suất, phân tích dự án, tỷ lệ chiết khấu
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kỹ thuật chiết khấu - tính toán quy đổi giá
trị các thời điểm phát sinh chi phí và thu nhập
về cùng thời điểm đã được đề cập và sử dụng
từ thế kỷ 17, ví dụ bởi Culpeper, the Elder
1621 (Scorgie, 1996). Theo thời gian, kỹ thuật
này được nghiên cứu, phát triển, và với sự phát
triển của các phương tiện tính toán, hiện được
sử dụng rộng rãi trong kinh tế và quản lý, phục
vụ cho các mục đích khác nhau, nhất là phục
vụ cho định giá tài sản và tính toán, phân tích
hiệu quả của các dự án đầu tư dài hạn.
Tuy nhiên, vấn đề tưởng như khá rõ ràng đó
về mặt triết lý và lý thuyết tính toán, lại tồn tại
một thực tế (ít nhất là ở nước ta) là việc lựa
chọn và sử dụng tỷ lệ chiết khấu (tên gọi phổ
biến khác thường được sử dụng là tỷ lệ lãi suất,
hoặc lãi suất) khi tính hệ số chiết khấu đã
không được chú ý nghiên cứu sử dụng một
cách chính xác, dẫn đến sự tùy tiện, thiếu cơ sở
khoa học trong tính toán.
Cụ thể, trong các tài liệu chính thống về
định giá tài sản hiện nay ở nước ta, điển hình là
các Nghị định Chính phủ và thông tư hướng
dẫn của Bộ Tài chính và Các Bộ liên quan như
Bộ tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn về định giá đất, định
giá rừng, định giá bất động sản (Nghị định
188/2004/NĐ-CP; Nghị định 123/2007/NĐ-
CP; Nghị định 48/2007/NĐ-CP) đều quy
định sử dụng lãi suất ngân hàng thương mại ở
thời điểm (năm) định giá. Còn trong các tài
liệu về phân tích dự án (kể cả các sách giáo
khoa), thì tỷ lệ lãi suất sử dụng để tính các chỉ
số NPV, hoặc làm căn cứ để so sánh với IRR là
lãi suất danh nghĩa của các nguồn vốn huy
động cho dự án (ví dụ: tính bình quân từ các
nguồn vốn huy động).
Việc quy định sử dụng tỷ lệ lãi suất như trên
xuất phát từ sự nhầm lẫn, hoặc thiếu rõ ràng về
bản chất của tỷ lệ chiết khấu và gây ra những
sai sót đáng kể về kết quả tính toán, phân tích,
nhất là trong điều kiện lãi suất ngân hàng biến
động lớn do sự biến động của tỷ lệ lạm phát,
như ở Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Ví dụ: nếu sử dụng theo quy định hiện hành
theo các văn bản pháp quy về định giá đất,
định giá rừng là sử dụng tỷ lệ lãi suất huy động
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2014 104
vốn thời hạn 1 năm của các ngân hàng thương
mại, do việc chỉ tính trong sáu tháng đầu năm
2012, trần lãi suất huy động vốn thời hạn 1
năm của các NHTM đã giảm từ 14%/năm vào
tháng 2/2012 xuống 9%/năm ở thời điểm tháng
7/2012, giá trị quy đổi của một cùng luồng thu
nhập trong 20 năm sẽ chênh lệch nhau 2,34
lần, ngĩa là cùng một tài sản, nếu việc định giá
vào tháng 7 sẽ có giá cao hơn gấp 2,34 lần giá
của chính nó nếu được định giá nửa năm trước
đó, và sự khác biệt này hoàn toàn không phải
do biến động của các yếu tổ ảnh hưởng đến
cung cầu hay giá trị tài sản, mà chỉ thuần túy
do tỷ lệ lạm phát. Hay nói cách khác, tỷ lệ lạm
phát của năm (thậm chí là tháng) định giá sẽ
quyết định giá của tài sản có thời hạn sử dụng
(hoặc một dự án kéo dài trong) hai ba mươi
năm sau đó. Hệ quả tai hại của kết quả định giá
này, nhất là trong điều kiện thiếu cơ sở thẩm
định, so sánh do không có các giao dịch trên
thị trường, là rất lớn.
Còn đối với trường hợp tính toán các chỉ số
phân tích tài chính và kinh tế của dự án, trong
trường hợp dự án sử dụng nhiều nguồn vốn, cả
vốn tự có, vay ưu đãithì kết quả phân tích,
so sánh sẽ rất thiếu chính xác.
Thêm vào đó, việc không làm rõ bản chất
của tỷ lệ lãi suất trong tính toán hệ số chiết
khấu còn dẫn đến sự tùy tiện, thiếu nhất quán
trong việc sử dụng giá cả (cố định hay hiện
hành) trong tính toán luồng chi phí và thu
nhập. Do vậy, kết quả tính toán càng trở thành
thiếu chính xác.
Bài viết này làm rõ các vấn đề cơ bản về
bản chất của tỷ lệ chiết khấu, từ đó đề xuất về
cách thức sử dung, lựa chọn tỷ lệ lãi suất để
tính toán tỷ lệ chiết khấu có cơ sở khoa học,
khả thi trong ứng dụng vào thực tiễn quản lý.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các bộ phận của tỷ lệ chiết khấu:
Bản chất của tỷ lệ chiết khấu trong kỹ thuật
chiết khấu – quy đổi các dòng thu nhập và chi
phí ở các thời điểm khác nhau về cùng một
thời điểm - là tỷ lệ sinh lợi (rate of returns) của
một khoản đầu tư nào đó (ví dụ: mua sắm tài
sản, đầu tư vào dự án) được kỳ vọng bởi nhà
đầu tư. Nghĩa là, với tỷ lệ sinh lợi đó (cũng
thường được diễn đạt là nếu được bù đắp với tỷ
lệ đó), thì việc nhà đầu tư nhận được các khoản
thu nhập (hay bỏ ra các chi phí) ở thời điểm
hiện tại và các thời điểm nào đó trong tương lai
(hoặc quá khứ) là như nhau. Do vây, tỷ lệ chiết
khấu danh nghĩa được nhà đầu tư kỳ vọng bao
gồm ba bộ phận:
1) Phần bù đắp/phần thưởng cho nhà đầu tư
khi họ quyết định hi sinh tiêu dùng hiện tại để
đầu tư trong điều kiện chắc chắn, hoàn toàn
không có rủi ro, không lạm phát - tỷ lệ sinh lợi
thực tế - real interest rate.
2) Phần bù đắp cho rủi ro từ mất giá của
đồng tiền theo thời gian : tức tỷ lệ lạm phát -
inflation rate
3) Phần bù đắp cho rủi ro đi liền với các đầu
tư cụ thể nào đó, có mức rủi ro cao hơn so với
mức sinh lợi trong điều kiện chắc chắn – risk
premium. Để thuận tiện cho việc diễn đạt,
chúng tôi tạm gọi bộ phận này là “tỷ lệ đền bù
rủi ro” (tính bằng tỷ lệ phần trăm).
Nếu đơn giản hoá việc tính toán, tỷ lệ chiết
khấu – trong trường hợp cần tính đến đầy đủ
các bộ phận – sẽ là:
R= rr +ri+rp = i +rp
Với: R, rr, ri, rp lần lượt là tỷ lệ chiết khấu, tỷ
lệ lãi suất thực tế, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ bù đắp
rủi ro, i là lãi suất danh nghĩa của ngân hàng
Hai bộ phận 1) và 2) là các khái niệm quen
thuộc (để ý rằng hai bộ phận này cấu thành nên
lãi suất tín dụng ngân hàng). Số liệu về các bộ
phận này hoàn toàn có thể tra cứu từ các nguồn
báo cáo thống kê, còn bộ phận thứ 3 phức tạp
hơn, cả về khái niệm và cách tính toán, xác định.
Về khái niệm, trong các mô hình tài chính,
rủi ro được định nghĩa theo các quan điểm
khác nhau, nhưng các điểm chung từ các quan
điểm đó là:
- Rủi ro trong đầu tư được xác định như là
sự khác biệt giữa mức sinh lợi thực tế và mức
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2014 105
sinh lợi dự tính/kỳ vọng của đầu tư đó, một
đầu tư nào đó có khả năng khác biệt này càng
lớn thì mức rủi ro càng cao.
- Rủi ro được chia thành hai bộ phận: i) các
rủi ro cá biệt hay rủi ro không hệ thống: là các
rủi ro gắn với các đặc điểm riêng biệt của loại
hình/lĩnh vực đầu tư cụ thể nào đó. (đi liền với
các đầu tư cụ thể), loại rủi ro này có thể loại
trừ bằng đa dạng hoá đầu tư, và ii) các rủi ro
chung của thị trường hay còn gọi là rủi ro hệ
thống, loại rủi ro này không loại trừ được bằng
đa dạng hoá. Tỷ lệ đền bù rủi ro được xác định
đối với loại rủi ro hệ thống.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến độ lớn
của phí đền bù rủi ro của một loại đầu tư nào
đó bao gồm (Damodaran, 2011):
- Mức độ “ghét rủi ro” (risk aversion) của
nhà đầu tư, đến lượt nó, mức độ ghét rủi ro của
các nhà đầu tư lại phụ thuộc vào các nhân tố
như độ tuổi, độ ưa thích tiêu dùng hiện tại
- Tính ổn định có thể dự báo được của nền
kinh tế
- Mức độ tiếp cận thông tin của nhà đầu tư
- Khả năng thanh khoản của đầu tư
Ngoài ra, độ lớn của phí đền bù rủi ro còn
phụ thuộc vào khả năng xảy ra các thảm hoạ,
các yếu tố liên quan đến tính hợp lý trong thái
độ, thói quen của các nhà đầu tư.
Về cách tính toán, xác định, có thể chia các
phương pháp xác định tỷ lệ phí đền bù rủi ro
thành ba nhóm:
- Các phương pháp khảo sát nhà đầu tư: dựa
vào kết quả khảo sát ý kiến đánh giá của các nhà
đầu tư, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu.
- Các phương pháp dựa vào số liệu lịch sử:
căn cứ vào mức độ sai khác giữa tỷ lệ sinh lợi
thực tế của thị trường rủi ro (ví dụ: thị trường
chứng khoán) và tỷ lệ sinh lợi của các đầu tư
chắc chắn (ví dụ: trái phiếu chính phủ) trong
quá khứ để xác định.
- Các phương pháp ước lượng dựa vào các
mức giá, lãi suất thị trường hiện tại, ví dụ: dựa
vào mức giá giao dịch hiện tại của một nhóm
cổ phiếu đại diện (S&P 500 chẳng hạn), mức
gia tăng cổ tức dự báo trong tương lai để tính
tỷ lệ lợi tức cổ phiếu, so sánh tỷ lệ lợi tức cổ
phiếu này với mức tỷ lệ sinh lợi chắc chắn để
xác định phí đền bù rủi ro.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định độ lớn các bộ phận trong tỷ lệ
chiết khấu
Định giá tài sản, phân tích dự án được tiến
hành trên cơ sở các lợi ích và chi phí (các
luồng thu nhập và chi phí) phát sinh trong
nhiều năm, do vậy, các tỷ lệ sinh lợi, tỷ lệ lạm
phát, tỷ lệ bù đắp rủi ro phải được xác định
trên cơ sở bình quân nhiều năm, không thể dựa
vào các tỷ lệ cá biệt của năm định giá. Để đơn
giản hóa việc xử lý các sai lệch từ các nguồn
số liệu được công bố, chúng tôi đề xuất xác
định giá trị các bộ phận trong tỷ lệ chiết khấu,
sử dụng số liệu của Ngân hàng thế giới, cụ thể:
- Tỷ lệ sinh lợi thực tế rr: rr = i – rp
Từ số liệu công bố của Ngân hàng thế giới
về lãi suất thực tế của các nước (tính bằng hiệu
số giữa lãi suất danh nghĩa của vốn vay và tỷ lệ
lạm phát tính theo chỉ số GDP điều chỉnh trong
10 năm gần đây (2002 – 2011), chúng tôi tính
được lãi suất thực tế bình quân của Việt Nam
là 2,84 %/năm (loại trừ hai năm đột biến có lãi
suất thực tế âm – năm 2008 và 2011, xem phụ
biểu 01).
- Tỷ lệ lạm phát rp:
Cũng từ số liệu của Ngân hàng thế giới về
tỷ lệ lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2002-
2011, loại trừ hai năm có tỷ lệ lạm phát đột
biến (2008:22,1%; 2011: 20,9%, phụ biểu 01),
tỷ lệ lạm phát bình quân là: 7,55%/năm
- Tỷ lệ bù đắp rủi ro rp
Hiện tại, theo hiểu biết của chúng tôi, chưa
có các kết quả nghiên cứu, khảo sát về tỷ lệ rủi
ro trong đầu tư ở Việt Nam, tuy nhiên, một
trong các kết quả nghiên cứu có sức thuyết
phục về chỉ số này là kết quả nghiên cứu về tỷ
lệ chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư từ khảo
sát 82 quốc gia (trong đó có Việt Nam) được
tiến hành bởi nhóm tác giả thuộc Trường Quản
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2014 106
trị IESE, Đại học Navarra, Tây Ban Nha năm
2012 (với 6.014 câu trả lời), theo đó, tỷ lệ rủi
ro phổ biến đước chấp nhận bởi các nhà đầu tư
ở các nước phát triển dao động trong khoảng
khá nhỏ: 5,5-6%, còn ở các nước đang phát
triển biến động lớn hơn, phổ biến trong khoảng
8-12%. Các câu trả lời về tỷ lệ mong đợi về bù
đắp rủi ro ở Việt Nam trong nghiên cứu này là
10,8% (Phụ biểu 02). Do vậy, theo chúng tôi,
trong các tính toán, phân tích, có thể có thể
chọn mức tỷ lệ bù đắp rủi ro là 10%.
3.2. Lựa chọn các bộ phận để tính toán tỷ lệ
chiết khấu
Từ việc làm rõ các bộ phận cấu thành của tỷ
lệ chiết khấu danh nghĩa trên đây, việc xác
đinh, lựa chọn đưa bộ phận nào vào tỷ lệ chiết
khấu để quy đổi giá trị của dòng tiền phải được
quyết định tùy thuôc vào loại giá cả sử dụng và
mục tiêu/bản chất của việc quy đổi trong tính
toán định giá tài sản hoặc phân tích dự án.
- Đối với các dòng thu nhập ròng trong
tương lai được tính theo giá cố định – mức giá
ở thời điểm hiện tại (đây là trường hợp phổ
biến) ví dụ: định giá đất, định giá rừng theo
phương pháp thu nhập, tính toán các chỉ tiêu
NPV, IRR, BCR trong phân tích dự án, các
dòng chi phí và thu nhập là các chi phí và thu
nhập tương lai, nhưng sử dụng giá cố định (giá
cả của các đầu vào, đầu ra của năm hiện tại),
nghĩa là đã loại trừ ảnh hưởng của lạm phát.
Do vây, tỷ lệ chiết khấu sử dụng phải chỉ bao
gồm bộ phận thứ nhất và thứ ba trong tỷ lệ
chiết khấu danh nghĩa nói trên, không bao gồm
tỷ lệ lạm phát:
R=rr+rp
- Đối với các dòng thu nhập và chi phí trong
tương lai được tính theo giá dự báo (thương
được thực hiện chủ yếu bằng cách đơn giản là
điều chỉnh giá ở thời điểm hiện tại theo tỷ lệ
lạm phát dự báo), thì tỷ lệ chiết khấu phải bao
gồm đầy đủ cả ba bộ phận nói trên:
R= rr +ri+rp
- Đối với các dòng chi phí đã thực hiện
trong quá khứ, quy đổi về hiện tại, ví dụ trường
hợp định giá rừng, định giá bất động sản theo
phương pháp chi phí, các chi phí mà nhà đầu
tư đã bỏ ra là chi phí thực tế (các chi phí được
tính theo giá thực tế của năm phát sinh), và họ
mong đợi được bù đắp lại lượng giá trị tương
ứng với lượng đầu tư thực tế đó, bao gồm phần
thưởng cho đầu tư (kể cả phần mạo hiểm chấp
nhận rủi ro) nghĩa là tỷ lệ sinh lợi thực tế và tỷ
lệ rủi ro, và mất mát do lạm phát. Do vậy, tỷ lệ
chiết khấu phải bao gồm đầy đủ ba bộ phận:
R= rr +ri+rp
IV. KẾT LUẬN
Tỷ lệ chiết khấu sử dụng khi quy đổi giá trị
của các luồng tiền ở các thời điểm khác nhau
về thời điểm hiện tại (sử dụng phổ biến trong
định giá đất, định giá rừng và phân tích dự án)
với bản chất là tỷ lệ sinh lợi mong đợi của nhà
đầu tư bao gồm ba bộ phận: tỷ lệ sinh lợi thực
tế, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ đền bù rủi ro. Việc
lựa chọn bộ phận nào đưa vào tỷ lệ chiết khấu
phụ thuộc vào loại giá cả sử dụng trong phân
tích và tuỳ thuộc vào phương pháp định giá,
không thể đơn thuần sử dụng một loại tỷ lệ
chiết khấu, và càng không thể coi lãi suất của
thị trường tín dụng là tỷ lệ chiết khấu.
Độ lớn của mỗi bộ phận trong tỷ lệ chiết
khấu nói trên cần được xác định trên cơ sở
bình quân trong một thời kì tương đối dài (5-10
năm), không thể sử dụng số liệu của năm định
giá/năm phân tích dự án để tính toán định giá
hoặc phân tích dự án.
Các điều chỉnh nói trên, theo chúng tối, là
hết sức cần thiết trong sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp quy về phương pháp định giá đất,
định giá rừng, định giá bất động sản hiện hành
để đảm bảo cơ sở khoa học của phương pháp
định giá, tránh các tuỳ tiện, không thống nhất
về phương pháp và kết quả định giá.
Ngoài ra, các thu thập, phân tích của chúng
tôi từ các nguồn đáng tin cậy cho thấy, độ lớn
của các bộ phận trong tỷ lệ chiết khấu: có thể
sử dụng trong tính toán định giá, phân tích dự
án hiện nay ở Việt Nam là: tỷ lệ sinh lợi thực
tế: 2,5 – 3%; tỷ lệ lạm phát: 7,5%; tỷ lệ bù đắp
rủi ro: 10%.
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2014 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2004) Nghị định số 188/2004-NĐ-CP
ngày 16/11/2004 về Phương pháp xác định giá đất và
khung giá các loại đất.
2. Chính phủ (2007) Nghị định số 123/2007-NĐ-CP
ngày 27/7/2007 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
3. Chính phủ (2007), Nghị định số 48/2007-NĐ-CP
ngày 28/3/2007 về nguyên tắc và phương pháp xác định
giá các loại rừng.
4.
5. Damodaran. A, (2011). Equity Risk Premiums
(ERP): Determinants, Estimation and Implications –
The 2011 Edition, Stern School of Business
6. Fernandez,P et al. (2012). Market Risk Premium
used in 82 countries in 2012: a survey with 7192
answer. Working Paper, IESE Business School,
University of Nevarra, Spain.
7. Scorgie, M. E. (1996). “Evolution of the
application of present value to valuation of non-
monetary resources”. Accounting and Business
Research, 26(3), pp. 237–248.
IDENTIFICATION DISCOUNT RATE
IN ASSET PRICING AND PROJECT ANALYSIS
Nguyen Quang Ha
SUMMARY
In the current documents relating to land pricing, forest pricing, and cost – benefit analysis in project
management, discount rate is commonly referred to (normal) interest rate that prevalence in the credit market at
the year of pricing/analysis taken place. That knowledge, according to the author, is not correct, leading to
significant mistakes in pricing and analysis outcomes, in particular, in the period with big fluctuation of
inflation rate such as the period 2009-2012 in Vietnam. The author shows that discount rate, by its nature, is
expected returns of the investors, and hence, in general, consists of three components: i) real interest rate; ii)
inflation rate; and iii) risk premium. However, the decision on which components should be included in the
discount rate should be made relevant to the type of price used in the analysis: fixed price or current price. A
part from that, the magnitude of each component should be identified based on their average value in a
relatively long period, instead of based on that of specific year, in which the analysis taken place. The author
recommends that making the above amendments in current literature and legal documents relating to discount
rate is necessary to ensure a more accurate and consistent outcome in real estate pricing and project analysis
Key word: Asset pricing, discount rate, interest rate, project analysis
Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Văn Tuấn
Ngày nhận bài: 28/02/2014
Ngày phản biện: 02/3/2014
Ngày quyết định đăng: 07/3/2014
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2014 108
Phụ biểu 01. TỶ LỆ LÃI SUẤT THỰC TẾ, TỶ LỆ LẠM PHÁT
VIỆT NAM, THỜI KỲ 2002 - 2011
Năm Lãi suất thực tế (%/năm) Tỷ lệ lạm phát (%/năm)
2002 4,9 3,9
2003 2,6 6,7
2004 1,4 8,2
2005 2,6 8,2
2006 3,6 7,3
2007 2,7 8,2
2008 -5,2 22,1
2009 3,8 6
2010 1,1 11,9
2011 -3,2 20,9
Bình quân 2,84 7,55
Nguồn: World Bank (
Phụ biểu 02. KỲ VỌNG VỀ TỶ LỆ BÙ ĐẮP RỦI RO CỦA THỊ TRƯỜNG (MRP)
Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
Nước MRP Nước MRP
Philipines 7,4 United State 5,5
Thailand 8,1 Spain 6
Indonesia 8,1 Germany 5,5
China 8,7 UK 5,6
Pakistan 9,5 Italy 5,6
Vietnam 10,8 Japan 5,5
Nguồn: Pablo Fernandez, Javier Aguirreamalloa and Luis Corres (2012) “Market Risk Premium
used in 82 countries in 2012: a survey with 7,192 answers”, IESE Business School, June 19, 2012.
Kinh tÕ & ChÝnh s¸ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_ty_le_chiet_khau_trong_dinh_gia_tai_san_va_phan_tic.pdf