KẾT LUẬN
Hồng cầu gà là nguyên liệu thích
hợp cho phản ứng HA bởi virus parvo chó
(CPV) cũng như trong phản ứng phái sinh
HI (xác định hiệu giá kháng thể đặc hiệu
CPV) và SSDHI (xác định sự hiện diện của
kháng nguyên CPV trong bệnh phẩm) dù
có sự khác biệt không nhỏ trong biểu hiện
giá trị HA và HI so với hồng cầu lợn được
sử dụng trong các nghiên cứu của các tác
giả trước. Các yếu tố liên quan đến các
phản ứng xét nghiệm này vì vậy cần được
chuẩn hóa để có thể tham chiếu.
Việc phát hiện parvovirus chó có
thuộc tính gây ngưng kết hồng cầu gà ổn
định và không bị tác động xấu của các yếu
tố ức chế không đặc hiệu trong huyết thanh
chó là quan trọng giúp phát triển một hệ
thống xét nghiệm mới khảo sát miễn dịch
và mang trùng, hệ thống HA-HI-SSDHI,
đối với parvovirus chó (CPV), cho kết quả
nhanh và chủ động về nguồn vật liệu nên
có giá thành thấp.
Mức hiệu giá kháng thể 4 log2 HI
theo quy trình mô tả ở nghiên cứu này (với
huyền dịch hồng cầu gà 1%, virus vaccine
CPV 4 HAU, đều với lượng 25 μL) được
xác định là thông số chỉ báo bảo hộ miễn
dịch ở chó chống bệnh CPV.
Vaccine CPV sử dụng ở khu vực
nghiên cứu có hiệu quả tốt.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác lập thông số chỉ báo mức bảo hộ miễn dịch của kháng thể chống bệnh do parvovirus (CPV) trong huyết thanh chó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2129-2139
2129
XÁC LẬP THÔNG SỐ CHỈ BÁO MỨC BẢO HỘ MIỄN DỊCH CỦA
KHÁNG THỂ CHỐNG BỆNH DO PARVOVIRUS (CPV) TRONG
HUYẾT THANH CHÓ
Phạm Hồng Sơn*, Ngô Thị Thanh Trà
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế.
*Tác giả liên hệ: sonphdhnl@huaf.edu.vn
Nhận bài: 08/09/2020 Hoàn thành phản biện: 18/10/2020 Chấp nhận bài: 29/10/2020
TÓM TẮT
Được coi là “tiêu chuẩn vàng” trong đánh giá miễn dịch đặc hiệu nhưng phản ứng ngăn trở
ngưng kết hồng cầu (HI) chưa được vận dụng trong thực tế để kiểm soát chất lượng vaccine phòng
bệnh CPV ở chó. Hơn nữa, hiệu giá kháng thể huyết thanh trong các xét nghiệm HI thường nhật của
chúng tôi thường thấp hơn mức một số nhóm trước đây sử dụng làm ngưỡng bảo hộ miễn dịch đã đòi
hỏi thiết lập lại quy trình. Trong nghiên cứu này, phản ứng ngưng kết hồng cầu (HA) và HI được thực
hiện với thể tích 25 μL các thành phần gồm dung dịch NaCl 0,9%, dịch hồng cầu gà 1%, dịch virus
vaccine CPV hiệu giá 04 HAU và huyết thanh nguyên dạng của chó tiêu chảy xuất huyết. Đối chiếu
các kết quả HI huyết thanh với kết quả phát hiện kháng nguyên CPV trong phân theo từng cá thể đã
xác minh mức kháng thể HI 4 log2 trở lên theo quy trình này là một chỉ báo trạng thái bảo hộ miễn
dịch chống CPV ở chó. Nghiên cứu cũng cho thấy vaccine CPV sử dụng tại khu vực thành phố Huế
có hiệu lực, như cường độ miễn dịch ở nhóm chó đã từng được tiêm vaccine (60,59 HIU) cao hơn (P
< 0,001) so với nhóm chưa tiêm (6,73 HIU). Tương tự, tỷ lệ chó mắc bệnh CPV (có virus này trong
phân) ở nhóm đã từng được tiêm vaccine (2,63%) thấp hơn (P < 0,001) so với nhóm chưa tiêm
(59,38%).
Từ khóa: Bảo hộ miễn dịch, Chó, Huyết thanh, Parvovirus, Tiêu chảy
DETERMINATION OF A PARAMETER INDICATING PROTECTIVE
LEVELS OF IMMUNE ANTIBODIES IN DOGS’ SERA AGAINST CANINE
PARVOVIRUS (CPV)
Pham Hong Son*, Ngo Thi Thanh Tra
University of Agriculture and Forestry, Hue University
ABSTRACT
Though considered as “the gold standard” for evaluation of specific immunity, the reaction of
haemagglutination inhibition (HI) is still not applied in practice for controlling the quality of CPV
vaccination in dogs. Moreover, that serum antibody titers in our routine HI tests are often much lower
than the level previous authors applied as the threshold of immune protection requested re-
establishing the procedures. In this research, the techniques of haemagglutination (HA) and HI
reactions were performed with the same pipette volumes of 25 μL of 0.9% saline solution, chicken red
blood cell 1% suspension, CPV vaccine virus of 4 HAU titre and untreated sera of haemorrhagic
diarrhea-suffered dogs. Individually matching the serum antibodies and faecal CPV antigens
suggested that, according to this protocol, the level of 4 log2 HI of serum antibody titer be an indicator
of protective immune status of dogs against CPV. The study also showed that the CPV vaccines used
in the studied region were effective as the immune intensity in vaccinated dogs was much higher
(60.59 HIU) than (P < 0.001) in unvaccinated dogs (6.73 HIU). In addition, the rate (2.63%) of dogs
contracted with CPV (having the virus in their faeces) amongst the vaccinated dogs was much (P <
0.001) lower than that (59.38%) of the unvaccinated ones.
Keywords: Diarrhea, Dog, Immune protection, Serum, Parvovirus
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3) 2020:2129-2139
2130 Phạm Hồng Sơn và Ngô Thị Thanh Trà
1. MỞ ĐẦU
Chó nuôi thường mắc khá nhiều loại
bệnh. Trong số các bệnh viêm ruột xuất
huyết ở chó, bệnh parvo ở chó do CPV
(Canine Parvovirus type 2) gây ra là bệnh
có tầm quan trọng toàn thế giới (Prettie,
2004). Với cấu trúc virion không có áo
ngoài và bộ gene là DNA một sợi tái sản tự
lập thuộc họ Parvoviridae (Siegl và cs.,
1985), parvovirus chó có tính đề kháng rất
cao với các điều kiện bất lợi của môi
trường nên bệnh lây lan trên diện rộng
trong các quần thể chó nhà và chó hoang
(Parrish, 1990). Chó bệnh thường viêm dạ
dày ruột, nôn mửa, tiêu chảy ra máu đưa
đến kết quả trầm trọng nếu không chữa trị
kịp thời (Phạm Sỹ Lăng và cs., 1998;
Nguyễn Văn Dũng và cs., 2018). Ở chó
gây nhiễm thực nghiệm không điều trị tỷ lệ
chết đạt đến 97% (Prettie, 2004). Bệnh lây
nhiễm nhanh, tỷ lệ chó nhiễm và tỷ lệ chó
chết khá cao, thường thấy ở trên chó non
từ 6 - 20 tuần tuổi và tập trung vào khoảng
08 tuần tuổi, thời điểm miễn dịch thụ động
từ sữa mẹ đã hết mà cơ thể chó con chưa tự
tạo miễn dịch (Mahon và cs., 2017). Việc
kiểm tra kháng thể huyết thanh chó con
trước khi tiêm vaccine nhằm tránh được
tác động bất lợi của kháng thể thụ động từ
sữa mẹ đến vaccine cũng như để đánh giá
chất lượng tiêm vaccine phòng bệnh cho
đàn là rất cần thiết. Tiêm vaccine để phòng
bệnh CPV cho chó được xác định là biện
pháp phòng bệnh hữu hiệu. Hiện nay, tuy
thị trường đã có một số loại vaccine phòng
bệnh CPV, nhưng chúng ta còn chưa có
nghiên cứu tại chỗ về hiệu quả của vaccine
sau khi tiêm cho chó. Việc mặc định rằng
đã tiêm vaccine là có hiệu lực, tức chó đã
được miễn dịch, có thể dẫn đến những hậu
quả đáng tiếc do hiệu quả miễn dịch sau
tiêm vaccine phụ thuộc vào chất lượng
vaccine, chế độ bảo quản, liều tiêm và
kỹ thuật tiêm. Chó đã được tiêm vaccine
mà không có miễn dịch bảo hộ có nguy cơ
nhiễm bệnh cao do không được áp dụng
biện pháp khác để phòng bệnh, đặc biệt ở
các trung tâm điều trị bệnh thú cưng. Dù
rất cần thiết, việc kiểm tra miễn dịch sau
tiêm vaccine bằng các xét nghiệm hiện có
trong thú y như phương pháp ELISA
(Waner và cs., 1996) hay sắc ký miễn dịch
(Oh và cs., 2006) trong nghiên cứu dịch tễ
học quy mô mẫu lớn còn hạn chế, chủ yếu
do sinh phẩm thiết yếu không có sẵn nên
giá thành cao và thiếu chủ động. Trong bối
cảnh đó, chúng tôi đã chọn sử dụng kỹ
thuật ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI) để
nghiên cứu đánh giá miễn dịch ở chó
chống CPV như đã áp dụng đánh giá đáp
ứng miễn dịch của các động vật đối với các
virus có thuộc tính ngưng kết hồng cầu
(virus HA) đã được biết (Phạm Hồng Sơn
và Nguyễn Thị Ngọc Hiền, 2017; Lê Đình
Quang và cs., 2018; Phan Ngọc Tuyết và
cs., 2018; Lê Duy Báu và cs., 2019).
Phương pháp HI được coi là “tiêu chuẩn
vàng” (the gold standard) đối với các xét
nghiệm định lượng kháng thể (Prittie,
2004; Oh và cs., 2006). Tuy nhiên, ngưỡng
hiệu giá kháng thể chỉ thị bảo hộ miễn dịch
là vấn đề rất đáng quan tâm. Một số nghiên
cứu về tác động ức chế miễn dịch đặc hiệu
sau tiêm vaccine bởi kháng thể thụ động
qua sữa mẹ bằng phản ứng HI với hồng
cầu lợn và huyết thanh chó đã xử lý kaolin
(Carmichael và cs., 1980; Pollack và
Carmichael, 1982) đã suy định và áp dụng
mức hiệu giá HI 1:80 làm mức tiêu chuẩn
bảo hộ miễn dịch ở chó chống lại virus
này. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu khác
(Mahon và cs., 2017) nếu lấy mức hiệu giá
HI của kháng thể huyết thanh là 1:80, tức
huyết thanh chứa ít nhất 80 đơn vị ngăn trở
ngưng kết hồng cầu (80 HIU) trong mỗi
đơn vị thể tích tham gia phản ứng, làm
mức chuẩn của nồng độ kháng thể bảo hộ
thì có sự bất cập. Xét nghiệm với kỹ thuật
HI tương tự đã cho thấy chỉ có 81%
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2129-2139
2131
(65/80) chó đang được điều trị tích cực tại
trung tâm thú y đạt mức kháng thể bảo hộ
miễn dịch chống CPV mặc dù trước đó
chúng đã được tiêm phòng bệnh này.
Trong quy trình đó, việc xử lý huyết thanh
chó bằng kaolin trước khi thực hiện phản
ứng xét nghiệm HI (Carmichael và cs.,
1980; Pollack và Carmichael, 1982;
Mahon và cs., 2017) làm mất nhiều thời
gian và đòi hỏi lượng huyết thanh lấy từ
động vật phải nhiều hơn mức cần thiết.
Ngoài ra, do việc xử lý làm loãng huyết
thanh nên nguồn huyết thanh thu được
không còn thích hợp cho xét nghiệm phát
hiện kháng nguyên virus với mục đích
chẩn đoán bệnh cảm nhiễm các virus HA ở
động vật (Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Thị
Ngọc Hiền, 2017; Phan Ngọc Tuyết và cs.,
2018; Lê Duy Báu và cs., 2019). Những
bất cập đó đã thúc đẩy chúng tôi phải tìm
loại hồng cầu mới phù hợp hơn, có thể
thực hiện trực tiếp với huyết thanh không
qua xử lý. Từ đó, việc phát hiện kháng
nguyên Parvovirus trong bệnh phẩm bởi
kỹ thuật trắc định xê lệch ngăn trở ngưng
kết hồng cầu trực tiếp chuẩn (SSDHI)
(Nguyễn Thị Hoàng Oanh và cs., 2012;
Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Thị Ngọc
Hiền, 2017; Phan Ngọc Tuyết và cs., 2018;
Lê Duy Báu và cs., 2019) cũng đã được
thực hiện thành công với đối chứng dương
tính là parvovirus vaccine. Bằng 02 kỹ
thuật HI và SSDHI, chúng tôi đã xét
nghiệm xác định hiệu giá kháng thể trong
huyết thanh và kháng nguyên Parvovirus
chó trong dịch chiết từ phân của chó bệnh
tiêu chảy xuất huyết. Từ các kết quả xét
nghiệm mẫu bắt cặp kháng nguyên - kháng
thể của từng cá thể chó, chúng tôi đã xác
định giá trị ngưỡng hiệu giá kháng thể HI
trong huyết thanh chó nguyên dạng ứng
với mức bảo hộ miễn dịch của chó. Đồng
thời, với ngưỡng bảo hộ được xác lập đó,
hiệu quả tiêm vaccine CPV trên địa bàn
nghiên cứu đã được đánh giá.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá khả năng sử dụng hồng
cầu gà trong việc thực hiện phản ứng
ngưng kết hồng cầu (HA) với virus vaccine
parvo chó (Biocan P, dạng lỏng) trong
thành phần của vaccine Biocan Puppy Inj.
(Bioveta, Szech, do Công ty Greenvet định
dạng và cung cấp, hay Biocan Puppy Inj.,
Bioveta - Greenvet).
- Xác định hiệu giá kháng thể trong
huyết thanh và sự có mặt của parvovirus
trong phân chó tiêu chảy đã tiêm vaccine
và chưa tiêm vaccine.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Hồng cầu thu từ máu gà trống
trưởng thành.
Chó trên 03 tháng tuổi (để chắc chắn
không còn chịu ảnh hưởng của kháng thể
thụ động từ sữa mẹ) nuôi trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế được đưa đến điều trị ở
Trung tâm Chẩn đoán và Điều trị động vật
thuộc Chi cục Thú y tỉnh Thừa Thiên Huế
trong giai đoạn nghiên cứu (từ tháng 07
năm 2019 đến tháng 01 năm 2020) vì lý do
tiêu chảy xuất huyết nghi mắc bệnh CPV.
2.2.2. Thiết bị và vật liệu nghiên cứu
Dụng cụ chủ yếu của phản ứng là
pipet tự động có cỡ thuận tiện cho việc hút
và chuyển 25 µL và khay vi chuẩn độ
(microtitration plate) 96 lỗ đáy U. Vật liệu
chủ yếu cho phản ứng gồm dung dịch sinh
lý NaCl (NaCl 0,9% trong nước), dung
dịch chống đông máu (natri citrate 3%),
vaccine bệnh parvovirus chó (parvo virus
enteritidis canis) vô hoạt (thành phần P của
vaccine Biocan Puppy Inj., Bioveta -
Greenvet, dạng lỏng), huyền dịch hồng cầu
gà 1%. Đồng thời thành phần D (virus
febris contagiose canis vaccine, đông khô)
của vaccine cũng được sử dụng làm nguồn
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3) 2020:2129-2139
2132 Phạm Hồng Sơn và Ngô Thị Thanh Trà
kháng nguyên virus làm đối chứng cho kết
quả phản ứng HA của virus vaccine CPV).
2.2.3. Lấy mẫu xét nghiệm
Hồng cầu gia cầm được lấy từ tĩnh
mạch cánh vào bơm tiêm chứa dung dịch
chống đông máu tại phòng thí nghiệm hoặc
thu tại lò mổ bằng cách hứng các bình
chứa dung dịch chống đông máu dưới
dòng máu gia cầm bị cắt tiết, lắc nhẹ cho
trộn đều với chất chống đông máu. Thêm
dung dịch sinh lý muối, trộn đều và quay
ly tâm 2.000 vòng/phút trong 02 phút để
giữ lại cặn tế bào ở đáy ống. Lặp lại việc
trộn dịch sinh lý và rửa 02 lần nữa. Sau khi
quay ly tâm lần cuối, một thể tích hồng cầu
được hút từ đáy ống nghiệm bằng pipet và
pha vào 100 thể tích dung dịch sinh lý.
Huyết thanh chó được chiết theo cá
thể từ máu được lấy từ tĩnh mạch cảnh và
cho máu đông dọc thành ống bơm tiêm đến
khi huyết thanh tách ra thì rót vào ống
Eppendorf và bảo quản tủ lạnh ở âm 10oC
cho đến khi làm xét nghiệm.
Phân chó tiêu chảy được lấy vào bao
PE và thêm vào đó một lượng nước cất
tương đương, vò từ phía ngoài bao bằng
các đầu ngón tay cho phân trộn đều, để
nghiêng cho dịch chảy sang một góc bao,
hút 1,0 mL vào ống Eppendord và quay ly
tâm ở 15.000 vòng/phút trong 05 phút rồi
hút lấy 0,1 mL dịch trong suốt chuyển sang
một ống mới để làm nguyên liệu xét
nghiệm hoặc nắp kín để bảo quản ở âm
10oC cho đến khi xét nghiệm.
Ngoài ra, trong quá trình lấy mẫu,
các thông tin liên quan đến chó được lấy
mẫu như tính biệt, tuổi, cân nặng, tiêm
phòng, hình thức nuôi được thu thập
kèm theo. Trước khi xét nghiệm, các mẫu
huyết thanh và dịch phân được để rã đông
hoàn toàn ở nhiệt độ phòng và trộn đều.
2.3. Tiến trình thí nghiệm
2.3.1. Kiểm tra thuộc tính ngưng kết hồng
cầu (HA) của virus vaccine cần kiểm
Phản ứng ngưng kết hồng cầu (HA)
được thực hiện với 25 µL các yếu tố: dung
dịch sinh lý, huyền dịch hồng cầu gà 1%
và dịch virus vaccine cần kiểm có bố trí
đối chứng âm tính ở hai lỗ cuối cùng (số
11 và 12) như đã mô tả trước đây (Phạm
Hồng Sơn và Nguyễn Thị Ngọc Hiền,
2017). Khi ở hai lỗ số 11 và 12 các hồng
cầu chìm ở tâm đáy tạo thành chấm đỏ thì
đọc kết quả của dãy phản ứng ở các lỗ còn
lại. Hiệu giá ngưng kết hồng cầu (HA) của
dịch virus gốc được xác định là độ pha
loãng lớn nhất của dịch virus còn cho kết
quả tương phản với lỗ 11 và 12. Đại lượng
này là số đơn vị ngưng kết hồng cầu, hay
số HAU, biểu hiện số lượng tối thiểu các
thể tích 25 µL có thể pha được từ dịch
virus (vaccine) gốc đủ để làm lượng 0,25
mg tế bào hồng cầu trong 25 µL huyền
dịch (mỗi lỗ) kết nối với nhau thành mạng
lưới (ngưng kết) chắc chắn.
2.3.2. Phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng
cầu (HI) kiểm tra hiệu giá kháng thể huyết
thanh
Phản ứng HI sử dụng kháng nguyên
virus vaccine 4 HAU, huyền dịch hồng cầu
1% và dung dịch sinh lý NaCl để pha
loãng mẫu huyết thanh cần kiểm như đã
mô tả trước đây (Phạm Hồng Sơn và
Nguyễn Thị Ngọc Hiền, 2017) với lượng
đồng nhất 25 µL dung dịch sinh lý, huyết
thanh cần kiểm, dịch virus vaccine 4 HAU
và dịch hồng cầu gà 1% từ phản ứng HA
từ mục trên. Các lỗ số 11 và 12 được sử
dụng để xác định thời điểm đọc phản ứng,
lỗ thứ 10 không có huyết thanh để làm đối
chứng 4 HA. Phản ứng HI dương tính có
biểu hiện tương tự ở lỗ số 11 và 12.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2129-2139
2133
2.3.3. Phản ứng trắc định xê lệch ngăn trở
ngưng kết hồng cầu trực tiếp chuẩn
(SSDHI)
Ngoài huyền dịch hồng cầu gà 1%
và virus vaccine 4 HAU nêu trên, phản
ứng SSDHI còn cần có thêm dịch huyết
thanh có nồng độ 4 log2 HI được điều
chỉnh đến gần mức 16 đơn vị HI, hay 16
HIU, với khoảng xê lệch 10% (tức khoảng
16 - 17,6 HIU). Để có kháng huyết thanh
này chúng tôi đã tiêm vaccine CPV (thành
phần P của Biocan Puppy Inj., Bioveta -
Greenvet) cho chó ba lần, hai lần tiêm đầu
tiên cách nhau 04 tuần, lần cuối cách lần
trước đó 7 ngày và lấy máu để thu huyết
thanh vào ngày thứ 10 sau lần tiêm cuối
cùng. Phản ứng SSDHI được thực hiện với
dịch chiết từ phân chó trên khay vi chuẩn
độ 96 lỗ được đặt dọc để có 12 dãy mỗi
dãy 8 lỗ, trong đó 11 dãy được dùng cho
phản ứng xét nghiệm mẫu cần kiểm và một
dãy còn lại dành cho mẫu đối chứng âm
tính. Dãy đối chứng âm tính có phản ứng
HI được thực hiện lại với kháng huyết
thanh chuẩn 4 log2 HI. Các dãy kiểm khác
với dãy chuẩn ở chỗ 25 µL dung dịch sinh
lý ở lỗ thứ nhất được thay thế bằng 25 µL
dịch phân chó trước khi cho 25 µL huyết
thanh chuẩn 4 log2 HI vào dãy lỗ này để
tiếp tục các thao tác thực hiện lại HI.
2.4. Xử lý số liệu
Tỷ lệ chó nhiễm parvovirus và chó
có kháng thể CPV được tính từ thương số
của tổng các cá thể dương tính so với tổng
số mẫu được xét nghiệm. Giá trị trung bình
nhân hiệu giá kháng thể (GMT) được tính
toán qua đại lượng trung bình cộng các giá
trị logarit hóa của hiệu giá từng mẫu kiểm,
tức , trong
đó T1, T2, Tn là hiệu giá các mẫu. Giá trị
này được sử dụng như cường độ miễn dịch
quần thể (miễn dịch đàn) của chó tại địa
bàn nghiên cứu (Surin và cs., 1986). Sự
khác biệt giữa các tỷ lệ được kiểm định
theo giá trị P từ chisq.test (Snedecor và
Cochran, 1980). Chỉ số hiệu giá kháng thể
bảo hộ miễn dịch được xác định bằng cách
xác định biên độ của hiệu giá kháng thể
trong huyết thanh của nhóm chó tiêu chảy
mang virus. Giá trị hiệu giá kháng thể cao
hơn biên độ đó được coi là mức hiệu giá
kháng thể bảo hộ.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả khảo sát thuộc tính ngưng
kết của CPV với hồng cầu gà
Qua nhiều lần lặp lại việc trộn dãy
pha loãng dịch virus vaccine với hồng cầu
trên những dãy lỗ khay vi chuẩn độ (Bảng
1 và ảnh trên bên trái ở Hình 1) chúng tôi
khẳng định virus parvo chó (CPV) gây
ngưng kết hồng cầu gà trống trưởng thành
một cách chắc chắn, không bị ảnh hưởng
bởi yếu tố cá thể gà.
Hình ảnh cho thấy với thể tích đồng
đều 25 μL dịch hồng cầu gà 1% và virus
vaccine CPV pha loãng dần, biểu hiện của
phản ứng HA âm tính rõ ràng, kết quả
dương tính tương phản. Phản ứng này thể
hiện hiệu giá kháng nguyên virus vaccine
CPV ở mức 4 log2 HA (16 HAU). Phản
ứng kiểm tra hiệu giá 2 log2 HA thể hiện
rõ ràng hai lỗ đầu có ngưng kết và hai lỗ
sau không có ngưng kết. Trong ảnh dưới
cùng bên trái, hiệu giá kháng thể HI trong
huyết thanh chó có mức cao nhất là 8 log2
HI (hay 256 HIU). Kết quả phản ứng
SSDHI ở đây (ảnh bên phải) có 03 trong số
11 chó tiêu chảy xuất huyết có CPV trong
phân, trong đó có 02 mẫu phân xê lệch
sang trái 01 lỗ (1+) và 01 mẫu phân xê lệch
sang trái 02 lỗ (2+) thể hiện có virus đặc
hiệu.
Tất cả các lọ vaccine CPV đều
ngưng kết với tất cả các mẫu hồng cầu gà
trống được thử, với hiệu giá virus ở mức
ổn định, các lọ có biểu hiện 4 log2 HA
hoặc 5 log2 HA phụ thuộc vào lô huyền
dịch hồng cầu của gà (có thể do hút hồng
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3) 2020:2129-2139
2134 Phạm Hồng Sơn và Ngô Thị Thanh Trà
cầu có lẫn hay không lẫn nhiều dung dịch
sinh lý) mà không phụ thuộc vào lọ/lô
vaccine làm kháng nguyên virus, trong khi
các lô vaccine bệnh sài sốt chó không có
thuộc tính này một cách ổn định. Hồng cầu
gà trống tươi mới thu thập từ các điểm giết
mổ gia cầm cũng không cần phải xử lý đặc
biệt, chỉ bảo đảm vô trùng khi lấy máu vào
dung dịch chống đông máu, rửa với dung
dịch sinh lý muối và pha đúng tỷ lệ 1%
(theo thể tích) để có kết quả hiệu giá ổn
định qua các lần xét nghiệm.
Bảng 1. Kết quả biểu hiện hiệu giá virus trong một số lọ vaccine CPV và vaccine Carré theo phản ứng
ngưng kết với huyền dịch 1% hồng cầu từ máu của một số gà trống
Vaccine
Hiệu giá (log2) ngưng kết hồng cầu (HA) với đương lượng huyền dịch hồng cầu 1%
Gà 1 Gà 2 Gà 3 Gà 4 Gà 5
P1 4 4 4 4 5
P2 4 4 4 4 5
P3 4 4 4 4 5
P4 4 4 4 4 5
D1 0 0 0 0 0
D2 0 0 0 0 0
D3 0 0 0 0 0
D4 0 0 0 0 0
Từ kết quả thử thách các mẫu hồng
cầu với các mẫu virus vaccine chúng ta đã
có thể khẳng định huyền dịch hồng cầu gà
trống trong hỗn hợp dịch với virus CPV
luôn bị kết nối với nhau tạo mạng lưới đa
chiều và lơ lửng trong dịch sinh lý một
cách ổn định. Hiện tượng ngưng kết hồng
cầu (HA) của virus đã từng được sử dụng
như một phương tiện phát hiện và định
lượng virus trong dịch virus thuần khiết
(lứa cấy, vaccine) và xác định hàm lượng
kháng thể đặc hiệu chống virus dưới dạng
phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu
(HI) đã từ lâu (Hirst, 1941; Clarke và
Casals, 1958). Do phản ứng HA là thuộc
tính tự nhiên của một số virus đối với hồng
cầu một số động vật, còn liên kết kháng
nguyên-kháng thể trong phản ứng HI là
đặc hiệu và biểu hiện rõ ràng nên phản ứng
HI được coi là “tiêu chuẩn vàng” trong
việc xác định tình trạng miễn dịch chống
virus ở động vật. Với trường hợp
parvovirus chó, đây không phải là lần đầu
tiên áp dụng phản ứng HA và HI. Tuy
nhiên, đối với hồng cầu gà dưới dạng
huyền dịch 1% và lượng ổn định 25 μL
phản ứng với parvovirus và huyết thanh
chó sử dụng ở dạng nguyên sơ (không xử
lý) thì đây là lần đầu. Ưu điểm của hồng
cầu gà là loại hồng cầu có nhân này bền
hơn hồng cầu lợn và việc thu hoạch hồng
cầu từ máu gà giết mổ (ở gia đình, chợ và
điểm giết mổ) cũng dễ dàng hơn rất nhiều.
Kết quả như trình bày ở Bảng 1 và Hình 1
Hình 1. Kết quả các phản ứng HA (trên trái), HI (dưới trái) và SSDHI (phải)
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2129-2139
2135
(ảnh trên cùng ở bên trái) cho thấy với
nồng độ 1% và thể tích các thành phần đều
25 μL phản ứng HA thể hiện rõ ràng, dễ
đọc kết quả. Với lượng 25 μL hồng cầu
pha thêm vào dịch sinh lý ở lượng tương
đương, huyền dịch hồng cầu trở thành
0,5% đã thể hiện ngưng kết đồng đều ở
bốn lỗ đầu tiên. Ở lỗ thứ 05 (ảnh trên cùng
bên trái ở Hình 1) biểu hiện sa lắng tự
nhiên của hồng cầu không hoàn toàn như ở
các lỗ đối chứng âm tính (số 11 và 12)
chứng tỏ virus có nồng độ cao trên mức
trung gian để có những tế bào hồng cầu kết
nối với nhau qua một số lượng đủ lớn các
hạt virus, nhưng sự kết nối này thưa và chỉ
khi hồng cầu chìm xuống và tập trung lại
sát nhau hơn ở gần tâm đáy lỗ khay mới có
kết nối đủ dày để thể hiện sự khác biệt so
với các lỗ đối chứng âm tính. Trong những
trường hợp thế này, cần điều chỉnh giảm
nồng độ virus trong huyền dịch tham gia
phản ứng để không còn biểu hiện ngưng
kết trung gian khi áp dụng cho phản ứng
HI. Kết quả pha loãng virus với tỷ tệ 1/5
(01 phần virus gốc với 04 phần dung dịch
sinh lý) thay cho tỷ lệ 1/4 (01 phần virus
với 03 phần dung dịch sinh lý) để chuyển
từ hiệu giá 4 log2 HA về hiệu giá 2 log2
HA đã cho kết quả phản ứng 2 log2 HA có
sự khác biệt rõ ràng giữa ngưng kết và
không ngưng kết (ảnh giữa bên trái ở Hình
1) đã chứng tỏ điều đó. Tuy vậy, cũng còn
có một điểm cần lưu ý khác là huyền dịch
hồng cầu gà 1% ở đây cho kết quả hiệu giá
HA virus vaccine (16 HAU và 32 HAU)
thấp hơn nhiều so với hiệu giá tối thiểu
1024 HAU (tức 10 log2 HA) do nhà sản
xuất công bố. Điều này có thể do bề mặt tế
bào hồng cầu gà có nhiều thụ thể hấp thụ
virus parvo hơn so với bề mặt tế bào lợn.
Bên cạnh đó, việc sử dụng huyền dịch
hồng cầu có nồng độ thấp, thường 0,5%,
đều đòi hỏi phải tăng thể tích các thành
phần phản ứng đến 50 - 100 μL để có đủ
lượng tế bào hồng cầu cần thiết cho việc
quan sát sự sa lắng. Khi đó, do thể tích
vaccine tăng tương đương trong khi diện
tích bề mặt tổng số hồng cầu trong mỗi
đơn vị thể tích huyền dịch giảm nên hấp
phụ ít hạt virus hơn. Điều đó dẫn đến làm
tăng trị số biểu hiện hiệu giá virus. Từ thí
nghiệm này và từ số liệu do hãng sản xuất
công bố, có thể ước tính số lượng hạt virus
hấp phụ bởi tế bào hồng cầu gà nhiều gấp
khoảng 10 - 20 lần so với số lượng hạt
virus mà hồng cầu lợn có thể hấp phụ.
Như vậy, hồng cầu gà là nguyên liệu
phù hợp cho phản ứng ngưng kết hồng cầu
để đánh giá hiệu giá kháng nguyên virus
parvo chó. Tuy nhiên, các kết quả HA với
huyền dịch hồng cầu gà không thể làm
tham chiếu để so sánh với các kết quả HA
với huyền dịch hồng cầu lợn. Hơn nữa, để
có các số liệu hiệu giá HA có tính so sánh
cần phải làm rõ nồng độ và thể tích của các
thành phần tham gia phản ứng này.
3.2. Xác lập thông số hiệu giá kháng thể
chỉ báo bảo hộ miễn dịch
Hình 1 (ảnh dưới cùng bên trái) cho
thấy phản ứng HI với lượng đồng đều 25
μL các thành phần trong hỗn hợp, tổng
cộng 75 μL, với huyền dịch hồng cầu gà
1% pha loãng với huyết thanh và dịch
virus 4 HAU thành tỷ lệ cuối cùng là
0,33% cũng thể hiện rõ ràng sự ngưng kết.
Điều này chứng tỏ các tế bào hồng cầu
trong 0,25 mg phân tán trong 75 μL chất
dịch vẫn có khoảng cách đủ gần để có thể
tạo mạng lưới chắc chắn qua kết nối bởi
các hạt virus. Khi trong huyết thanh có các
kháng thể đặc hiệu, chúng phong bế các
hạt virus trong hỗn hợp. Khi đó các tế bào
hồng cầu không còn bị virus kết nối nữa
nên chìm xuống đáy lỗ như ở các lỗ đối
chứng HA âm tính (lỗ 11 và 12 ở ảnh dưới
bên trái Hình 1). Số lượng hạt virus có ở
trong đó là chưa biết, mặc dù có tài liệu
(Carter và cs., 1995) cho biết có khoảng
104 virion virus cúm trong mỗi đơn vị
ngưng kết hồng cầu (HA unit) mà không
cho biết thể tích mỗi đơn vị phản ứng nên
không thể tham chiếu. Khi có phản ứng HI
xảy ra thì một lượng ổn định kháng thể
trong huyết thanh đã phong bế hết số các
hạt virus trong dịch virus 4 HAU và đưa
hoạt tính HA của chúng về mức gần không
(zero) để hồng cầu trở nên tự do và chìm
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3) 2020:2129-2139
2136 Phạm Hồng Sơn và Ngô Thị Thanh Trà
xuống vào tâm lỗ khay. Nếu sử dụng nồng
độ virus 8 HAU (gấp đôi) cho phản ứng HI
cũng với huyền dịch hồng cầu 1% thì số
lượng các phân tử kháng thể đặc hiệu phải
cao gấp đôi so với ở trường hợp dịch virus
4 HAU. Như vậy, hiệu giá HI 1:80 được
xác định với dịch virus 8 HAU bởi các
nhóm tác giả trước đây (Carmichael và cs.,
1980; Pollack và Carmichael, 1982; Oh và
cs., 2006) tương đương với hiệu giá HI
1:160 theo cách thực hiện HI của chúng
tôi. Mức hiệu giá 160 HIU đó là rất cao so
với những kết quả chúng tôi thu được (cao
nhất chỉ 8 log2, tức 256 HIU). Nếu so với
việc vận dụng mức hiệu giá HI quy đổi
1:160 làm chỉ báo bảo hộ miễn dịch thì
việc tiêm vaccine CPV phòng bệnh cho
chó trong nghiên cứu này của chúng tôi đã
thất bại vì quá ít chó (03 trong số 38 con)
thu được bảo hộ miễn dịch. Nếu lấy từ
mức thấp hơn, từ 7 log2 HI (128 HIU), thì
cũng chỉ có 13 con trong số 38 chó đã
được tiêm vaccine CPV (34,2%) đạt mức
bảo hộ miễn dịch. Trong khi đó, muốn
ngăn chặn dịch lây lan cần từ 70% trở lên
cá thể có miễn dịch hữu hiệu (Shimizu và
cs., 1999). Ngược lại, Carmichael và cộng
sự (1980) còn coi huyết thanh có hiệu giá
kháng thể HI dưới mức 1:40 (tức 40 HIU)
là âm tính kháng thể miễn dịch
(immunonegative). Nếu áp dụng mức đó
vào nghiên cứu này thì có đến 24 con trong
số 38 con (63,16%) đã được tiêm vaccine
CPV không có miễn dịch. Bất cập này
cũng đã đề cập bởi nhóm nghiên của
Mahon và cs. (2017). Vì vậy, nếu không
liên hệ với tình trạng mắc bệnh CPV (có
virus trong phân) và không mắc bệnh CPV
(không có virus trong phân) từ các xét
nghiệm phát hiện virus thì kết quả tiêm
vaccine CPV trong nghiên cứu này là
không giải thích được. Kết quả xét nghiệm
bằng kỹ thuật SSDHI ở Hình 1 (ảnh bên
phải) đã giúp chúng tôi xác định kết quả
chẩn đoán lâm sàng các trường hợp mắc
bệnh do Parvovirus chó.
Đồng thời, từ phản ứng ngăn trở
ngưng kết hồng cầu với các mẫu huyết
thanh thu được cũng từ những con chó tiêu
chảy xuất huyết đó chúng tôi đã thiết lập
được bảng tương liên kết quả theo từng
mức hiệu giá kháng thể HI (Bảng 2).
Từ kết quả ở Bảng 2 ta thấy tất cả
những cá thể có hiệu giá kháng thể chống
CPV từ mức 4 log2 HI (16 HIU) trở lên
đều không có virus đó trong phân tiêu
chảy, tức không phải tiêu chảy do CPV.
Như vậy, mức kháng thể 4 log2 HI xứng
đáng được coi là chỉ báo mức bảo hộ miễn
dịch ở chó theo quy trình xét nghiệm này
của chúng tôi (với hồng cầu gà 1%, virus
CPV ở nồng độ 4 HAU và huyết thanh chó
không qua xử lý).
Quy trình kỹ thuật của các nhóm
trước đây liên quan nghiên cứu và áp dụng
tổ hợp phản ứng HA-HI trong chẩn đoán
bệnh CPV ở chó còn có thêm một số khác
biệt, ngoài sử dụng hiệu giá virus 8 HAU
thay cho 4 HAU, so với quy trình kỹ thuật
của chúng tôi. Huyết thanh cần kiểm trước
khi áp dụng cho HI đã được trộn với kaolin
và hồng cầu lợn, cho nên không tránh khỏi
việc pha loãng (nồng độ kháng thể sau xử
lý giảm 10 lần). Việc xử lý này có thể đã
làm biểu hiện của hiệu giá kháng thể HI
tăng lên do loại bỏ được các yếu tố ức chế
không đặc hiệu trong huyết thanh.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2129-2139
2137
Bảng 2. Bảng tương liên tần suất xuất hiện cá thể chó mang kháng nguyên CPV trong phân tiêu chảy
ứng với các mức hiệu giá kháng thể HI trong huyết thanh
Hiệu giá
kháng thể HI
(log2)
Nhóm chó chưa được tiêm vaccine
phòng bệnh CPV
Nhóm chó đã được tiêm vaccine
phòng bệnh CPV
Kết quả HI
theo từng
mức hiệu giá
(con)
Số chó có
parvovirus
trong phân
(SSDHI+)
Tỷ lệ chó
mang virus
(%)
Kết quả HI
theo từng
mức hiệu giá
(con)
Số chó có
parvovirus
trong phân
(SSDHI+)
Tỷ lệ chó
mang virus
(%)
0 0 0
1 0 0
2 13 13 100 0
3 14 6 42,86 1 1 100
4 5 0 0 4 0 0
5 0 8 0 0
6 0 12 0 0
7 0 10 0 0
8 0 3 0 0
9 0 0
10 0 0
Tổng cộng 32 19 59,38 38 1 2,63
Tuy nhiên, yếu tố này được biết là
không toàn năng với mọi loài. Chẳng hạn,
đối với hồng cầu gà thì huyết thanh vịt
được xác định là có ức chế không đặc hiệu
trong khi huyết thanh gà không có tác động
này (Surin và cs., 1986). Đối với chúng tôi
thì việc xử lý huyết thanh là thao tác cần
tránh vì tốn thêm công sức và bỏ mất
nguồn tài nguyên hữu ích cho phản ứng
SSDHI phát hiện kháng nguyên đặc hiệu
virus. Do đó, việc thay thế hồng cầu lợn
bằng hồng cầu gà để xét nghiệm huyết
thanh chó là một lợi điểm lớn vì đã giúp
tránh được tác động bất lợi của yếu tố ức
chế không đặc hiệu đến mức không cần
đến xử lý huyết thanh, tránh được hao hụt
kháng huyết thanh.
3.3. Đánh giá chất lượng tiêm vaccine
CPV phòng bệnh ở chó
Kết quả các phản ứng HI tất cả các
mẫu huyết thanh chó tiêu chảy xuất huyết
đã xét nghiệm được trình bày ở Bảng 3,
trong đó chúng tôi sử dụng mức hiệu giá 4
log2 HI làm thông số chỉ báo bảo hộ miễn
dịch chống CPV.
Bảng 3. Tình hình đáp ứng miễn dịch chống CPV ở chó tiêu chảy xuất huyết được đưa đến chẩn trị tại
Trung tâm chẩn đoán và điều trị động vật thuộc Chi cục thú y tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian
khảo sát
Nhóm chó
Số chó
được xét
nghiệm
huyết thanh
Số chó có
kháng thể
trong huyết
thanh
Số chó có
hiệu giá
kháng thể 4
log2 HI trở
lên
Tỷ lệ chó có
mức kháng thể
từ 4 log2 HI
trở lên (%)
Giá trị P
(χ2.test) so
sánh giữa
các nhóm
Cường độ
(GMT) miễn
dịch dịch thể
(HIU)
Đã tiêm vaccine phòng
bệnh CPV
38 38 37 97,4
0,000
(48,36)
60,59
Chưa từng được tiêm
vaccine CPV
32 32 5 15,6 6,73
Tổng 70 70 42 60 22,18
Bảng 3 cho thấy tất cả các chó được
xét nghiệm HI đều có kháng thể trong
huyết thanh. Đối với nhóm được tiêm
phòng tỷ lệ chó có hiệu giá kháng thể từ 4
log2 HI trở lên (tức đạt mức bảo hộ miễn
dịch) khá cao, 37 chó trong số 38 con được
xét nghiệm, đạt 97,3%, cao hơn nhiều (P <
0,01) so với nhóm không được tiêm phòng
chỉ đạt 15,6%. Kết quả xét nghiệm ở Bảng
3 (ở mục trên) cũng cho thấy chỉ một con
trong số 38 con chó đã được tiêm phòng
mang virus mầm bệnh CPV được phát
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3) 2020:2129-2139
2138 Phạm Hồng Sơn và Ngô Thị Thanh Trà
hiện, chiếm tỉ lệ 2,6%, thấp hơn nhiều (P <
0,001) so với số chó mang mầm bệnh trong
phân ở nhóm không được tiêm phòng (19
con trong số 32 con được xét nghiệm có
kháng nguyên, hay 59,38%). Điều đó
chứng tỏ tiêm vaccine phòng bệnh
parvovirus liên quan chặt chẽ với tình
trạng sạch mầm bệnh này ở chó. Như vậy,
việc tiêm vaccine phòng bệnh CPV cho
chó tại địa bàn nghiên cứu đã có tác dụng
làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh.
4. KẾT LUẬN
Hồng cầu gà là nguyên liệu thích
hợp cho phản ứng HA bởi virus parvo chó
(CPV) cũng như trong phản ứng phái sinh
HI (xác định hiệu giá kháng thể đặc hiệu
CPV) và SSDHI (xác định sự hiện diện của
kháng nguyên CPV trong bệnh phẩm) dù
có sự khác biệt không nhỏ trong biểu hiện
giá trị HA và HI so với hồng cầu lợn được
sử dụng trong các nghiên cứu của các tác
giả trước. Các yếu tố liên quan đến các
phản ứng xét nghiệm này vì vậy cần được
chuẩn hóa để có thể tham chiếu.
Việc phát hiện parvovirus chó có
thuộc tính gây ngưng kết hồng cầu gà ổn
định và không bị tác động xấu của các yếu
tố ức chế không đặc hiệu trong huyết thanh
chó là quan trọng giúp phát triển một hệ
thống xét nghiệm mới khảo sát miễn dịch
và mang trùng, hệ thống HA-HI-SSDHI,
đối với parvovirus chó (CPV), cho kết quả
nhanh và chủ động về nguồn vật liệu nên
có giá thành thấp.
Mức hiệu giá kháng thể 4 log2 HI
theo quy trình mô tả ở nghiên cứu này (với
huyền dịch hồng cầu gà 1%, virus vaccine
CPV 4 HAU, đều với lượng 25 μL) được
xác định là thông số chỉ báo bảo hộ miễn
dịch ở chó chống bệnh CPV.
Vaccine CPV sử dụng ở khu vực
nghiên cứu có hiệu quả tốt.
LỜI CẢM ƠN
Tác giả cảm ơn cán bộ viên chức và
lao động Trung tâm chẩn đoán và điều trị
động vật thuộc Chi cục Thú y tỉnh Thừa
Thiên Huế đã giúp đỡ lấy mẫu thực hiện đề
tài. Công trình với kinh phí cá nhân này là
sản phẩm kế tục hệ quả của các đề tài KH-
CN trước đây: B2004-08-07-TĐ và
DHH2013-02-32.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Lê Duy Báu, Phạm Thị Yến Hoa, Lê Thị Ngọc
Khánh và Phạm Hồng Sơn. (2019). Đánh
giá miễn dịch và cảm nhiễm virus dại trên
chó nuôi tại huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng
Bình bằng kỹ thuật HI và SSDHI, Tạp chí
Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp
trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế,
3(1),1003 - 1012.
Nguyễn Văn Dũng, Phạm Xuân Thảo, Vũ Kim
Chiến và Ken Maeda. (2018). Dịch tễ học
phân tử Parvovirus trên chó nuôi tại thành
phố Hồ Chí Minh, Khoa học Kỹ thuật Thú
y, 25(4), 12 - 16.
Phạm Sỹ Lăng, Trần Minh Châu, Hồ Đình
Chúc, Lê Thanh Hải, Đào Hữu Thanh và
Dương Công Thận. (1998). Bệnh thường
thấy ở chỏ và cách phòng trị. Hà Nội: Nhà
xuất bản Nông nghiệp.
Nguyễn Thị Hoàng Oanh, Phạm Thị Hồng
Lam, Đỗ Thị Lợi và Phạm Hồng Sơn.
(2012). Sử dụng tổ hợp phản ứng ngưng kết
hồng cầu trực tiếp với trắc định xê dịch
ngăn trở ngưng kết hồng cầu chuẩn (HA-
SSDHI) và trắc định xê dịch ngưng kết gián
tiếp chuẩn (SSIA) trong chẩn đoán bệnh
Niucatxon. Khoa học Kỹ thuật Thú y, 19(1),
48 - 56.
Lê Đình Quang, Hồ Thị Ngọc Ánh, Hồ Thị Lệ,
Bùi Thị Lan, Nguyễn Hữu Lợi và Phạm
Hồng Sơn. (2018). Đáp ứng miễn dịch của
gà con đối với vaccine La Sota phòng bệnh
Newcastle thay đổi theo điều kiện sinh thái
chăn nuôi. Tạp chí Khoa học và Công nghệ
Nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm,
Đại học Huế, 3(1), 1117 - 1128.
Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Thị Ngọc Hiền.
(2017). Xác định tình hình đáp ứng miễn
dịch dịch thể và cảm nhiễm virus dại ở chó
nuôi trên địa bàn thành phố Huế bằng
phương pháp HI và SSDHI, Tạp chí Khoa
học và Công nghệ Nông nghiệp trường Đại
học Nông Lâm, Đại học Huế, 1(1), 119 -
129.
Phan Ngọc Tuyết, Nguyễn Thị Mỹ Trinh,
Phạm Thị Thanh Thúy và Phạm Hồng Sơn.
(2018). Đánh giá hiệu lực vaccine phòng
dại trên chó nuôi tại huyện Minh Hóa tỉnh
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2129-2139
2139
Quảng Bình, Tạp chí Khoa học và Công
nghệ Nông nghiệp trường Đại học Nông
Lâm, Đại học Huế, 2(2), 767 - 780.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Carmichael, L. E., Joubert, J. C., & Pollock, R.
V. H. (1980). Hemagglutination by canine
parvovirus: serologic studies and diagnostic
applications. American Journal of
Veterinary Research, (41), 784 - 791.
Carter, G. R., Roberts, A. W., & Chengappa,
M. M. (1995). Essentials of Veterinary
Microbiology, 5th revised edition.
Lippincott Williams and Wilkins,
Philadelphia.
Mahon, J. L., Rozanski, E. A., & Paul, A. L.
(2017). Prevalence of serum antibody titers
against canine distemper virus and canine
parvovirus in dogs hospitalized in an
intensive care unit. Journal of the American
Veterinary Medical Association, 250(12),
1413 - 418. doi: 10.2460/javma.250.12.1413.
Oh, J.-S., Ha, G.-W., Cho, Y.-S., Kim, M.-J.,
An, D.-J., Hwang, K.-K., Lim, Y.-K., Park,
B.-K., Kang, B.-K., & Song, D.-S. (2006).
One-Step Immunochromatography Assay
Kit for Detecting Antibodies to Canine
Parvovirus. Clinical and Vaccine
Immunology, 13(4), 520 - 524. doi:
10.1128/CVI.13.4.520-524.2006.
Parrish, C. R. (1990). Emergence, natural
history, and variation of canine, mink, and
feline parvoviruses. Advances in Virus
Research, (38), 403 - 450.
Pollack, R. V., & Carmichael, L. E. (1982).
Maternally derived immunity to canine
parvovirus infection: transfer, decline and
interference with vaccination. Journal of
the American Veterinary Medical
Association, (180), 37 - 42.
Prittie, J. (2004). Canine parvoviral enteritis: a
review of diagnosis, management and
prevention. Journal of Veterinary
Emergency and Critical Care, (14), 167-
176. doi.org/10.1111/j.1534-
6935.2004.04020.x.
Shimizu, Y., Kanoe, M., Tabuchi, K.,
Hiramune, T., & Mikami, T. (ed.). (1999).
Juui densenbyou gaku daigoban. Kindai
shuppan, Tokyo, 22.
Siegl, G., Bates, R. C., Berns, K. I., Carter, B.
J., Kelly, D. C., Kurstak, E., & Tattersall, P.
(1985). Characteristics and taxonomy of
Parvoviridae. Intervirology, (23), 61 - 73.
Snedecor, G. W., & Cochran, W. G. (1980).
Statistical methods, 7th edition. The United
States of America: Iowa State University
Press, Ames, Iowa.
Surin, V. N., Belousova, P. B., Solovjev, K. V.,
& Fomina, N. V. (1986). Spravotchnik
metody laboratornoi diagnostiki virusnych
boleznei zhyvotnych. Agroproizdat,
Moskva.
Waner, T., Naveh, A., Wudovsky, I., &
Carmichael, L. E. (1996). Assessment of
maternal antibody decay and response to
canine parvovirus vaccination using a
clinic-based enzyme-linked immunosorbent
assay. Journal of Veterinary Diagnostic
Investigation, (8), 427 - 432.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xac_lap_thong_so_chi_bao_muc_bao_ho_mien_dich_cua_khang_the.pdf