Như vậy, có thể thấy, nhờ vào hành lang
pháp lý tương đối hoàn thiện, cũng như việc
áp dụng thực tiễn giải quyết các vụ việc liên
quan đến XPBQ trên Internet mà vấn nạn
này đã được ngăn chặn ở một mức độ nhất
định. Tại Việt Nam, thực tiễn xử lý XPBQ
chủ yếu là các vụ liên quan đến XPQTG
băng đĩa, sách lậu và sử dụng phần mềm máy
tính bất hợp pháp. Việt Nam cũng chưa có
vụ xử lý xâm phạm nào liên quan đến công
nghệ cao P2P. Các trang web chia sẻ phim và
âm nhạc bất hợp pháp vẫn tồn tại công khai,
thách thức pháp luật và việc kiểm soát của
các cơ quan chức năng. Thêm vào đó, bản
thân việc xét xử các vụ XPBQ thông thường
ở Việt Nam đến thời điểm này hầu như vẫn
chưa đạt được sự thống nhất cao giữa các cơ
quan thực thi. Tuy nhiên, trong thời gian tới,
việc tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế
về bảo hộ quyền SHTT, Việt Nam cũng cần
phải cân nhắc đưa ra những quy định phù
hợp với thực tiễn phát triển của ngành công
nghệ cao nhằm quản lý hoạt động này một
cách đúng đắn và toàn diện
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xâm phạm bản quyền trong môi trường số: Giải pháp cho các nhà phát triển công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XÊM PHAÅM BAÃN QUYÏÌN TRONG MÖI TRÛÚÂNG SÖË:
GIAÃI PHAÁP CHO CAÁC NHAÂ PHAÁT TRIÏÍN CÖNG NGHÏå
LÊ THỊ THU HÀ*
ĐÀO THỊ MAI QUYÊN**
Một trong những loại hình xâm phạm bản quyền (XPBQ) phổ biến nhất
trong môi trường số hiện nay là thông qua hệ thống chia sẻ ngang bằng
(Peer-to-Peer, P2P). Dưới góc độ sở hữu trí tuệ, làm thế nào để giảm XPBQ
qua P2P, nhưng đồng thời vẫn khuyến khích các nhà phát triển công nghệ
tiếp tục sáng tạo. Bài viết đề cập đến thực tiễn xét xử các hành vi XPBQ công
nghệ cao P2P trên thế giới, và một số khuyến nghị cho các nhà phát triển
công nghệ.
1. Khái quát về Peer to Peer
P2P1 là hệ thống chia sẻ thông tin, theo
đó, dữ liệu không cần được lưu trên một máy
chủ nhất định, mà chỉ có một máy trạm trung
chuyển các thông tin về dữ liệu giữa người
sử dụng (user) với nhau. Phần mềm P2P sau
khi cài đặt trong máy tính sẽ cho phép người
sử dụng máy truy cập ngay lập tức vào các
tệp dữ liệu (file) ghi trong tất cả các máy tính
nối mạng trên thế giới mà không cần phải
thông qua máy chủ, với điều kiện các máy
tính đó cũng cài phần mềm P2P.
Nhìn từ khía cạnh pháp luật, việc sử
dụng hệ thống chia sẻ P2P đặt ra hai vấn đề.
Thứ nhất, hệ thống P2P có chứa đựng yếu tố
vi phạm bản quyền hay không? Thứ hai, nếu
có thì ai sẽ phải chịu trách nhiệm và hình
thức pháp lý nào sẽ chi phối các hành vi
vi phạm đó?2 Luật của Hoa Kỳ và nhiều
nước phương Tây quy định, ngoại lệ một
công nghệ không được xem là bất hợp
pháp nếu nó có thể được sử dụng cho các
hành vi “không phạm luật một cách đáng
kể” (non-substantial infringement). Hệ thống
P2P có thể là một trong những đối tượng áp
dụng của ngoại lệ này, bởi người dùng được
phép trao đổi những nội dung hợp pháp như
phần mềm miễn phí, phiên bản thử nghiệm,
những tác phẩm không đăng ký bản quyền...
Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các trang sử
dụng hệ thống P2P đều từng được sử dụng
cho mục đích sao chép, trao đổi trái phép các
nội dung có bản quyền3.
* TS. Giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương.
** Trường Đại học Ngoại thương.
1 Một số trường hợp, P2P còn được viết là PtP.
2 ThS. Nguyễn Thị Tuyết, Chia sẻ dữ liệu trong môi trường Internet và các vấn đề liên quan đến tác giả, 8/11/2011, xem tại
trang:
den-quyen-tac-gia.html (truy cập ngày 20/1/2015).
3 Tlđd. 91NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
2. Thực tiễn xét xử xâm phạm bản quyền
P2P trên thế giới
Trong hệ thống P2P, có 4 đối tượng tham
gia chính, đó là người sử dụng (end-users),
nhà cung cấp dịch vụ (P2P purveyors), nhà
cung cấp dịch vụ Internet (ISPs) và những
người cung cấp công nghệ hay người viết
phần mềm (software developers). Vậy ai là
người bị coi là xâm phạm quyền tác giả
(XPQTG)?
Thực tế cho thấy, ở mỗi quốc gia đều có
những cách giải quyết vấn đề khác nhau và
ngay trong bản thân mỗi quốc gia thì kết quả
giải quyết ở mỗi thời kỳ cũng có những điểm
khác biệt4. Điều này sẽ được thể hiện rõ qua
việc phân tích một số án lệ điển hình ở hai
quốc gia Pháp và Hoa Kỳ, đại diện cho hệ
thống Civil Law và Common Law.
Các vụ xâm phạm do lỗi của người sử
dụng
Hầu hết các bản án đầu tiên liên quan đến
P2P đều cho rằng, người sử dụng Internet là
người chịu trách nhiệm về hành vi XPBQ do
sử dụng các phần mềm P2P.
Chỉ tính riêng trong năm 2004 và 2005,
Hiệp hội các nhà sản xuất băng đĩa Hoa Kỳ
(Industry Association of America - RIAA) đã
kiện hơn 9 ngàn cá nhân về việc phân phối và
sao chép các bài hát của họ qua việc sử dụng
phần mềm P2P như Grokster và Morpheus.
Các điều tra viên trong lĩnh vực phim truyện
và âm nhạc của Hoa Kỳ cũng đã kiện ra toà hơn
400 sinh viên đại học sử dụng mạng tốc độ cao
để sao chép các bài hát và phim truyện5.
Tuy nhiên, hầu hết những người sử dụng
Internet đều cho rằng, họ không biết đến việc
phải xin phép bản quyền vì đây chỉ là sự trao
đổi dữ liệu giữa các máy tính cho nhau; hoặc
đối với người có hiểu biết về công nghệ cũng
như luật bản quyền, họ thường viện dẫn đến
ngoại lệ sử dụng tự do tác phẩm mà không
cần xin phép6...
Vậy để có thể kết án được người sử dụng
Internet, cần phải đưa ra các bằng chứng về
việc sử dụng ngoài mục đích cá nhân như
ngoại lệ quy định.
Đối với người sử dụng, hai hành vi được
xem là căn cứ XPBQ, đó là hành vi tải tệp dữ
liệu lên Internet (upload) để chia sẻ tác phẩm
với những người truy cập Internet khác có sử
dụng phần mềm P2P, và hành vi tải tệp xuống
(download) để sử dụng cho các mục đích cá
nhân. Hành vi tải tệp lên là hành vi xâm phạm
quyền phổ biến tác phẩm7. Còn hành vi tải tệp
xuống là hành vi sử dụng tác phẩm khi chưa
được sự cho phép của tác giả8.
Hành vi tải tệp dữ liệu lên
Đối với hành vi tải tệp dữ liệu lên, có lẽ
việc kết án tương đối đồng nhất và dễ dàng
hơn nhờ vào việc thu thập các chứng cứ đối
với hành vi phổ biến tác phẩm mà không có
sự cho phép của tác giả.
Tuy Hoa Kỳ là nước khởi xướng việc
kiện những cá nhân XPBQ, nhưng bản án
đầu tiên xử lý người phổ biến tệp dữ liệu
được biết đến là ở Pháp, với phán quyết số
J185444 của Toà sơ thẩm Montpellier (Pháp)
ngày 24/9/1999 trong đó kết án Ông L. D,
4 Tlđd, trang 2.
5
6 Trong Công ước Berne 1971 về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia đều
có những điều khoản quy định về việc sử dụng tự do các tác phẩm mà không phải xin phép tác giả trong một số trường
hợp như sử dụng nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân, lưu trữ bản sao nhằm mục đích nghiên
cứu (Điều 9, điều 10 – Công ước Berne và Điều 25 - Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005)
7 Công ước Berne 1971 cho phép các tác giả độc quyền phổ biến các tác phẩm của mình tới công chúng (Điều 11Bis, Công
ước Berne). Luật của các quốc gia khác cũng có những điều khoản tương tự như vậy (Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm
2005, điểm đ khoản 1 đĐiều 20), mục 1 khoản đ).
8 Công ước Berne 1971, , khoản 1 điều Điều 9, khoản 1.
92 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
công dân Pháp, đã phổ biến các bản ghi âm,
ghi hình mà không có sự cho phép của tác
giả. Toà án đã cho rằng, “đó là hành vi
XPQTG theo Điều L.335-3 Bộ luật Sở hữu
trí tuệ Pháp, trong đó quy định rằng việc sao
chép hoặc phổ biến tác phẩm trí tuệ mà
không tôn trọng quyền tác giả thì được coi là
hành vi XPQTG”9.
Phán quyết gần đây nhất liên quan đến
việc tải nhạc lên là của Tòa phúc thẩm Paris
ngày 15/05/2007 kết án một giáo viên sử
dụng Internet tải lên mạng hơn 3.000 tệp dữ
liệu MP3 mà không được phép của các nhà
sản xuất hợp pháp.
Trước đó, Tòa sơ thẩm đã tuyên người
này vô tội, trên cơ sở áp dụng ngoại lệ là sao
chép để sử dụng riêng. Tuy nhiên, Tòa phúc
thẩm cho rằng ngoại lệ “sao chép để sử dụng
riêng” không thể áp dụng rộng rãi hơn nữa,
bởi vì trái với quy định tại các Điều L 122-5
và L 211-3 của Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp,
việc sao chép mà người sử dụng Internet tiến
hành bằng cách tải xuống máy tính của mình
hàng nghìn tệp dữ liệu bất hợp pháp để sau
đó, cho những người khác sử dụng thông qua
một phần mềm chia sẻ dữ liệu, không thể
được coi là sao chép để sử dụng riêng mà
phải coi là sao chép nhằm mục đích “cho
nhiều người sử dụng”10. Tòa phúc thẩm
tuyên buộc đương sự phải bồi thường € 1600
cho các công ty sản xuất đã bị thiệt hại vì bị
XPQTG, đồng thời đương sự còn bị phạt tiền
€ 1000 nhưng cho nộp sau11.
Vụ án Apocalypse Production Crew là
vụ về XPBQ qua P2P mà Hoa Kỳ đã áp dụng
biện pháp hình sự mạnh tay. Thành lập vào
năm 1997, Apocalypse Production Crew là
tổ chức ăn cắp nhạc bản quyền lớn nhất tại
Hoa Kỳ. Từ thời điểm được thành lập cho tới
khi bị lực lượng chức năng phát hiện hồi đầu
năm 2004, băng nhóm tội phạm này đã ăn
cắp và phát tán bất hợp pháp 8.142 sản phẩm
âm nhạc12, gây thiệt hại nghiêm trọng cho
nền công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Thành viên
thứ 15 của tổ chức này, Barry Gitarts, 25
tuổi, đã bị Tòa án bang Virginia kết tội vì đã
tham gia vào các hoạt động ăn cắp và phát
tán các sản phẩm còn chưa được phát hành
ra thị trường. Cụ thể, Gitarts bị cáo buộc đã
đứng ra chi trả mức phí để duy trì hoạt động
và vận hành máy chủ cho tổ chức13. Theo
đó, mức phạt mà thành viên này phải chịu
là 5 năm tù giam và khoản phạt $250.000,
đồng thời phải trả lại toàn bộ sản phẩm đã
ăn cắp. Trước đó, 14 thành viên của tổ chức
này đều đã bị kết án. Mức phạt đối với tổ
chức này đã thể hiện thái độ cứng rắn của
Tòa án Hoa Kỳ đối với các loại tội phạm
XPBQ qua Internet đã và đang diễn biến
ngày càng phức tạp.
Hành vi tải tệp dữ liệu xuống
Đối với hành vi tải dữ liệu xuống, việc
xử lý là khó khăn hơn, bởi vì người sử dụng
thường viện dẫn quyền được sao chép để sử
dụng riêng. Như vậy, căn cứ vào quy định
ngoại lệ này, người sử dụng Internet thường
tự bào chữa trước tòa rằng họ tải tác phẩm
xuống là để sử dụng vào mục đích cá nhân.
Vì vậy, để có cơ sở xác định hành vi
XPQTG, Toà án phải đưa ra được các chứng
cứ về việc sử dụng tác phẩm ngoài mục đích
cá nhân. Điều này hoàn toàn không phải lúc
nào cũng thực hiện được.
Tháng 2/2003, Liên đoàn Quốc gia các
9 TGI Montpellier, 24 septembre 1999,
10 CA Paris 15 mai 2007, xem
11
12 Sharon Gaudin, US convicts 15th in largest music piracy case, ngày 17/5/2008, xem tại trang:
(truy cập ngày 25/9/2014).
13 Tldd.
93NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
nhà sản xuất phim Pháp đã quyết định khởi
kiện Aurelien, một sinh viên nội trú Pháp về
hành vi sử dụng trái phép các tác phẩm có
bản quyền sau khi lục soát và tìm thấy trong
phòng của sinh viên này 488 đĩa CD Rom,
ghi lại các tác phẩm điện ảnh, âm nhạc được
tải từ mạng Internet. Sinh viên này viện dẫn
quyền được sao chép để sử dụng vào mục
đích cá nhân. Tòa án sơ thẩm Rodez đã xử
trắng án cho Aurelien với lập luận “Bị cáo
khai nhận đã tiến hành sao chép chỉ để sử
dụng vào mục đích cá nhân. Không có bằng
chứng nào cho thấy bị cáo đã phổ biến bản
sao chép đến nhiều người. Bị cáo chỉ thừa
nhận đã xem một trong số các bản sao chép
cùng với một vài người bạn và đã cho một
vài người bạn khác mượn đĩa CD Rom.
Những tình tiết đó chưa đủ căn cứ để khẳng
định rằng các bản sao đã được sử dụng ngoài
mục đích cá nhân theo quy định của Bộ luật
về sở hữu trí tuệ”14.
Toà phúc thẩm Montpellier cũng đồng ý
với tuyên bố của Toà sơ thẩm với lý do sinh
viên này chỉ sao chép tác phẩm để sử dụng
vào mục đích cá nhân15.
Không đồng tình với phán quyết này,
Liên đoàn Quốc gia các nhà sản xuất phim
Pháp đã quyết định đưa vụ việc lên Toà tối
cao Pháp. Toà tối cao Pháp cho rằng Toà
phúc thẩm Montpellier đã không xem xét
đến “tính hợp pháp của tác phẩm nguồn”16.
Tòa tối cao cho rằng cách giải quyết như vậy
là không đúng và đã chuyển vụ việc cho Tòa
Phúc thẩm Aix-en-Provence xét xử lại.
Toà Phúc thẩm Aix-en-Provence đã kết
tội bị cáo vì hành vi sao chép 488 bộ phim.
Tuy nhiên, kết luận của Toà Phúc thẩm Aix-
en-Provence lại không dựa trên tính hợp
pháp của tác phẩm nguồn mà căn cứ vào tình
tiết bị cáo đã cho bạn bè mượn 17 đĩa. Như
vậy, hành vi bị xử lý là hành vi chia sẻ bản
sao cho người khác, vượt ra khỏi khuôn khổ
sử dụng vào mục đích cá nhân.
Các vụ kiện XPBQ sau này liên quan
đến vấn đề sử dụng vào mục đích cá nhân đã
cho thấy rằng, ngoại lệ này chỉ có thể được
sử dụng làm căn cứ để bào chữa khi bị truy
tố về tội XPQTG chứ không thể cấu thành
một quyền chủ quan để viện dẫn làm căn cứ
cho một yêu cầu chính17.
Các vụ xâm phạm do lỗi của nhà cung
cấp dịch vụ P2P, người cung cấp phần mềm
và thiết bị công nghệ cao
Tại Hoa Kỳ, các công ty kinh doanh âm
nhạc và phim ảnh không thành công lắm
trong việc kiện những cá nhân sử dụng dịch
vụ, đã hướng tới việc quy trách nhiệm cho
các nhà cung cấp dịch vụ P2P. Tuy nhiên,
nhà cung cấp dịch vụ luôn đưa ra lý do là họ
không lưu trữ các dữ liệu trên máy mà chỉ lưu
danh sách các tệp dữ liệu tại thư mục trung
tâm, do đó, họ không liên quan trực tiếp đến
việc sử dụng các tệp thông tin trái phép của
những người sử dụng P2P. Phán quyết của
Tòa phúc thẩm liên bang San Francisco về
việc XPBQ của công ty cung cấp phần
mềm P2P Napster đã khiến cho các công ty
cung cấp dịch vụ này phải thay đổi cách
thức hoạt động.
14 TGI de Rodez, xem
15 CA de Montpellier, 10 mai 2005,
xem
16 Tính hợp pháp của tác phẩm nguồn: l’origine licite de la source utilisée. Như đã nói ở trên, cho đến trước thời điểm bản
án của Tòa án tối cao được tuyên, các hành vi bị kết án chủ yếu là hành vi phổ biến tác phẩm ra công chúng (upload), còn
hành vi tải xuống thường không bị kết án với lý do sao chép để sử dụng vào mục đích cá nhân. Đối với hành vi tải lên,
“tính hợp pháp của tác phẩm nguồn”, được xem xét.
17 Bản án Mulholland-Drive, xem
94 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Vụ Napster là vụ án quan trọng đầu tiên
liên quan đến việc xử lý nhà cung cấp dịch
vụ P2P về trách nhiệm liên quan đến việc
phổ biến tác phẩm âm nhạc trên mạng.
Tháng 1/1999, hai sinh viên của Hoa Kỳ đã
sáng tạo ra một chương trình chia sẻ tệp (file-
sharing program), cho phép trao đổi các tệp
âm nhạc ghi dưới dạng MP3. Ngay lập tức
công nghệ sao chép này đã nhanh chóng
truyền đi khắp nơi và mọi loại nhạc đều có
thể tải về từ internet mà hầu như không cần
xin phép bản quyền. Vào thời đỉnh cao,
Napster có khoảng 70 triệu người sử dụng,
với tổng số khoảng 2.790 tỷ bài hát được tải
xuống XPBQ, chiếm 87% tổng số tệp nhạc
được chia sẻ qua Napster18.
Tháng 12/1999, ngành công nghiệp âm
nhạc Hoa Kỳ RIAA đã quyết định khởi kiện
Napster về hành vi XPQTG sau nhiều lần
cảnh báo Napster về tình trạng sao chép các
tệp nhạc của những người sử dụng Napster.
Không bằng lòng với phán quyết của Tòa
sơ thẩm về việc xử trắng án cho Napster, ngành
công nghiệp âm nhạc Hoa Kỳ quyết định gửi
đơn lên Tòa phúc thẩm San Francisco. Ngày
12/02/2001, Tòa phúc thẩm San Francisco
bác bỏ kết quả xét xử của phiên sơ thẩm
đồng thời bác bỏ bào chữa của Napster rằng
việc sử dụng hệ thống P2P là hợp lý (fair use)
và nhận định rằng Napster đã đồng phạm
tội19 với người sử dụng Internet và buộc
Công công ty này phải chấm dứt hành vi trao
đổi tệp âm nhạc MP3.
Dưới góc độ quyền tác giả, đôi khi người
xâm phạm lại là những người chỉ tham gia một
cách gián tiếp thực hiện hành vi xâm phạm. Có
ba hình thức xâm phạm: xúi giục, sai khiến
(inducement), đồng phạm (contributory
infringement) và trách nhiệm gián tiếp
(vicarious liability).
Xúi giục, sai khiến (inducement)
Tháng 6/2005, trong vụ MGM v.
Grokster, 125 S.Ct. 2764 (2005), Tòa án tối
cao Hoa Kỳ đã công bố một hình thức trách
nhiệm pháp lý thứ cấp mới, theo đó: “Người
nào phân phối thiết bị mà việc sử dụng thiết
bị đó thúc đẩy việc vi phạm bản quyền, [...],
phải chịu trách nhiệm về các hành vi xâm
phạm do các bên thứ ba gây ra”. Để quy vào
hình thức xúi giục hay sai khiến, chủ sở hữu
quyền tác giả phải chứng minh mỗi yếu tố
sau đây: Xâm phạm trực tiếp (Direct direct
Infringementinfringement); Hành vi khẳng
định (affirmative act); Ý định (Intentintent).
Đồng phạm (Contributory contributory
infringement)
Để chứng minh một người có trách
nhiệm liên đới trong XPQTG, chủ sở hữu
quyền tác giả phải chứng minh: Xâm phạm
trực tiếp (Direct Infringement); Đã biết
(Knowledge): Người bị cáo buộc là đồng
phạm đã biết về việc xâm phạm trực tiếp
hoặc ít nhất cũng có một số thông tin cụ thể
về hành vi xâm phạm thực tế; Đóng góp vật
chất (Material contribution).
Như vậy, các tổ chức phát triển công
nghệ cũng chịu trách nhiệm về các hành vi
trái pháp luật của người dùng cùng những
người thực hiện các công cụ có mục đích
chung.
Tại Hoa Kỳ, ban đầu, toà án cho rằng các
nhà sản xuất phần mềm không phải chịu
trách nhiệm gì đối với các hành động của
người sử dụng, bởi các phần mềm được viết
ra không phải nhằm mục đích cho việc
XPBQ. Chính vì vậy, một số công ty truyền
thông như Hiệp hội ghi âm Hoa Kỳ đã chọn
phương án mềm dẻo bằng cách gửi thông
điệp cho những tác giả phần mềm “Chúng
tôi biết rõ bạn là ai và chúng tôi khuyến
18 Micheal Blakely, Digital Issues, Queen Mary, UniversityofLondon.
19 Điều 980(a) Bộ luật dân sự California (California Civil Code),).
95NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
khích các bạn nên dừng việc đang làm”20.
Tuy nhiên, các phán quyết của Toà án tối cao
mới đây đã tạo một bước ngoặt quan trọng
trong thực tiễn xét xử các vụ XPBQ.
Trách nhiệm của nhà cung cấp phần
mềm hoặc thiết bị công nghệ cao được xem
xét khi những nhà cung cấp phần mềm có
khả năng bị lạm dụng cho việc XPBQ. Điều
đó có nghĩa là nếu phần mềm đó được viết
ra chủ yếu để dùng cho các việc không
XPBQ (substantial non-infringing uses -
SNIUs)21, thì khi đó các nhà cung cấp phần
mềm sẽ không bị truy cứu trách nhiệm.
Trong trường hợp ngược lại, nhà cung cấp
phần mềm phải chịu trách nhiệm liên đới về
hành vi XPBQ của người sử dụng.
Công ty Grokster và Streamcast
Networks, thiết lập giao diện trao đổi P2P cho
phần mềm Morpheus, giúp cho hàng triệu
người sử dụng Internet trên khắp thế giới có
thể chia sẻ với nhau các bản nhạc hoặc các
bộ phim, mà không phải tốn tiền mua.
Hai mươi tám đại công ty hoạt động
trong lĩnh vực truyền thông như là MGM và
Disney đã khởi kiện Grokster trước Tòa án
quận trung tâm bang California (Hoa Kỳ) vì
họ lo sợ rằng các cuốn phim và các đĩa hát
mà họ sản xuất được sao chép một cách miễn
phí, trong lúc kỹ nghệ giải trí và các nghệ sĩ
không được hưởng một đồng xu nào.
Grokster đã viện dẫn đến điều khoản
SNIUs (substantial non-infringing uses) -
việc sử dụng phần mềm này cho các hoạt
động nghiên cứu khác ngoài việc sao chép
băng đĩa hát và họ đã đưa ra các nghiên cứu
khoa học được thực hiện dựa trên ứng dụng
phần mềm của họ. Grokster cũng đã viện dẫn
đến vụ Betamax năm 1984 giữa Universal
Studio kiện Sony. Đầu những năm 80, Sony
sản xuất ra một loại thiết bị có tên Betamax,
có thể dùng để chép lại các phim truyền qua
TV. Universal Studio kiện Sony bán sản
phẩm dùng để XPBQ phim. Tòa án tối cao
Hoa Kỳ phán quyết rằng Betamax có SNIUs
và các công ty giải trí của Hoa Kỳ đã thua
kiện.
Tại quyết định ngày 25/04/2003, Tòa án
bang Californie đã bác đơn kiện của các nhà
sản xuất băng đĩa và cho rằng Grokster cũng
giống như các doanh nghiệp bán máy ghi
âm, ghi hình hoặc máy photocopy và cả hai
loại máy này đều có thể được sử dụng để
thực hiện hành vi XPBQ. Do vậy, các công
ty cung cấp dịch vụ P2P này không phải chịu
trách nhiệm về hành vi XPQTG do người sử
dụng thực hiện.
Không đồng tình với quyết định của Tòa
án bang Californie, các nhà sản xuất băng đĩa
đã kháng cáo phúc thẩm quyết định này lên
Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Phán quyết của Tòa
án tối cao Hoa Kỳ ngày 27/06/05 đã kết luận
Grokster XPBQ do Morpheus và Grokster
được giới thiệu là các biện pháp thay thế cho
tường lửa Napster khi người sử dụng Napster
bị từ chối. Các công ty khai thác các phần
mềm này đã không có cố gắng nào để hạn
chế hành vi xâm phạm và đã thu được nhiều
lợi nhuận từ việc bán quảng cáo trên trang
web của mình khi sử dụng các dịch vụ của
công ty.
Trong phán quyết này, Tòa án tối cao đã
đưa ra nguyên tắc về hành vi khuyến khích
(inducement rule), theo đó người nào phổ
biến một vật trên cơ sở khuyến khích sử
dụng vật đó trong khi vật này XPQTG, một
cách rõ ràng hoặc bằng các biện pháp góp
phần đáng kể vào hành vi xâm phạm đó, thì
20 Tải phim và nhạc bất hợp pháp qua Internet, xem
21
96 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
phải chịu trách nhiệm về hành vi XPQTG do
người thứ ba thực hiện22.
Trách nhiệm gián tiếp (vicarious
liability)
Trách nhiệm gián tiếp có nguồn gốc từ
cùng một nguyên tắc pháp lý là người chủ
phải chịu trách nhiệm về các hành động của
nhân viên mình. Trách nhiệm gián tiếp áp
dụng khi bị đơn có quyền và có khả năng
giám sát người xâm phạm trực tiếp và cũng
có lợi ích tài chính trực tiếp trong các hoạt
động của người xâm phạm.
Để áp dụng trách nhiệm gián tiếp, một
chủ sở hữu quyền tác giả phải chứng minh:
Xâm phạm trực tiếp (Direct Infringement);
Quyền và khả năng kiểm soát (Right and
Ability to Control): Người bị coi là xâm phạm
gián tiếp có quyền và khả năng kiểm soát,
giám sát các hành vi xâm phạm trực tiếp; Có
lợi ích tài chính trực tiếp (Direct Financial
Benefit).
Việc quy định trách nhiệm gián tiếp tạo
động lực mạnh mẽ để nhà cung cấp theo dõi
hành vi của người dùng. Trong vụ Napster,
tòa cho rằng “quyền giám sát phải được
thực hiện ở mức cao nhất. Quay mặt làm
ngơ khi phát hiện hành vi vi phạm, vì mục
tiêu lợi nhuận vẫn phải chịu trách nhiệm”.
Ngoài ra, tòa án còn tuyên bố rằng, trường
hợp Betamax không áp dụng trách nhiệm
gián tiếp. Theo đó, nếu bạn kiểm soát, và có
lợi ích tài chính từ xâm phạm trực tiếp, thì
không được coi là chủ yếu để dùng cho các
việc không XPBQ SNIUs.
Các công ty trong ngành công nghiệp
giải trí đã lập luận rằng, họ không thành công
trong việc thực hiện “lọc” công nghệ (ví dụ,
các công nghệ có thể xác định được nội dung
không được quyền chia sẻ) liệu có coi là thiết
lập việc “kiểm soát” cho mục đích trách
nhiệm gián tiếp? Nói cách khác, các công ty
đã thiết kế lại công nghệ của mình để kiểm
soát hay giảm thiểu việc sử dụng vi phạm,
nhưng không thành công, liệu có được coi
là gián tiếp chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, các
tòa án vẫn không chấp nhận lập luận này. Ví
dụ, Tòa án tối cao trong vụ MGM v.
Grokster lưu ý việc các công ty không thành
công trong việc thiết kế thêm bộ lọc công
nghệ có thể được coi là bằng chứng về “ý
định - intent” trong hành vi sai khiến.
3. Các giải pháp nhằm hạn chế xâm phạm
bản quyền qua P2P
Biện pháp kỹ thuật
Có hai biện pháp tự vệ phổ biến vẫn
thường được sử dụng bởi các chủ thể quyền
hiện nay là mã hóa (encryption) và thủy
vân số (digital watermarking). Trên thực tế,
đây chính là hai biện pháp kỹ thuật thông
dụng giúp chủ sở hữu quyền tác giả thực thi
quản lý quyền kỹ thuật số (digital rights
management - DRM23).
Trên thực tế, các chủ sở hữu quyền có xu
hướng kết hợp cả thủy vân số và mã hóa
nhằm tối ưu hóa việc bảo vệ bản quyền đối
với các tác phẩm trên mạng Internet. Tuy
nhiên, không thể phủ nhận những rào cản về
mặt công nghệ vừa là thách thức vừa là động
lực thôi thúc cho sự nảy sinh của những công
nghệ “bẻ khóa”, tiếp tục đe dọa tới quyền lợi
của các chủ sở hữu bản quyền, đặc biệt trong
môi trường chia sẻ dữ liệu tự do P2P. Khi
việc kiểm soát trở nên khó khăn hơn, bên
nắm giữ quyền cũng chủ động tiến hành
những biện pháp mềm mỏng mang tính lâu
dài, tác động trực tiếp tới ý thức của người
dùng mạng.
22
23 DRM liên quan đến việc kiểm soát và bảo vệ quyền sở hữu tài sản trí tuệ số (nội dung), gồm tài liệu, hình ảnh, video và
âm thanh. DRM hạn chế những gì người dùng có thể làm với nội dung này cho dù họ là chủ sở hữu.
97NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
Biện pháp giáo dục
Chương trình giáo dục (Educational
program)
Trong những năm gần đây, ngành công
nghiệp giải trí dành nhiều quan tâm hơn tới
vấn đề giáo dục cộng đồng về luật bản quyền
trong môi trường số. Đơn cử như việc Liên
minh phần mềm doanh nghiệp (BSA) tiến
hành một chiến dịch gồm những đoạn thông
báo ngắn nhưng liên tục trên radio, chủ yếu
nhắm vào đối tượng những người sử dụng
phần mềm trong các cơ quan, đoàn thể (ở các
công ty nhà nước và tư nhân)24. Hiệp hội ghi
âm Hoa Kỳ đã thành lập một website có tên
“Byte Me” với mục đích ngăn chặn việc phát
tán những bản sao bất hợp pháp của các bài
hát phổ biến ở định dạng MP325. Ngoài ra,
các tổ chức trong nền công nghiệp giải trí
nước này cũng gửi hàng ngàn lá thư cảnh báo
về việc vi phạm tới các trường học và doanh
nghiệp, cùng với đó, các nghệ sỹ nổi tiếng
như Dixie Chicks và Missy Elliot cũng tham
gia chiến dịch bằng cách lên sóng truyền
hình MTV và BET nhằm bày tỏ mối quan
tâm trước vấn đề bản quyền trên Internet26.
Thêm vào đó, xuyên suốt lễ trao giải
GRAMMY 2004, Viện Thu âm (Recording
Academy) cũng khởi xướng một chiến dịch
lớn để giáo dục công chúng, trong đó có việc
thành lập website whatsthedownload.com,
những thông báo được in và phát trên dịch
vụ radio công cộng, các nhóm tiên phong
cộng đồng và các hoạt động bán lẻ27.
Kể từ tháng 9/2003, ngành công nghiệp
giải trí cũng áp dụng một chiến lược giáo dục
cộng đồng về luật bản quyền trên Internet
bằng việc khởi kiện liên tục (mass
litigation)28. Tính tới đầu năm 2011, theo
thống kê, riêng tại Hoa Kỳ đã có tới 100.000
vụ kiện XPBQ liên quan đến các tổ chức và
cá nhân bị nghi ngờ phát tán dữ liệu bất hợp
pháp thông qua hệ thống P2P29. Nguyên Chủ
tịch Hiệp hội ghi âm Hoa Kỳ, Cary Sherman,
đã khẳng định rằng, các vụ khởi kiện là
phương thức giáo dục hiệu quả30. Trên
thực tế, số vụ kiện vi phạm bản quyền trên
Internet diễn ra tỷ lệ nghịch với số lượng file
được chia sẻ bất hợp pháp qua P2P31 song
hiệu quả giáo dục về mặt tư tưởng, nhận thức
của các vụ kiện vẫn còn là vấn đề gây nhiều
tranh cãi32.
Cấp phép (Licensing)
Một phương pháp quan trọng trong việc
tự bảo vệ của các chủ sở hữu quyền tác giả
được áp dụng trong thời gian gần đây đó là
cấp phép (licensing). Điển hình là trong
24 Computer Science and Telecommunications Board of National Research Council, ngày 24/01/2000, The Digital Dilemma:
Intellectual Property in Information Age, 1st ed., National Academies Press, tr. 308;
25 Tldd.
26 Entertainment Industry Widens War, USA Today, ngày 13/02/2003, xem tại trang:
tech/news/2003-02-13-piracy-side_x.htm (truy cập ngày 25/09/2014).
27 Press Release, Recording Academy, “What’s the Download” Consumer Education Campaign Addressing the Value of Paying
for Music Unveiled at 46th Annual Grammy Award, ngày 08/02/2004, xem tại trang:
word_docs/Whats_The_Download_Launch_Press_Release.doc (truy cập ngày 25/9/2014).
28 Peter K.Yu, The Escalating Copyright Wars. Hofstra Law Review, Vol. 32, từ pptrang. 907 đến trang -951, 2004, trang 921,
xem tại trang: (truy cập ngày 25/9/2014).
29 Xem thêm tại trang: (truy
cập ngày 25/9/2014).
30 Benny Evangelista, Online Music Finally Starts to Rock ‘n’ Roll, S.F.Chron., ngày 29/12/2003, xem tại trang:
gate.com/business/article/Online-music-finally-starts-to-rock-n-roll-2524443.php (truy cập ngày 25/9/2014).
31 Peter K.Yu, The Escalating Copyright Wars, Tldd, trang 921.
32 Tldd, n.94.
98 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
tháng 4/2003, Apple Computer đã tiến hành
loại hình dịch vụ nhạc số tiên tiến có tên
iTunes Music Store; theo đó, Apple sẽ
cung cấp dịch vụ cho phép tải về các bài
hát đơn/cả album nhạc từ năm hãng thu âm
lớn (Warner, BMG, EMI, Sony Music và
Universal) với mức phí 99 cent mỗi bài hoặc
$9.99 mỗi album33. Đây là mức phí rất phải
chăng, chấp nhận được với đại đa số người
dùng, đồng thời giúp các công ty thu âm vừa
bảo vệ được bản quyền vừa kiếm doanh thu
từ sản phẩm của mình.
Có thể nói, cấp phép sử dụng các sản
phẩm có bản quyền là biện pháp tương đối
hữu hiệu và dung hòa được lợi ích các bên.
Một mặt, cấp phép sử dụng dịch vụ như
iTunes và Napster chính là hình thức hợp
pháp hóa đối với các website hoạt động dựa
trên mạng chia sẻ P2P trước đây (KaZaA,
Napster, Grokster). Mặt khác, loại hình
dịch vụ này vừa nâng cao ý thức của người
dùng về bản quyền trong Internet vừa tạo cho
họ sự yên tâm và thoải mái khi chắc chắn về
nguồn gốc của những sản phẩm được bảo hộ
trên mạng.
4. Khuyến nghị cho các nhà phát triển
công nghệ P2P
Không lưu trữ hoặc tạo ra các bản sao
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất và cần
được tuyệt đối tuân thủ để hạn chế tối đa việc
liên quan tới những cáo buộc của các chủ thể
quyền. Về lý thuyết, điều này không hẳn là
vấn đề đáng ngại đối với các nhà sáng lập
công nghệ bởi hệ thống P2P được xây dựng
theo nguyên tắc chia sẻ file giữa người dùng
mà không cần thông qua máy chủ. Tuy
nhiên, việc lưu trữ trong bộ nhớ máy tính
hoặc những hành vi tương tự cần được cân
nhắc. Nếu nhà sáng lập công nghệ tạo ra
hoặc phân phối những bản sao bất hợp pháp
(ngay cả khi chỉ là trên RAM máy tính) thì
họ đều có khả năng bị quy trách nhiệm cho
hành vi xâm phạm gián tiếp. Trong trường
hợp đó, bên nguyên đơn không cần thiết phải
chứng minh hành vi khẳng định (affirmative
act), ý định (intent), kiểm soát (control), đã
biết (knowledge), lợi ích về mặt kinh tế
(financial benefit) hoặc đóng góp về mặt vật
chất (material contribution), việc bản sao
được tự động lưu sẵn trên thiết bị đã là minh
chứng rõ ràng nhất cho trách nhiệm liên đới
của người phát triển hệ thống P2P.
Không khuyến khích và tạo điều kiện
cho những hành vi xâm phạm quyền
Sau phán quyết của Tòa án Tối cao trong
vụ Grokster, những nhà phát triển công nghệ
dường như cẩn trọng hơn đối với bất cứ hành
vi nào có nguy cơ bị kết luận là xúi giục việc
sử dụng bất hợp pháp các ứng dụng chia sẻ
tệp dữ liệu.
Việc quy định trách nhiệm với các hành
vi xúi giục dựa trên sự xem xét kết hợp hai
yếu tố hành vi khẳng định (affirmative) và ý
định (intent) khuyến khích việc xâm phạm
quyền. Trên thực tế, đối với các nhà sáng tạo
công nghệ, việc chứng minh không phải là
hành vi cố ý là điều tương đối khó khăn bởi
ý định được xác định dựa trên những bằng
chứng gián tiếp (circumstantial evidence); cụ
thể hơn, những bằng chứng này có thể bao
gồm thư điện tử, tin nhắn hỗ trợ khách hàng,
các đoạn hội thoại, truyền thông, tiếp thị
Nói cách khác, thông thường, các nhà sáng
lập công nghệ sẽ vấp phải khá nhiều cản trở
khi đối mặt với câu hỏi về “ý định” bởi việc
dò đoán phán xét của Tòa trong nhiều trường
hợp là bất khả thi.
Tuy nhiên, họ vẫn có khả năng kiểm soát
tình hình khi xét tới các hành vi khẳng định
khuyến khích việc xâm phạm. Theo đó,
những người phát triển hệ thống P2P phải
phòng tránh tất cả những hoạt động có nguy
33 Laurie J.Flynn, Apple offers music downloads with unique pricing, New York Times, ngày 29/4/2003.
99NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
cơ chứng minh cho hành vi khẳng định khích
lệ vi phạm quyền. Những hoạt động này có
thể bao gồm:
- Thiết kế phương tiện tiếp thị và quảng
bá (website, bài quảng cáo, thông cáo báo
chí, newsletter, các đường link dẫn tới ý kiến
của bên thứ ba hoặc văn bằng chứng nhận);
- Cung cấp hướng dẫn cho người sử
dụng (ảnh chụp màn hình, FAQs, hỗ trợ
khách hàng qua email, chat hoặc các bản tin
vắn);
Cũng cần lưu ý thêm, trong vụ án
Napster, Tòa cũng đã kết luận rằng sự nỗ lực
trong việc thu hút người sử dụng P2P, đối
tượng được cho là trực tiếp vi phạm, cũng có
thể cấu thành một hành vi khẳng định
khuyến khích việc vi phạm. Hay như trong
trường hợp của Grokster, Tòa cũng tuyên bố
việc gửi các newsletter tới các trang báo đưa
tin từng đề cập tới bất cứ một sự sử dụng trái
phép nội dung được bảo hộ bản quyền nào
cũng đều có khả năng là hành vi khẳng định
với mục đích xúi giục việc xâm phạm. Chính
bởi vậy, những nhà sáng lập P2P cần đặc biệt
cẩn trọng khi phổ biến, hosting hoặc tiếp
nhận bất cứ một bài viết của bên thứ ba về
hoạt động xâm phạm quyền.
Lựa chọn kiểm soát toàn bộ hoặc
không kiểm soát
Từ những phán quyết gần đây về trách
nhiệm gián tiếp đối với các hành vi XPBQ,
có thể thấy những nhà phát triển công nghệ
đã, đang và sẽ phải lựa chọn sáng tạo theo
hai hướng: một là xây dựng một hệ thống
cho phép việc kiểm soát gắt gao toàn bộ hoạt
động của những người sử dụng trực tiếp
(end-user); hai là xây dựng hệ thống mà
khiến cho việc kiểm soát nói trên là bất khả
thi. Gợi ý này dựa trên cơ sở về việc xác
định một hành vi đồng phạm (contributary
infringement) khi đối tượng, trong trường
hợp này là các nhà sáng lập công nghệ, đã
biết (knowledge) hoặc có đóng góp về mặt
vật chất (materially contribute) cho hoạt
động xâm phạm. Tuy vậy, vấn đề gây tranh
cãi chủ yếu liên quan tới hành vi đồng phạm
trong các vụ án P2P gần đây là vấn đề “đã
biết”, khi mà chủ thể quyền đưa ra hàng loạt
những thông báo về việc vi phạm đã được
gửi tới những nhà phát triển phần mềm nhằm
tạo ra chứng cứ “đã biết”, gây bất lợi cho
người sáng tạo công nghệ.
Trách nhiệm gián tiếp (vicarious liability)
cũng quy định rằng, phía nguyên đơn phải
chứng minh bên bị đơn có khả năng kiểm
soát (control) và nhận được lợi ích (benefit)
từ hoạt động xâm phạm của người dùng. Vấn
đề “lợi ích” thường khá khó có thể bị chối
bỏ, trong nhiều vụ án P2P, miễn là phần mềm
cho phép việc chia sẻ những nội dung vi
phạm, khuyến khích người dùng vi phạm là
đã đủ cấu thành “lợi ích”, dẫn đến việc quy
kết trách nhiệm cho các nhà sáng lập phần
mềm.
Như vậy, có thể thấy yếu tố “kiểm soát”
thường được đặt lên hàng đầu trong các cuộc
kiện tụng bản quyền P2P. Để hạn chế tối đa
việc liên đới trách nhiệm gián tiếp trong các
vụ kiện này, nhà phát triển hệ thống P2P
được khuyến khích thiết lập một cấu trúc
ngăn chặn tất cả việc kiểm soát các hoạt
động của người sử dụng trực tiếp phần mềm
này.
Bán sản phẩm phần mềm riêng biệt
thay vì cung cấp dịch vụ lâu dài
Có thể nói, trách nhiệm gián tiếp là một
trong những nguy cơ dễ xảy đến nhất đối với
các nhà sáng lập công nghệ một khi hệ thống
P2P được đưa lên bàn tranh tụng. Phía chủ
thể quyền tác giả lập luận rằng việc có khả
năng kiểm soát, ngăn chặn người dùng tiếp
cận với mạng lưới P2P đã đủ để cấu thành
trách nhiệm gián tiếp. Điều này càng hợp lý
hơn khi yếu tố “lợi ích tài chính” được nhắc
đến dưới dạng mô hình kinh doanh dựa trên
lượng người sử dụng truy cập. Chính vì thế,
sau khi cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm
phần mềm hỗ trợ hệ thống P2P, điều cần thiết
100 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
là nhà sáng lập công nghệ cần kiểm soát và
luôn bám sát hoạt động người dùng nhằm
hạn chế khả năng bị quy trách nhiệm gián
tiếp.
Trong trường hợp này, rõ ràng, việc bán
lại sản phẩm phần mềm riêng biệt thay vì
dịch vụ lâu dài sẽ có lợi cho những nhà sáng
tạo công nghệ, khi họ không còn bị ràng
buộc bởi trách nhiệm kiểm soát người dùng
và quan trọng hơn là trách nhiệm gián tiếp
khi phát sinh vấn đề XPBQ.
Xây dựng phần mềm “không phạm luật
một cách đáng kể”
Rõ ràng, nếu một sản phẩm phần mềm
được thiết kế chỉ với một chức năng duy nhất
là phục vụ cho việc XPQTG thì người sáng
lập phần mềm sẽ có nguy cơ cao phải đối
mặt với các vấn đề pháp lý. Trên thực tế, một
lượng lớn mạng chia sẻ P2P có thể được sử
dụng cho nhiều mục đích khác nhau mà
trong nhiều trường hợp, bản thân những
người sáng tạo công nghệ cũng không thể
đánh giá đầy đủ.
Trên cơ sở đó, một gợi ý thiết thực cho
những người phát triển phần mềm trong bối
cảnh hành lang pháp luật về bản quyền trong
môi trường số ngày càng khắt khe là xây
dựng hệ thống có thể vận hành với nhiều
mục đích sử dụng nhằm phân tán rủi ro của
việc bị cho là tiếp tay cho hành vi xâm phạm.
Thêm vào đó, bộ luật DMCA quy định một
số ngoại lệ nhất định về việc sử dụng phần
mềm P2P được cho phép theo nguyên tắc
“vùng cảng an toàn” (safe harbor), ví dụ, các
phần mềm có chức năng tìm kiếm (search
engine). Bởi vậy, việc kết hợp ứng dụng chia
sẻ tệp P2P với phần mềm tìm kiếm cũng sẽ
giúp người sáng lập công nghệ trong việc
giảm nguy cơ bị cáo buộc XPQTG.
Ngoài ra, để củng cố cho yếu tố “không
phạm luật một cách đáng kể” của phần mềm,
người sáng lập cũng có thể chủ động phòng
vệ bằng cách thu thập ý kiến công nhận từ
chính những người sử dụng không vi phạm
bản quyền. Điều này sẽ tạo nên một công cụ
phòng vệ hữu hiệu, đặc biệt khi vấn đề xâm
phạm quyền được Tòa án can thiệp.
Loại bỏ thỏa thuận cấp phép cho người
sử dụng đầu cuối (EULAs)3
Mặc dù những thỏa thuận EULAs rất
phổ biến trong công nghiệp phần mềm, cần
lưu ý rằng bên chủ thể quyền tác giả cũng
đang nỗ lực đưa loại thỏa thuận này vào làm
cơ sở để chứng minh cho “khả năng kiểm
soát” dẫn chiếu tới trách nhiệm gián tiếp của
những người phát triển công nghệ. Theo đó,
EULAs được coi như bản hợp đồng giữa
người bán phần mềm, cụ thể là bên sáng lập
hoặc nắm giữ bản quyền phần mềm, và
người sử dụng, trong đó quy định rõ quyền
kiểm soát về mặt pháp lý của người bán đối
với các hoạt động của người sử dụng đầu
cuối. Thỏa thuận EULAs mà cho phép người
bán chấm dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm
nào với bất kỳ mục đích nào có thể dẫn tới
cách hiểu mà theo đó, người bán có quyền
hợp pháp “kiểm soát” và ngăn chặn người
dùng khai thác phần mềm.
Chính vì thế, người sáng lập công nghệ
cũng nên cân nhắc việc phân phối sản phẩm
phần mềm mà không cần đến những thỏa
thuận EULAs nói trên. Loại bỏ EULAs ra
khỏi giao dịch, nhà phát triển phần mềm vẫn
có thể thực thi tất cả những quyền quy định
trong luật bản quyền, ngăn chặn mọi hành vi
sao chép và chỉnh sửa bất hợp pháp các sản
phẩm công nghệ.
Nhìn chung, đối diện với tình hình pháp
luật về bản quyền trong môi trường số đang
ngày càng khắt khe, những nhà sáng lập P2P
34 Còn được gọi là thỏa thuận cấp phép phần mềm, đây là hợp đồng giữa người cấp phép (người sáng lập hoặc chủ sở hữu
bản quyền phần mềm công nghệ) và người mua quy định về quyền của người mua trong việc sử dụng phần mềm và xác
định những trường hợp cho phép việc sao chép.
101NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
cần tự xây dựng cho mình những chiến lược
phòng vệ đúng đắn, giảm thiểu nguy cơ liên
đới trách nhiệm trong những tranh chấp, kiện
tụng, đồng thời vẫn đảm bảo sự sáng tạo
được khuyến khích thể hiện trong những sản
phẩm, phần mềm công nghệ thiết thực đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
Như vậy, có thể thấy, nhờ vào hành lang
pháp lý tương đối hoàn thiện, cũng như việc
áp dụng thực tiễn giải quyết các vụ việc liên
quan đến XPBQ trên Internet mà vấn nạn
này đã được ngăn chặn ở một mức độ nhất
định. Tại Việt Nam, thực tiễn xử lý XPBQ
chủ yếu là các vụ liên quan đến XPQTG
băng đĩa, sách lậu và sử dụng phần mềm máy
tính bất hợp pháp. Việt Nam cũng chưa có
vụ xử lý xâm phạm nào liên quan đến công
nghệ cao P2P. Các trang web chia sẻ phim và
âm nhạc bất hợp pháp vẫn tồn tại công khai,
thách thức pháp luật và việc kiểm soát của
các cơ quan chức năng. Thêm vào đó, bản
thân việc xét xử các vụ XPBQ thông thường
ở Việt Nam đến thời điểm này hầu như vẫn
chưa đạt được sự thống nhất cao giữa các cơ
quan thực thi. Tuy nhiên, trong thời gian tới,
việc tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế
về bảo hộ quyền SHTT, Việt Nam cũng cần
phải cân nhắc đưa ra những quy định phù
hợp với thực tiễn phát triển của ngành công
nghệ cao nhằm quản lý hoạt động này một
cách đúng đắn và toàn diện n
102 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xam_pham_ban_quyen_trong_moi_truong_so_giai_phap_cho_cac_nha.pdf