Trong nghiên cứu này, 5 ảnh Landsat đại diện cho bốn
giai đoạn trong khoảng thời gian 1972-2017 đã được sử dụng
để đánh giá và xây dựng bản đồ diễn biến đường bờ cho vịnh
Đà Nẵng. Kết quả phân tích cho thấy, khu vực có diễn biến
phức tạp về hình dạng và thường xuyên thay đổi là tại vị trí
xung quanh cửa sông Cu Đê, sông Hàn và cảng Tiên Sa.
Xu hướng chung về diễn biến đường bờ biển vịnh Đà
Nẵng là hiện tượng xói lở và diễn ra mạnh trong hai giai
đoạn đầu tiên từ năm 1973-1999. Ngoài ra, hiện tượng bồi
lắng cũng xuất hiện từ khu vực cửa sông Hàn tới bờ phải.
Đến giai đoạn cuối thì hiện tượng xói lở tiếp tục diễn ra đặc
biệt ở khu vực bờ biển với bề rộng bị xói lở lớn nhất là
25,64m. Ngoài ra, hoạt động san lấp nhân tạo ở khu vực bờ
trái cửa sông Hàn cũng làm thay đổi hình thái ở khu vực
này, có những vị trí chiều rộng san lấp lên tới 471,72m với
diện tích ước tính khoảng 2.377.158,4m2.
Bốn bản đồ diễn biến đường bờ theo thời gian đã được
thiết lập cho vịnh Đà Nẵng. Những kết quả này sẽ cung cấp
thêm tổng quan chung về xu hướng vận chuyển bùn cát, tài
liệu phục vụ cho mô phỏng và kiểm định các bài toán về
diễn biến hình thái, phục vụ cho thiết kế kỹ thuật các công
trình, quản lý tài nguyên vịnh Đà Nẵng từ quá khứ đến hiện
tại và tương lai.
5 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 766 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng bản đồ diễn biến đường bờ bằng công nghệ ảnh viễn thám, áp dụng cho vịnh Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 3(124).2018 1
XÂY DỰNG BẢN ĐỒ DIỄN BIẾN ĐƯỜNG BỜ BẰNG CÔNG NGHỆ
ẢNH VIỄN THÁM, ÁP DỤNG CHO VỊNH ĐÀ NẴNG
MAPPING SHORELINE VARIATION USING REMOTE SENSING TECHNOLOGY,
APPLIED TO DANANG BAY
Nguyễn Quang Bình, Võ Ngọc Dương
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; nqbinh@dut.udn.vn, vnduong@dut.udn.vn
Tóm tắt - Phân tích diễn biến và dự báo đường bờ biển đóng một
vai trò quan trọng đối với công tác quản lý tổng hợp vùng duyên
hải. Điều này trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu
và nước biển dâng. Ngày nay, có rất nhiều phương pháp được sử
dụng để đánh giá diễn biến đường bờ biển như: Khảo sát trắc địa
và GPS, chụp ảnh trên không, viễn thám, ... Tuy nhiên, công nghệ
viễn thám đang vượt trội so với những kỹ thuật khác, do dữ liệu
thu thập trong thời gian dài, khả năng thu thập trong phạm vi lớn.
Vì vậy, với mục tiêu cung cấp cái nhìn tổng quan về diễn biến
đường bờ biển ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua cũng như
dự đoán xu hướng thay đổi trong tương lai, công nghệ viễn thám
được chọn để phân tích và xây dựng bản đồ diễn biến đường bờ
dọc theo vịnh Đà Nẵng qua bốn giai đoạn từ năm 1972 đến 2017.
Abstract - Shoreline variation analysis and prediction play an
important role in integrated coastal zone management. It becomes
more pressing in the context of climate change and sea level rise.
Nowadays, there are lot of methods to assess the change of
shoreline such as: Geodetic survey and GPS, aerial photography,
remote sensing However, the last technique is increasingly
competitive compared to the others due to the long time acquisition
data and the observed capacity in large scale. Therefore, with the
aims of providing an overview about the shoreline variation in
Danang city over the past time as well predicting the change
tendency in the future, remote sensing technique is chosen to
analyze and map the shoreline variation along Danang Bay through
four stages from 1972 to 2017.
Từ khóa - đường bờ; bản đồ diễn biến đường bờ; viễn thám; vịnh
Đà Nẵng; thành phố Đà Nẵng.
Key words - shoreline; shoreline variation map; remote sensing;
Danang bay; Danang city.
1. Đặt vấn đề
Vịnh Đà Nẵng nằm ở phía Đông của thành phố Đà Nẵng,
có bãi biển kéo dài với nhiều công trình quan trọng như cảng
Tiên Sa, âu thuyền Thọ Quang, các khu nghỉ dưỡng, ...
Ngoài ra với bờ biển dài, nơi đây trở thành một địa điểm du
lịch nổi tiếng hàng năm thu hút rất nhiều khách du lịch. Tuy
nhiên, vịnh Đà Nẵng lại nằm trong vùng tác động mạnh của
nhiều yếu tố như thủy triều biển Đông, là cửa ra của hệ thống
sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Cu Đê hàng năm nhận một
lượng bùn cát tương đối lớn. Kết hợp với tác động của biến
đổi khí hậu và nước biển dâng làm cho hàm lượng phù sa
thay đổi lớn. Đây là các nguyên nhân chính làm thay đổi lớn
địa hình, đường bờ của vịnh và hình thái các bãi tắm. Trong
những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan cũng
xuất hiện ngày càng nhiều với cường độ và tần suất lớn hơn,
làm ảnh hưởng tới cuộc sống và các hoạt động sản xuất của
người dân. Bên cạnh đó, việc xây dựng các khu du lịch, các
công trình lấn biển cũng gây ra những biến đổi rất lớn về địa
hình và dòng chảy ven bờ. Chính vì vậy, việc tiến hành
nghiên cứu đánh giá diễn biến đường bờ cho khu vực vịnh
Đà Nẵng, xác định rõ quy luật diễn biến, nguyên nhân, mức
độ và phạm vi là hết sức cần thiết.
Hiện nay, có nhiều phương pháp đã được áp dụng để
nghiên cứu diễn biến đường bờ: Khảo sát trắc địa và GPS,
chụp ảnh trên không, viễn thám, ... [1]. Tất cả các phương
pháp đều có những thuận lợi và khó khăn riêng, tùy thuộc
vào khu vực nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu [2]. Khảo sát
trắc địa và GPS là phương pháp chính xác nhưng chi phí
khá cao và mất nhiều thời gian. Chụp ảnh trên không cung
cấp thông tin tương đối chính xác nhưng với khu vực bờ
biển dài thì phương pháp này không khả thi và chi phí cao.
Ảnh viễn thám là phương pháp có ưu điểm hơn với nguồn
dữ liệu khá đầy đủ bao phủ trên phạm vi lớn, có độ phân
giải cao theo không gian và dữ liệu kéo dài [3].
Với nguồn dữ liệu từ năm 1972 đến nay, ảnh có độ phân
giải trung bình 30mx30m và thời gian chụp trung bình 8
ngày, nên nguồn dữ liệu này đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
nghiên cứu về diễn biến đường bờ biển. Dựa trên cơ sở này,
công nghệ ảnh viễn thám kết hợp với công cụ Arcgis đã
được ứng dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong thời
gian gần đây. Một số lĩnh vực được áp dụng điển hình như:
Đánh giá diễn biến đường bờ, sự thay đổi nhiệt độ bề mặt,
thay đổi diện tích rừng, biến động sử dụng đất Vì vậy,
với mục tiêu cung cấp cái nhìn tổng quan về diễn biến
đường bờ biển ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua,
cũng như dự đoán xu hướng thay đổi trong tương lai, kỹ
thuật phân tích ảnh viễn thám được chọn để phân tích và
xây dựng bản đồ diễn biến đường bờ dọc theo vịnh Đà
Nẵng qua bốn giai đoạn từ năm 1973 đến 2017.
2. Phương pháp nghiên cứu
Hiện nay, có nhiều kỹ thuật phân tích ảnh viễn thám
khác nhau được sử dụng để nghiên cứu diễn biến đường
bờ: phương pháp tổ hợp màu, phương pháp phân ngưỡng,
phương pháp tỷ lệ ảnh, Phương pháp tổ hợp màu là một
trong những phương pháp đơn giản nhất dựa vào tổ hợp
các kênh ảnh ở các dải phổ sóng khác nhau để xác định
ranh giới giữa đất liền và nước [4], tuy nhiên kết quả lại
phụ thuộc một phần vào kỹ thuật xử lý ảnh của người dùng.
Phương pháp phân ngưỡng là phương pháp tách ảnh làm
hai lớp tách biệt nhau bởi một giá trị ngưỡng cho trước, kết
quả thu được là ảnh có hai giá trị khác nhau và người dùng
có thể gán giá trị cho khu vực quan tâm, phương pháp này
có hạn chế là kết quả phân tích vùng chuyển tiếp giữa đất
và nước sẽ cho kết quả không rõ ràng giữa đất và nước [5].
Phương pháp tỷ số ảnh được áp dụng để xác định các chỉ
số như chỉ số thực vật, ... Phương pháp này cho phép thể
hiện những biến đổi nhỏ nhất trong đặc tính phổ của các
2 Nguyễn Quang Bình, Võ Ngọc Dương
vật thể, từ đó có thể giải đoán một cách chính xác các đối
tượng trên [6].
Với ưu, nhược điểm của các phương pháp trên, năm
2007, Alesheikh và đồng nghiệp đã đưa ra một phương
pháp chung dùng để chiết tách đường bờ từ ảnh vệ tinh
(Hình 1). Kế thừa từ kết quả này, nhóm tác giả đã áp dụng
vào chiết tách đường bờ cho khu vực vịnh Đà Nẵng thông
qua cách tính tỷ số giữa các kênh phổ (kênh 2 và kênh 4)
đối với ảnh Landsat MSS, (kênh 2 và kênh 5) đối với ảnh
Landsat TM và ETM. Tất cả các ảnh Landsat được hiệu
chỉnh hình học về hệ tọa độ UTM với độ phân giải
30mx30m và 60mx60m. Để đảm bảo chính xác và hạn chế
tối đa các sai số, việc chiết tách đường bờ từ ảnh vệ tinh
được hiệu chỉnh thêm bởi tác động của thủy triều.
Hình 1. Sơ đồ chiết xuất đường bờ từ ảnh vệ tinh [5]
2.1. Vịnh Đà Nẵng
Hình 2. Vịnh Đà Nẵng
Vịnh Đà Nẵng nằm ở phía Đông của thành phố Đà
Nẵng (Hình 2), là cửa ra của hệ thống sông Vu Gia – Thu
Bồn và sông Cu Đê, với diện tích lưu vực hơn 10.000 km2.
Dọc theo vịnh Đà Nẵng có bãi biển kéo dài hơn 61,92 km,
có dòng chảy diễn biến theo mùa và chịu ảnh hưởng rất lớn
của chế độ gió mùa (gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây
Nam) theo hướng trục chính của biển, với tốc độ trung bình
khoảng 20 - 25 cm/s. Chế độ thủy triều ở vịnh là bán nhật
triều không đều, mỗi ngày lên xuống hai lần, biên độ triều
dao động từ 0,69 – 0,85 m [7].
2.2. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng 5 ảnh Landsat đặc trưng cho 4 giai
đoạn khác nhau để phân tích diễn biến đường bờ ở khu vực vịnh
Đà Nẵng. Thông tin chi tiết về dữ liệu ảnh Landsat được thể
hiện tại Bảng 1 [8].
Bảng 1. Dữ liệu ảnh Landsat
Số
thứ tự
Bộ
cảm
Cột/ hàng
Giờ địa
phương
Độ phân
giải
1 MSS 30/06/1973 02:37:27 60x60 m
2 TM 03/09/1988 02:37:15 30x30 m
3 TM 16/07/1999 02:44:11 30x30 m
4 ETM 16/05/2003 02:55:10 30x30 m
5 OLI 11/03/2017 03:06:14 30x30 m
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kết quả chiết tách đường bờ
Kết quả trích xuất đường bờ trong 5 năm được chồng
lên ảnh Landsat tương ứng để kiểm chứng và đánh giá kết
quả phân tích. Kết quả cho thấy có sự phù hợp cao trong
phân tích (Hình 3).
3.2. Đánh giá quy luật diễn biến đường bờ vịnh Đà Nẵng
Để làm rõ hơn mức độ thay đổi và xác định quy luật
diễn biến đường bờ của vịnh Đà Nẵng, 25 mặt cắt từ bờ trái
qua bờ phải được sử dụng để trích xuất kết quả chi tiết
(Hình 4), kết quả được thể hiện tại Hình 5.
Giai đoạn từ năm 1973 – 1988, hiện tượng xói lở xuất
hiện ở khu vực bờ trái, dọc theo bờ biển và bờ trái cửa sông
Cu Đê, Sông Hàn. Bề rộng xói lớn nhất là 208,6m xuất hiện
tại mặt cắt số 1-1 ở bờ trái. Ngược lại, hiện tượng bồi lắng
lại xuất hiện ở cảng Tiên Sa, bờ phải và bờ phải cửa sông
Cu Đê, sông Hàn. Chiều rộng bồi lắng lớn nhất tương ứng
là: 129m, 147,25m, 130m và 439,34m.
Trong giai đoạn từ năm 1988 – 1999, hiện tượng xói lở
vẫn tiếp tục diễn ra, phạm vi thay đổi lớn nhất tại mặt cắt
20-20, nằm ở bờ trái cửa sông Hàn với bề rộng xói lở là
439,34m. Giai đoạn từ năm 1999 – 2003, hiện tượng xói lở
xuất hiện tập trung tại khu vực cửa sông Cu Đê, trong khi
hiện tượng bồi lắng lại xuất hiện ở cửa sông Hàn. Cụ thể,
tại mặt cặt 6-6 ở bờ trái cửa sông Cu Đê, bề rộng xói là
87,27m; bề rộng bồi lắng đạt 317,9m tại mặt cắt 20-20 ở
bờ phải cửa sông Hàn.
Trong giai đoạn từ năm 2003 – 2017, hiện tượng xói lở
diễn ra mạnh ở khu vực bờ biển Đà Nẵng, vị trí bờ biển bị
xói lở lớn nhất là 25,64m (mặt cắt 12-12). Ngoài ra, hoạt
động san lấp nhân tạo ở khu vực bờ trái cửa sông Hàn cũng
làm thay đổi hình thái ở khu vực này, có những vị trí chiều
rộng san lấp lên tới 471,72m (mặt cắt 16-16).
Kênh 2, Kênh 4, Kênh 5
(Landsat TM)
Kênh 2/ Kênh 4 > 1 và
Kênh 2/ Kênh 5 >1
Phân ngưỡng ở
Kênh 5
Ảnh số 2 Ảnh số 1
Nhân hai ảnh
Chiết tách đường bờ
Hiệu chỉnh tác động của
thủy triều
Bản đồ biến động đường bờ
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 3(124).2018 3
Xu hướng chung về diễn biến đường bờ biển vịnh Đà
Nẵng là hiện tượng xói lở và diễn ra mạnh trong hai giai
đoạn đầu tiên, từ năm 1973-1999. Ngoài ra, hiện tượng bồi
lắng cũng xuất hiện từ khu vực cửa sông Hàn tới bờ phải.
Đến giai đoạn cuối thì hiện tượng xói lở tiếp tục diễn ra đặc
biệt tại khu vực dọc theo bờ biển, riêng khu vực bờ trái cửa
sông Hàn, do hoạt động nhân tạo nên đường bờ được mở
rộng ra khá lớn.
c) d) e)
Hình 3. Kết quả trích xuất đường bờ vịnh Đà Nẵng theo thời gian
(a) 30/06/1973, (b) 03/09/1988, (c) 16/07/1999, (d) 16/05/2003, (e) 11/03/2017
Hình 4. Kết quả diễn biến đường bờ và vị trí các mặt cắt ngang
Hình 5. Diễn biến đường bờ tại các mặt cắt ngang
3.3. Xây dựng bản đồ biến động đường bờ vịnh Đà Nẵng
Hình 6 thành lập bản đồ biến động đường bờ vịnh Đà
Nẵng qua bốn giai đoạn và kết quả cụ thể được trình bày
tại Bảng 2.
(a) (b)
4 Nguyễn Quang Bình, Võ Ngọc Dương
Hình 6. Bản đồ diễn biến đường bờ qua bốn giai đoạn
Bảng 2. Diện tích xói lở và bồi lắng qua bốn giai đoạn
Giai đoạn
Bờ trái Cửa sông Cu Đê
Xói lở (m2) Bồi lắng (m2) Xói lở (m2) Bồi lắng (m2)
1973-1988 2.452.489,0 19.983,1 138.307,7 79.588,1
1988-1999 266.713,1 1.719,9 538.345,2 9.301,0
1999-2003 19.219,2 37.457,9 57.256,2 35.749,7
2003-2017 55.706,1 43.534,7 26.738,8 32.442,5
Giai đoạn
Bờ biển Cửa sông Hàn
Xói lở (m2) Bồi lắng (m2) Xói lở (m2) Bồi lắng (m2)
1973-1988 442.918,0 356.104,0 145.510,2 2.643.897,9
1988-1999 270.743,6 3.750,9 2.327.913,6 60.929,7
1999-2003 23.189,9 54.674,4 10.266,5 988.221,0
2003-2017 165.261,6 9.665,2 10.081,7 2.377.158,4
Từ kết quả ở Hình 6 và Bảng 2 cho thấy sự thay đổi cụ
thể tại các khu vực đặc trưng như sau:
Tại khu vực cửa sông Cu Đê:
+ Giai đoạn có diện tích xói lở lớn nhất là giai đoạn
1988 – 1999, với diện tích: 538.345,2m2.
+ Giai đoạn có diện tích xói lở nhỏ nhất là giai đoạn
2003 – 2007, với diện tích: 26.738,8m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng lớn nhất là giai đoạn
1973 – 1988, với diện tích: 79.588,1m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng nhỏ nhất là giai đoạn
1988 – 1999, với diện tích: 9.301m2.
Tại khu vực bờ biển:
+ Giai đoạn có diện tích xói lở lớn nhất là giai đoạn
1973 – 1988, với diện tích: 442.918m2.
+ Giai đoạn có diện tích xói lở nhỏ nhất là giai đoạn
1999 – 2003, với diện tích: 23.189,9m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng lớn nhất là giai đoạn
1973 – 1988, với diện tích: 356.104m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng nhỏ nhất là giai đoạn
1988 – 1999, với diện tích: 3.750,9m2.
Giai đoạn
Cảng Tiên Sa Bờ phải
Xói lở (m2) Bồi lắng (m2) Xói lở (m2) Bồi lắng (m2)
1973-1988 165.098,0 345.233,5 4.518,2 526.930,0
1988-1999 155.360,2 13.866,3 63.663,2 5.588,2
1999-2003 26.439,2 22.833,9 2.157,4 4.593,4
2003-2017 31.204,9 232.739,2 19.216,2 2.095,5
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 3(124).2018 5
Tại khu vực cửa sông Hàn:
+ Giai đoạn có diện tích xói lở lớn nhất là giai đoạn
1988 – 1999, với diện tích: 2.327.913,6m2.
+ Giai đoạn có diện tích xói lở nhỏ nhất là giai đoạn
2003 – 2017, với diện tích: 10.081,7m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng lớn nhất là giai đoạn
1973 – 1988, với diện tích: 2.643.897,9m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng nhỏ nhất là giai đoạn
1988 – 1999, với diện tích: 60.929,7m2.
Tại khu vực cảng Tiên Sa:
+ Giai đoạn có diện tích xói lở lớn nhất là giai đoạn
1973 – 1988, với diện tích: 165.098m2.
+ Giai đoạn có diện tích xói lở nhỏ nhất là giai đoạn
1999 – 2003, với diện tích: 26.439,2m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng lớn nhất là giai đoạn
1973 – 1988, với diện tích: 345.233,5m2.
+ Giai đoạn có diện tích bồi lắng nhỏ nhất là giai đoạn
1988 – 1999, với diện tích: 13.866,3m2.
4. Kết luận
Trong nghiên cứu này, 5 ảnh Landsat đại diện cho bốn
giai đoạn trong khoảng thời gian 1972-2017 đã được sử dụng
để đánh giá và xây dựng bản đồ diễn biến đường bờ cho vịnh
Đà Nẵng. Kết quả phân tích cho thấy, khu vực có diễn biến
phức tạp về hình dạng và thường xuyên thay đổi là tại vị trí
xung quanh cửa sông Cu Đê, sông Hàn và cảng Tiên Sa.
Xu hướng chung về diễn biến đường bờ biển vịnh Đà
Nẵng là hiện tượng xói lở và diễn ra mạnh trong hai giai
đoạn đầu tiên từ năm 1973-1999. Ngoài ra, hiện tượng bồi
lắng cũng xuất hiện từ khu vực cửa sông Hàn tới bờ phải.
Đến giai đoạn cuối thì hiện tượng xói lở tiếp tục diễn ra đặc
biệt ở khu vực bờ biển với bề rộng bị xói lở lớn nhất là
25,64m. Ngoài ra, hoạt động san lấp nhân tạo ở khu vực bờ
trái cửa sông Hàn cũng làm thay đổi hình thái ở khu vực
này, có những vị trí chiều rộng san lấp lên tới 471,72m với
diện tích ước tính khoảng 2.377.158,4m2.
Bốn bản đồ diễn biến đường bờ theo thời gian đã được
thiết lập cho vịnh Đà Nẵng. Những kết quả này sẽ cung cấp
thêm tổng quan chung về xu hướng vận chuyển bùn cát, tài
liệu phục vụ cho mô phỏng và kiểm định các bài toán về
diễn biến hình thái, phục vụ cho thiết kế kỹ thuật các công
trình, quản lý tài nguyên vịnh Đà Nẵng từ quá khứ đến hiện
tại và tương lai.
Lời cảm ơn: Bài báo này được tài trợ bởi Trường Đại
học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng với đề tài có mã số:
T2018-02-27.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] M. Louati, H. Saïdi, and F. Zargouni, “Shoreline change assessment
using remote sensing and GIS techniques: A case study of the
Medjerda delta coast, Tunisia”, Arab. J. Geosci., Vol. 8, No. 6, 2015,
pp. 4239-4255.
[2] D. Ozturk and F. A. Sesli, “Shoreline change analysis of the
Kizilirmak Lagoon Series”, Ocean Coast. Manag., Vol. 118, 2015,
pp. 290-308.
[3] Z. Du et al., “Analysis of Landsat-8 OLI imagery for land surface
water mapping”, Remote Sens. Lett., Vol. 5, No. 7, 2014, pp. 672-
681.
[4] Vũ Thị Thìn, Phạm Văn Duẩn, Nguyễn Văn Thị, Nguyễn Việt Hưng,
Nguyễn Hữu Văn, “Nghiên cứu quy trình xử lý ảnh vệ tinh Landsat
8 trong Arcgis”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp, No.
1, 2015, trang 73.
[5] A. A. Alesheikh, A. Ghorbanali, and N. Nouri, “Coastline change
detection using remote sensing”, Int. J. Environ. Sci. Technol., Vol.
4, No. 1, 2007, pp. 61-66.
[6] P. Chand and P. Acharya, “Shoreline change and sea level rise along
coast of Bhitarkanika wildlife sanctuary, Orissa: An analytical
approach of remote sensing and statistical techniques”, Int. J.
Geomatics Geosci., Vol. 1, No. 3, 2010, pp. 436-455.
[7] Cục Thống kê Đà Nẵng, Điều kiện tự nhiên Đà Nẵng, 2010.
[8] USGS, Cục Khảo sát Địa chất Hoa kỳ, https://www.usgs.gov.
(BBT nhận bài: 26/2/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 15/3/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pdffull_2019m02d028_15_24_36_1473_2116997.pdf