Ở các loài khác sử dụng các phương pháp đột
biến khác cho ra các tần số đột biến khác nhau. Theo
nghiên cứu của Chen và cộng tác viên (2012), sử
dụng phân tích các đoạn mồi RAPD và ISJ phát hiện
tần số đột biến trong lúa mì là 1/34 kb, Uauy và cộng
tác viên (2009) - là 1/49,4 kb và Parry và cộng tác
viên (2009) - là 1/49 kb. Những mật độ đột biến cao
hơn trong lúa mì sử dụng cùng nồng độ EMS như
Slade và cộng tác viên (2005) là 1/24 kb và Dong và
cộng tác viên (2009) - là 1/30 kb. Có nhiều các yếu
tố có thể ảnh hưởng đến tần số đột biến, chẳng hạn
như nồng độ đột biến, thời gian tiếp xúc, tác động
môi trường và kiểu gen của loài mục tiêu (Song và
Henry, 1995).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Tầm soát và xây dựng bộ chỉ thị bao gồm 50 chỉ
thị RAPD và 2 chỉ thị ISJ. Chọn được mười mồi chạy
ổn định và băng rõ nét trên giống ngô nội ML10 là
OPN4, OPN11, OPN16, OPN18, OPAA03, OPAB01,
OPBA01, OPAH03, E2 và R2.
Kết quả chạy 3 chỉ thị phân tử RAPD (OPN16,
OPN18 và OPAH03) và 2 chỉ thị ISJ (E2, R2) trên
186 cá thể của quần thể đột biến cho thấy tần số đột
biến trung bình là 1/34,3 kb.
4.2. Đề nghị
Ứng dụng bộ chỉ thị RAPD để sàng lọc nền di
truyền cho chọn giống, để kiểm tra đa hình quần thể.
Để bổ sung làm rõ cho kết quả này, chúng tôi sẽ
tiến hành giải mã trình tự cả hệ gene của một số cá
thể đột biến để xác định cụ thể có bao nhiêu đột biến
trong một cá thể.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng bộ chỉ thị phân tử RAPD và ISJ để xác định độ đa hình và tần số đột biến ở ngô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
XÂY DỰNG BỘ CHỈ THỊ PHÂN TỬ RAPD VÀ ISJ
ĐỂ XÁC ĐỊNH ĐỘ ĐA HÌNH VÀ TẦN SỐ ĐỘT BIẾN Ở NGÔ
Trần Thị Thúy1, Đậu Thị Ngọc Ngà1, Nguyễn Thị Loan1,
Bùi Hồng Ngọc1, Trần Hồng Quân1, Trần Thị Ngọc Diệp1,
Trần Đăng Khánh1, Khuất Hữu Trung1, Vi Lạng Sơn1
TÓM TẮT
Nghiên cứu đã sử dụng chỉ thị phân tử RAPD và ISJ để đánh giá và xác định tần số đột biến của quần thể ở ngô
được tạo ra từ gây đột biến hạt phấn với hóa chất EMS. Kết quả sử dụng 50 mồi RAPD và 2 mồi ISJ với DNA của
giống ngô ML10 (giống nền sử dụng để tạo quần thể đột biến) đã xác định được 10 mồi đa hình từ 3 - 4 băng. Trong
10 mồi sử dụng, có 5 mồi chạy ổn định và lặp lại tốt giữa 186 mẫu DNA được tách từ 186 cá thể M1 từ quần thể đột
biến. Tần số đột biến trung bình cho cả 5 mồi là 1/34,3 kb. Nghiên cứu này là bước đầu tiên đánh giá chất lượng
quần thể đột biến bằng chỉ thị phân tử. Kết quả mở đường cho các nghiên cứu khác như sàng lọc kiểu hình, giải mã
hệ genome, để đánh giá sâu hơn quần thể đột biến EMS ở ngô ML10 làm cơ sở cho nghiên cứu cơ bản chức năng
gene và chọn giống.
Từ khóa: RAPD, ISJ, tần số đột biến
1 Viện Di truyền Nông nghiệp
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây ngô là một cây trồng có ý nghĩa quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, có rất nhiều các
nghiên cứu trên thế giới sử dụng cây ngô làm cây
mô hình nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. Rất nhiều
gene ở ngô đã được làm sáng tỏ chức năng dựa vào
việc tìm và nghiên cứu các biến dị tự nhiên/nhân
tạo. Phần lớn các đột biến nhân tạo trên ngô được
tạo ra bằng hai cách: dùng EMS xử lí hạt phấn, hoặc
lai với dòng có transposon đang có khả năng “nhảy”
(transpose) mạnh (Candela and Hake, 2008). Gerald
Neuffer đã tạo ra rất nhiều đột biến được sử dụng bởi
các nhà khoa học trên thế giới cho đến nay (Neuffer,
1994). Để đánh giá chất lượng của một quần thể đột
biến, người ta có thể dựa vào tần số tìm thấy các đột
biến kiểu hình khác dạng so với dòng gốc. Đánh giá
này dễ dàng và trực quan nhưng lại không thể phát
hiện các đột biến điểm không gây ra kiểu hình. Vì
vậy người ta sẽ kết hợp với phương pháp dùng chỉ
thị phân tử để kiểm tra ước tính tần số đột biến.
Mồi RAPD (random amplified polymorphic
DNA) là những đoạn nucleotide (oligonucleotide)
10bp có thể bám vào DNA khuôn và nhân lên sản
phẩm PCR. Sự xuất hiện thêm băng mới hay mất
đi một băng là kết quả của việc vị trí bám mồi trên
DNA khuôn bị thay đổi ít nhất 1 bp hoặc hơn. Trong
trường hợp gây đột biến bằng EMS, phần lớn sự thay
đổi là đột biến điểm (thay 1 nucleotide). Chen và
cộng tác viên (2012) đã sử dụng RAPD để ước tính
tần số đột biến trên quần thể đột biến lúa mì bằng
EMS. Mồi ISJ (Intron-exon Spliced Junction) là loại
mồi được thiết kế dựa trên trình tự bảo thủ của nơi
tiếp giáp và cắt giữa intron và exon theo Weining và
cộng tác viên (1991); Zeng và cộng tác viên (2010).
Mồi ISJ thường có 15 nucleotit và vì thế nhiệt độ
nóng chảy Tm của mồi này thường cao hơn (Tm
khoảng 46ºC) mồi RAPD (10 bp Tm khoảng 31ºC).
Vì vậy, khả năng lặp lại của phản ứng PCR tốt hơn
mồi RAPD. Cách tính tần số đột biến với mồi ISJ
giống với mồi RAPD.
Bằng xử lí hạt phấn với EMS trên dòng ngô nội
thuần chủng ML10, chúng tôi đã tạo được quần thể
đột biến. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chuẩn
hóa điều kiện PCR và sàng lọc các mồi RAPD chạy
ổn định ở dòng ngô ML10, từ đó xác định được tần
số đột biến của quần thể đột biến EMS trên giống
ngô ML10.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Dòng mẹ ML10 của giống lai đơn LVN10 được
lựa chọn để xử lí đột biến. Giống ngô lai đơn LVN10
có nguồn gốc của Viện Nghiên cứu Ngô, được công
nhận là giống tiến bộ kỹ thuật tháng 8 năm 1994.
Mặc dù đã được tạo ra cách đây 25 năm nhưng hiện
giống LVN10 vẫn là giống được nhiều hộ nông dân
chọn lựa vì năng suất cao và khả năng thích ứng với
mọi vùng sinh thái trong cả nước.
- Các mồi RAPD và ISJ.
47
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
Bảng 1. Danh sách các mồi RAPD sử dụng trong nghiên cứu
STT Tên mồi Trình tự mồi (5’ - 3’) STT Tên mồi
Trình tự mồi
(5’ - 3’) STT Tên mồi
Trình tự mồi
(5’ - 3’)
1 OPO01 GGC ACG TAA 18 OPO18 CTC GCT ATC 35 OPN15 CAG CGA CTG
2 OPO02 ACG TAG CGT 19 OPO19 GGT GCA CGT 36 OPN16 AAG CGA CCT
3 OPO03 CTG TTG CTA 20 OPO20 ACA CAC GCT 37 OPN17 CAT TGG GGA
4 OPO04 AAG TCC GCT 21 OPN01 CTC ACG TTG 38 OPN18 GGT GAG GTC
5 OPO05 CCC AGT CAC 22 OPN02 ACC AGG GGC 39 OPN19 GTC CGT ACT
6 OPO06 CCA CGG GAA 23 OPN03 GGT ACT CCC 40 OPN20 GGT GCT CCG
7 OPO07 CAG CAC TGA 24 OPN04 GAC CGA CCC 41 OPF01 ACG GAT CCT G
8 OPO08 CCT CCA GTG 25 OPN05 ACT GAA CGC 42 OPAA03 TTA GCG CCC C
9 OPO09 TCC CAC GCA 26 OPN06 GAG ACG CAC 43 OPAA04 AGG ACT GCT C
10 OPO10 TCA GAG CGC 27 OPN07 CAG CCC AGA 44 OPAB01 CCG TCG GTA G
11 OPO11 GAC AGG AGG 28 OPN08 ACC TCA GCT 45 OPAH03 GGT TAC TGC C
12 OPO12 CAG TGC TGT 29 OPN09 TGC CGG CTT 46 OPAJ01 ACG GGT CAG A
13 OPO13 GTC AGA GTC 30 OPN10 ACA ACT GGG 47 OPAJ05 CAG CGT TGC C
14 OPO14 AGC ATG GCT 31 OPN11 TCG CCG CAA 48 OPBA01 TTC CCC ACC C
15 OPO15 TGG CGT CCT 32 OPN12 CAC AGA CAC 49 OPBB01 ACA CTG GCT G
16 OPO16 TCG GCG GTT 33 OPN13 AGC GTC ACT 50 OPBB05 AACAGGGCCG
17 OPO17 GGC TTA TGC 34 OPN14 TCG TGC GGG
Bảng 2. Danh sách các mồi ISJ sử dụng
trong nghiên cứu (trình tự mồi thiết kế
theo Weining và cộng tác viên, 1991).
STT Tên mồi Trình tự mồi (5’3’)
1 E2 GGAATTCCA CGTCCA
2 R2 TGCTGGTTTGCA GGT
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp xử lí đột biến
Ngô được trồng hai vụ ở Hà Nội: vụ Xuân trồng
vào tháng 2, vụ Mùa trồng vào tháng 8. Phương
pháp gây đột biến được thực hiện theo (Neuffer
(1994). Hạt phấn ngô được thu thập mới vào buổi
sáng trong túi bao cờ (cờ đã được bọc từ chiều hôm
trước đó). Khoảng 1220 ml phấn được ủ với 70 ml
dầu Mineral oil (Sigma) chứa EMS (Sigma) ở nồng
độ 0,05% trong 30 phút. Sau đó, dung dịch hạt phấn
trong dầu được nhỏ vào râu ngô. Các hạt ngô thu
được từ bắp xử lí gọi là các hạt M1.
Trong nghiên cứu này sử dụng 186 cá thể M1
ngẫu nhiên từ quần thể đột biến từ dòng ML10.
2.2.2. Phương pháp PCR, điện di
- Mẫu lá được thu thập và tách chiết ADN
tổng số theo phương pháp CTAB của (Doyle JJ và
Dolyl JL, 1990).
- Phản ứng PCR được tiến hành trên máy Veriti
96 well Thermal cycler. Tổng thể tích phản ứng là
15 µl, bao gồm: Taq2X Mastermix (NEB): 7,5 µl;
DNA khuôn: 3 µl; mồi (5 µM): 3 µl, H2O: 1,5 µL.
Chu trình nhiệt: 95ºC: 5 phút; sau đó lặp lại 40 chu
kì: 95ºC: 30 giây, 31ºC (với mồi RAPD) hoặc 46ºC
(với mồi ISJ): 1 phút, 68ºC: 2 phút và kết thúc bằng
68ºC: 10 phút.
- Sản phẩm PCR được điện di trên gel agarose
1,0%. Gel được nhuộm ethidium bromide 0,5 mg/ml
và soi trên máy Alpha Imager 1220 (Alpha Innotech,
CA, USA).
- Công thức tính tần số đột biến dựa vào số
nucleotide đã được sàng lọc nhờ chạy RAPD, ISJ
như sau: Với mỗi mồi RAPD có chiều dài là “n”, có
số băng nhân lên ở dòng wild-type (chưa gây đột
biến) là “X”, số băng mới xuất hiện thêm (hoặc bớt)
là “Y”, và chạy kiểm tra “Z” cá thể. Tần số đột biến =
Y/((nx2) ˟ X ˟ Z). Đơn vị 1/base pair (1/bp) theo
Chen và cộng tác viên (2012).
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1/2016 đến
tháng 12/2018 tại Bộ môn Kỹ thuật Di truyền, Viện
Di truyền Nông nghiệp.
48
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả chuẩn hoá PCR mồi RAPD và ISJ
ở ngô
50 mồi RAPD đã được sử dụng với DNA của
giống ngô ML10 (giống nền sử dụng để tạo quần thể
đột biến) và cho kết quả như hình 1.
Hình 1. Kết quả chạy kiểm tra các mồi RAPD cho mẫu ngô ML10
Ghi chú: M là thang DNA O’Generuler 1kb của Thermo; (-) là đối chứng âm (có mồi OPN16) nhưng thay thế DNA
khuôn bằng nước cất; (+) đối chứng dương: mồi OPN16, DNA ML10.
Nhằm lựa chọn các mồi có nhiều điểm bám để
phục vụ kiểm tra được nhiều vị trí trong hệ gene của
ngô, chúng tôi chọn những mồi có lên từ ba băng
trở lên để chạy lại và cho kết quả như hình 2. Các
mồi RAPD cho từ 3 băng trở lên và ổn định qua hai
lần lặp lại là: OPO3, OPO6, OPO7, OPO10, OPO11,
OPO12, OPN3, OPN4, OPN11, OPN13, OPN16,
OPN18, OPF01, OPAA03, OPAA04, OPAB01,
OPAH03, OPBA01, OPBB01 (Hình 2). Trong số các
mồi RAPD chạy ổn định này, các mồi có số băng rõ
và có từ 4 băng trở lên là tám mồi: OPN4, OPN11,
OPN16, OPN18, OPAA03, OPAB01, OPBA01,
OPAH03. Hai mồi ISJ chạy khá ồn định là E2 và R2.
Chúng tôi sẽ ưu tiên sử dụng 10 mồi này trước để
sàng lọc quần thể đột biến.
Hình 2. Kết quả chạy lặp lại các mồi RAPD với DNA của giống ngô ML10
Ghi chú: M (1) thang DNA O’Generuler 1kb của Thermo.
3.2. Xác định tần số đột biến bằng chỉ thị phân tử
RAPD và ISJ
3.2.1. Tần số đột biến trên dòng ML10
Trong 10 mồi sử dụng, xác định được 5 mồi chạy
ổn định và lặp lại tốt trên 186 mẫu cá thể M1 từ
quần thể đột biến. Các mồi khác phản ứng PCR lên
kém hoặc không có độ lặp lại ổn định giữa các mẫu
DNA nên chúng tôi không sử dụng kết quả để tính
tần số đột biến. Kết quả được tóm tắt trong bảng 2
và hình 3. Chúng tôi chỉ sử dụng các băng nào rõ,
lặp lại được ở các mẫu chạy để tính tần số đột biến.
49
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
Ví dụ: mồi R2 có thêm một số băng kích thước từ
500 - 700 bp nhưng không rõ và không lặp lại được
ở tất cả các mẫu nên chúng tôi chỉ tính là có 3 băng
rõ ở đối chứng (Hình 3). Kết quả bảng 2 cho thấy chỉ
có 3 mồi (OPN16, E2, R2) chúng tôi phát hiện được
cá thể có băng đột biến, hai mồi OPN18, OPAH03
không xuất hiện cá thể đột biến. Mồi OPN16, E2, R2
đều xuất hiện 1 vị trí đột biến (1 cá thể/186 cá thể
kiểm tra). Tần số đột biến của 3 mồi OPN16, E2, R2
lần lượt là 1/26,7 kb; 1/27,9 kb; 1/16,7 kb. Như vậy,
tính chung cho cả 5 mồi (tổng số đột biến (3)/tổng
số nucleotide đã sàng lọc từ cả 5 mồi (103 kb): tần
số đột biến là 1/34,3 kb. Lu và cộng tác viên (2018)
dùng EMS đột biến hạt phấn trên giống ngô B73, sau
đó đã giải mã exon (exon capture) các dòng M1, từ
đó tính trung bình 4585 đột biến trên một dòng M1.
Với hệ genome ngô là 2,300,000 kb, tần số đột biến
của quần thể trong nghiên cứu bởi Lu và cộng tác
viên (2018) là 1/500 kb. Tuy nhiên, đây là dựa trên
giải mã chỉ đoạn exon chứ không phải genomic nên
tần số đột biến của Lu và các cộng tác viên (2018)
trên cả hệ genome có thể cao hơn.
Hình 3. Hình ảnh chạy điện di sản phẩm PCR
có xuất hiện băng đột biến của các mồi E2, R2 và OPN16
Ghi chú: Mũi tên chỉ mẫu có số băng thêm/bớt do
đột biến.
Bảng 2. Kết quả xác định tần số đột biến bằng chỉ thị phân tử
Tên mồi Trình tự (5’-3’) Số Nu của mồi (n)
Số băng
PCR rõ ở
đối chứng
(X)
Số băng
thêm/bớt
xuất hiện
(Y)
Số cá thể
kiểm tra
(Z)
Tần số đột
biến (F)
OPN16 AAGCGACCT 9 8 1 186 1/26,7 kb
OPN18 GGTGAGGTC 9 5 0 186 0/16,7 kb
OPAH03 GGTTACTGCC 10 4 0 186 0/14,9 kb
E2 GGAATTCCA CGTCCA 15 5 1 186 1/27,9 kb
R2 TGCTGGTTTGCA GGT 15 3 1 186 1/16,7 kb
Ở các loài khác sử dụng các phương pháp đột
biến khác cho ra các tần số đột biến khác nhau. Theo
nghiên cứu của Chen và cộng tác viên (2012), sử
dụng phân tích các đoạn mồi RAPD và ISJ phát hiện
tần số đột biến trong lúa mì là 1/34 kb, Uauy và cộng
tác viên (2009) - là 1/49,4 kb và Parry và cộng tác
viên (2009) - là 1/49 kb. Những mật độ đột biến cao
hơn trong lúa mì sử dụng cùng nồng độ EMS như
Slade và cộng tác viên (2005) là 1/24 kb và Dong và
cộng tác viên (2009) - là 1/30 kb. Có nhiều các yếu
tố có thể ảnh hưởng đến tần số đột biến, chẳng hạn
như nồng độ đột biến, thời gian tiếp xúc, tác động
môi trường và kiểu gen của loài mục tiêu (Song và
Henry, 1995).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Tầm soát và xây dựng bộ chỉ thị bao gồm 50 chỉ
thị RAPD và 2 chỉ thị ISJ. Chọn được mười mồi chạy
ổn định và băng rõ nét trên giống ngô nội ML10 là
OPN4, OPN11, OPN16, OPN18, OPAA03, OPAB01,
OPBA01, OPAH03, E2 và R2.
Kết quả chạy 3 chỉ thị phân tử RAPD (OPN16,
OPN18 và OPAH03) và 2 chỉ thị ISJ (E2, R2) trên
186 cá thể của quần thể đột biến cho thấy tần số đột
biến trung bình là 1/34,3 kb.
4.2. Đề nghị
Ứng dụng bộ chỉ thị RAPD để sàng lọc nền di
truyền cho chọn giống, để kiểm tra đa hình quần thể.
50
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(110)/2020
Để bổ sung làm rõ cho kết quả này, chúng tôi sẽ
tiến hành giải mã trình tự cả hệ gene của một số cá
thể đột biến để xác định cụ thể có bao nhiêu đột biến
trong một cá thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Candela H, Hake S., 2008. The art and design of genetic
screens: maize. Nature reviews Genetics, 9: 192-203.
Chen L, Huang L, Min D, Phillips A, Wang S, Madgwick
PJ, Parry MA, Hu YG., 2012. Development and
Characterization of a New TILLING Population
of Common Bread Wheat (Triticum aestivum L.).
PLoS ONE, 7 (7): e41570.doi:10.1371/journal.pone.
0041570.
Dong C, Dalton-Morgan J, Vincent K, Sharp P, 2009.
A Modified TILLING Method for Wheat Breeding.
Plant Gen., 2: 39-47.
Doyle JJ, Doyle JL, 1990. Isolation of plant DNA from
fresh tissue. Focus, 12: 13-15.
Lu, X., Liu, J., Ren, W., Yang, Q., Chai, Z., Chen, R.,
Wang, L., Zhao, J., Lang, Z., Wang, H., Fan, Y.,
Zhao, J. and Zhang, C., 2018. Gene-Indexed
Mutations in Maize. Molecular Plant, 11(3),
pp. 496-504.
Neuffer M.G., 1994. Mutagenesis. In: Freeling M.,
Walbot V. (eds) The Maize Handbook. Springer Lab
Manuals. Springer, New York, NY, pp 212-219.
Parry MA, Madgwick PJ, Bayon C, Tearall
K, Hernandez-Lopez A, Baudo M, Rakszegi
M, Hamada W, Al-Yassin A, Ouabbou H, Labhilili
M, Phillips AL, 2009. Mutation discovery for crop
improvement. Journal of Experimental Botany, 60:
2817-2825.
Slade AJ, Fuerstenberg SI, Loeffler D, Steine MN,
Facciotti D, 2005. A reverse genetic, nontransgenic
approach to wheat crop improvement by TILLING.
Nat Biotechnol, 23: 75-81.
Song W, Henry RJ, 1995. Molecular analysis of the
DNA polymorphism of wild barley (Hordeum
spontaneum) germplasm using the polymerase chain
reaction. Genetic Resources and Crop Evolution, 42:
273-281.
Uauy C, Paraiso F, Colasuonno P, Tran RK, Tsai H, B
Steve, C Luca, D Jorge., 2009. A modified TILLING
approach to detect induced mutations in tetraploid
and hexaploid wheat. BMC plant Biology, 9: 115.
Weining S and Langridge P., 1991. Identification and
mapping of polymorphisms in cereals based on the
polymerase chain reaction. Theoretical and Applied
Genetics, 82 (2): 209-216.
Zeng X, Wang Y, Li W, Wang C, Liu X. and Ji W.,
2010. Comparison of the genetic diversity between
Triticum aestivum ssp. tibetanum Shao and Tibetan
wheat landraces (Triticum aestivum L.) by using
intron-splice junction primers. Genetic Resources
and Crop Evolution, 57 (8): 1141-1150.
Development of RAPD and ISJ markers for analyzing mutation rate
in a Vietnamese maize EMS-induced mutant population
Tran Thi Thuy, Dau Thi Ngoc Nga, Nguyen Thi Loan,
Bui Hong Ngoc, Tran Hong Quan, Tran Thi Ngoc Diep,
Tran Dang Khanh, Khuat Huu Trung, Vi Lang Son
Abstract
EMS-induced pollen mutagenesis have been used to create a mutant population in a Vietnamese inbred ML10.
RAPD and ISJ molecular markers were used to evaluate the mutation frequency of Vietnamese maize EMS-induced
mutant population. Fifty RAPD and two ISJ markers were used to screen ML10 for robust markers that amplified
consistently more than 3 bands across tested samples. Ten such markers were identified and were used to screen
a subset population of 186 random individuals M1 plants. The average mutation frequency was estimated to be
1/34.3 kb. These results are the first step to show that the mutagenesis was effective allowing other methods such as
phenotyping and genome sequencing for further evaluation of EMS population in the ML10.
Keywords: RAPD, ISJ, Mutation frequency, maize mutagenesis, EMS
Ngày nhận bài: 15/12/2019
Ngày phản biện: 9/01/2020
Người phản biện: TS. Vũ Thị Thu Hiền
Ngày duyệt đăng: 13/01/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xay_dung_bo_chi_thi_phan_tu_rapd_va_isj_de_xac_dinh_do_da_hi.pdf