Thứ mười, tăng cường đánh giá chính
phủ và HCNN theo các tiêu chí và nội dung
của “quản trị tốt”. Như đã nói ở trên, một
CPKT, về bản chất đó là một chính phủ
“quản trị tốt”. Quản trị của chính phủ được
xem là quản trị tốt khi thực hiện tốt các yêu
cầu như: (i) lấy nhân dân làm trung tâm; (ii)
công khai, minh bạch; (iii) có sự tham gia
hiệu quả của người dân; (iv) hiệu quả; (v)
tính pháp quyền; (vi) tính trách nhiệm; (vi)
công bằng xã hội); (vii) liêm chính. Để thúc
đẩy chính phủ và CQHC nhà nước đảm bảo
thực hiện tốt các nội dung và tiêu chí trên
trong quản trị cần tăng cường đánh giá quản
trị chính phủ, đánh giá quản trị địa phương
ở các khía cạnh nêu trên. Theo đó, định kỳ
hằng năm cần tiến hành đánh giá và xếp
hạng quản trị chính phủ và quản trị địa
phương trên một số nội dung sau: (i) chất
lượng dịch vụ công; (ii) mức độ công khai,
minh bạch; (iii) sự tham gia của người dân;
(iv) mức độ tuân thủ pháp luật trong thực thi
công vụ; (v) tính công bằng trong thực thi
công vụ; (vi) tính đáp ứng trong thực thi
công vụ; (vii) tính hiệu quả; (viii) kiểm soát
tham nhũng; (ix) tính hiệu quả của quản trị
điện tử; (x) mức độ phân cấp, phân quyền
cho cấp dưới[12]. Điều này sẽ góp phần thúc
đẩy việc cải cách, đổi mới HCNN theo mô
hình quản trị tốt, từ đó góp phần xây dựng
CPKT ở Việt Nam hiện nay
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chính phủ kiến tạo ở Việt Nam hiện nay tiếp cận từ lý luận quản trị tốt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 8(408) - T4/202010
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Chính phủ kiến tạo phát triển: quan
niệm và đặc trưng cơ bản
Tuy có nhiều cách hiểu về chính phủ
kiến tạo (CPKT) phát triển, nhưng có thể
hiểu, CPKT phát triển là chính phủ làm tất
cả những gì có thể để sự phát triển có thể xảy
ra. Nói cách khác, đó là một chính phủ có
được năng lực và phương thức nhất định để
nuôi dưỡng, dẫn dắt, định hướng và thúc đẩy
sự phát triển, nhất là sự phát triển bền vững.
Một chính phủ như thế nào mới có thể có đủ
năng lực để nuôi dưỡng, dẫn dắt, định hướng
và thúc đẩy sự phát triển bền vững? Nhìn từ
lịch sử phát triển của khoa học xã hội và
nhân văn, nhất là lịch sử chính trị học, khoa
học hành chính công thì đây là câu hỏi
“vừa cũ, vừa mới”. Nói đây là câu hỏi “cũ”,
vì đây là chủ đề đã được đặt ra từ lâu và suy
cho cùng, lịch sử phát triển của chính trị học,
hành chính công là lịch sử theo đuổi đáp án
XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ KIẾN TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TIẾP CẬN TỪ LÝ LUẬN QUẢN TRỊ TỐT
Nguyễn Trọng Bình *
* TS. Học viện Chính trị khu vực IV.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Chính phủ kiến tạo, cải cách
hành chính công, quản trị tốt.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 31/03/2020
Biên tập : 07/04/2020
Duyệt bài : 16/04/2020
Article Infomation:
Keywords: Tectonic government;
public administration reform; good
governance.
Article History:
Received : 31 Mar. 2020
Edited : 07 Apr. 2020
Approved : 16 Apr. 2020
Tóm tắt:
Ở nước ta thời gian qua, những thành quả nghiên cứu về chính phủ
kiến tạo là rất quan trọng, góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực
tiễn để chúng ta đẩy mạnh cải cách hành chính công theo tinh thần
xây dựng chính phủ kiến tạo. Mặc dù vậy, những nghiên cứu có liên
quan vẫn chưa kế thừa đầy đủ và có chọn lọc những lý thuyết hiện
đại trên thế giới về vấn đề này, do đó các đề xuất nhằm thúc đẩy cải
cách hành chính công theo theo tinh thần xây dựng chính phủ kiến
tạo còn chưa đầy đủ. Từ lý luận quản trị tốt, bài viết góp phần làm rõ
đặc trưng của chính phủ kiến tạo và từ đánh giá thực trạng để đề xuất
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính công theo mô
hình chính phủ kiến tạo ở Việt Nam.
Abstract:
For past years in our country, the results of studies on tectonic
government concept play very crucial role, providing contributions
to the theoretical and practical ground for us to accelerate the public
administration reform in the spirit of a tectonic government. However,
the relevant studies have not fully, selectively adopted the modern
theories in the world on this matter, therefore the proposals to promote
public administration reform in the spirit of the tectonic government
is not adequate. From the theory of good governance, this article is to
clarify the characteristics of the tectonic government and based on
assessements of the practical situation to provide recommendations
to promote public administration reform under the tectonic
government modality in Vietnam.
11Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
cho một câu hỏi: thế nào là một chính phủ
tốt và làm thế nào để chính phủ có thể thực
hiện tốt sứ mệnh kiến tạo phát triển. Nói đây
là câu hỏi “mới”, vì cho đến ngay nay, việc
cải cách hành chính công để thúc đẩy hành
chính nhà nước (HCNN) thực hiện tốt sứ
mệnh của nó là một vấn đề được hầu hết các
quốc gia quan tâm, cũng là một chủ đề mang
tính toàn cầu. Dù có nhiều cách tiếp cận khác
nhau, song có một điểm đồng thuận chủ yếu,
đó là để có được một CPKT phát triển, chính
phủ đó cần là một chính phủ “Quản trị tốt”
(good governance). Một chính phủ được
xem là quản trị tốt khi có những đặc trưng
cơ bản sau đây1:
Thứ nhất, lấy nhân dân làm trung tâm là
lý do chính đáng duy nhất cho sự tồn tại và
hoạt động của chính phủ, của hành chính
công. Chính phủ lấy nhân dân làm trung tâm
là một chính phủ “toàn tâm toàn ý phục vụ
công dân”; “thực hiện tốt, duy trì tốt, phát
triển tốt lợi ích căn bản nhất của đông đảo
nhân dân, lấy việc nhân dân ủng hộ hay
không ủng hộ, tán thành hay không tán
thành, vui hay không vui, đồng ý hay không
đồng ý, hài lòng hay không hài lòng làm tiêu
chuẩn cơ bản để đánh giá tất cả công việc.
Thứ hai, có sự phối hợp và hợp tác hiệu
quả giữa chính phủ với doanh nghiệp (thị
trường) và xã hội (tổ chức chính trị- xã hội,
tổ chức xã hội và người dân) trong quản trị
quốc gia và quản trị xã hội; tôn trọng và bảo
đảm sự tham gia của các chủ thể có liên
quan trong quá trình chính sách công và
quản trị quốc gia. Hành chính công truyền
thống coi nhà nước là chủ thể duy nhất, độc
tôn trong quản lý xã hội, coi người dân là
bên bị động phục tùng chính sách, mệnh
lệnh và hành vi của các cơ quan hành chính
(CQHC) nhà nước. Thực tế cho thấy, mô
hình này là không hiệu quả. Bởi lẽ, việc nhấn
mạnh vai trò độc tôn của Nhà nước sẽ dẫn
đến việc làm cho bộ máy và biên chế “phình
to”, chi tiêu công tăng lên. Trong khi đó,
CPKT phát triển nhấn mạnh việc trao nhiều
quyền hơn cho doanh nghiệp và xã hội cũng
như coi trọng sự hợp tác tích cực với các chủ
thể này; nhấn mạnh việc chuyển đổi chức
năng của chính phủ từ vai trò là “người chèo
thuyền” sang vai trò “người lái thuyền” (tạo
lập môi trường, bao gồm môi trường thể chế
phù hợp cho sự phát triển); nhấn mạnh việc
bảo đảm sự tham gia của người dân trong
quá trình chính sách (hoạch định, thực thi,
đánh giá và điều chỉnh chính sách) và trong
cung ứng dịch vụ công. Việc thực hiện sự
phối hợp giữa Nhà nước - thị trường và xã
hội trong quản trị quốc gia chẳng những giúp
phát huy lợi thế, hạn chế khiếm khuyết của
mỗi bên, mà còn có tác dụng phát huy sức
mạnh tổng hợp để giải quyết có hiệu quả các
vấn đề xã hội.
Thứ ba, công khai, minh bạch thông tin:
Công khai thông tin trong hoạt động của
chính phủ, CQHC nhà nước có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Vì đây là cơ sở để đảm bảo
quyền tiếp cận thông tin với tư cách một
trong những quyền cơ bản của công dân.
Thực hiện công khai, minh bạch thông tin
còn là cơ sở để đảm bảo sự tham gia và giám
sát của người dân, thúc đẩy trách nhiệm giải
trình của chính phủ, cũng như góp phần hạn
chế tham nhũng trong khu vực công. Công
khai, minh bạch thông tin của chính phủ còn
có tác dụng giúp cho tổ chức và cá nhân sử
dụng có hiệu quả nguồn thông tin do chính
phủ nắm giữ, từ đó có thể tạo ra nhiều giá trị
cho xã hội. Vì vậy, một đặc trưng quan trọng
của CPKT đó là có sự công khai, minh bạch
thông tin. Thực tế cho thấy, không một quốc
gia nào có thể phát triển tốt trong thời đại
1 Nguyễn Trọng Bình (2019), Hành chính công và quản trị công - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật.
Số 8(408) - T4/202012
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ngày nay, không một chính phủ nào được gọi
là có mức độ liêm chính cao nếu chính phủ
của quốc gia đó bảo mật về thông tin. Vì thế,
công khai, minh bạch là một đặc trưng
không thể thiếu của CPKT.
Thứ tư, hiệu quả: Thông thường hiệu
quả quản trị của chính phủ có hiệu quả kinh
tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả ở đây là hiệu
quả kinh tế trong hoạt động của chính phủ,
thể hiện ở chỗ sử dụng nguồn lực, chi phí
nhỏ hơn để tạo ra “đầu ra lớn và tốt hơn”.
Tính hiệu quả của chính phủ thể hiện trên
nhiều phương diện, như: (i) sự phù hợp và
tinh gọn về tổ chức bộ máy của chính phủ;
(ii) tính hiệu quả của quản trị điện tử, chính
phủ điện tử; (iii) chất lượng và hiệu quả hoạt
động của đội ngũ cán bộ, công chức... Đặc
biệt, CPKT phát triển ở các nước Đông Á
(Hàn Quốc, Trung Quốc) thể hiện một đặc
điểm chung nổi bật, đó là dựa trên chế độ
công chức phù hợp (thi tuyển, bố trí, sử
dụng, đánh giá, đãi ngộ, sàng lọc...) để có
được đội ngũ công chức thật sự tinh anh làm
việc trong các cơ quan nhà nước. Chất lượng
công chức không chỉ quyết định tính hiệu
quả trong hoạt động của chính phủ, mà còn
quyết định cả chất lượng hoạt động, mức độ
liêm chính, pháp quyền trong hoạt động của
chính phủ.
Thứ năm, pháp quyền: Pháp quyền nhấn
mạnh việc sử dụng “pháp luật tốt” để chế
ước và kiểm soát sự vận hành quyền lực của
chính phủ, cũng như chế ước việc sử dụng
quyền lực của cán bộ, công chức trong thực
thi công vụ; nó nhấn mạnh việc sử dụng
pháp luật để “quản quyền lực”, “quản việc”
và “quản người”. Pháp quyền nhấn mạnh
việc “có luật để làm căn cứ và điều chỉnh,
thực thi pháp luật phải nghiêm, vi phạm
pháp luật bắt buộc phải bị truy cứu và xử lý”;
nó nhấn mạnh tính kỷ luật, kỷ cương trong
bộ máy hành chính. Mức độ pháp quyền
càng cao thì mức độ quản trị tốt càng cao,
việc thực hiện chức năng kiến tạo càng tốt
và ngược lại.
Thứ sáu, tính đáp ứng: Nội hàm bản
chất của tính đáp ứng với tư cách một trong
những đặc trưng của quản trị tốt và cũng là
một trong những đặc trưng của hành chính
kiến tạo phát triển chính là: (i) CQHC và đội
ngũ cán bộ, công chức nắm bắt kịp thời và
đầy đủ các yêu cầu, nhu cầu và kiến nghị của
người dân, doanh nghiệp; (ii) đưa ra biện
pháp, hành động kịp thời, có hiệu quả để giải
quyết những yêu cầu, nhu cầu chính đáng và
hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.
Quan liêu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước
những yêu cầu hợp pháp, chính đáng của
người dân và doanh nghiệp là những hiện
tượng xa lạ với một chính phủ có năng lực
đáp ứng tốt.
Thứ bảy, tính trách nhiệm: Hiện nay,
giới nghiên cứu có nhiều quan niệm khác
nhau về trách nhiệm công. Có ý kiến phân
chia tính trách nhiệm của chính phủ, CQHC
và đội ngũ cán bộ, công chức thành: trách
nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp luật, trách
nhiệm hành chính và trách nhiệm đạo đức[2].
Tuy nhiên, cũng có thể phân chia trách
nhiệm công thành hai loại: (i) trách nhiệm
khách quan, tức nhấn mạnh việc CQHC và
cán bộ, công chức thực hiện tốt nhiệm vụ,
trách nhiệm của mình theo quy định của
pháp luật và quy định của tổ chức; (ii) trách
nhiệm chủ quan, tức nhấn mạnh lương tâm
và sự tự giác về đạo đức của đội ngũ cán bộ,
công chức trong thực thi công vụ. Chỉ khi
tính trách nhiệm của chính phủ, CQHC và
đội ngũ công chức cao thì mới có thể nói đến
“hành động quyết liệt”, “phục vụ tốt nhân
2 Xem thêm Nguyễn Trọng Bình (2019), “Tăng cường xây dựng đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí Lý luận Chính trị, số 5.
13Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
dân” của CQHC. Tính trách nhiệm kém tất
yếu dẫn đến sự “hành động chậm trễ”, “ đùn
đẩy trách nhiệm”, “trốn tránh việc khó”...
trong quá trình thực thi công vụ. Khi đó, rất
khó nói đến CPKT và hành động.
Thứ tám, liêm chính: Liêm chính là nói
đến mức độ trong sạch của chính phủ, các
CQHC cũng như cán bộ, công chức. Có một
chỉ số để xác định điều này đó là mức độ
tham nhũng trong khu vực công cao hay
thấp. Thông thường mức độ tham nhũng
càng cao thì mức độ liêm chính càng thấp.
Tham nhũng ở mức độ cao và phổ biến sẽ
cản trở việc thực hiện chức năng kiến tạo
phát triển của chính phủ, cũng đồng thời cản
trở việc xây dựng một chính phủ hành động,
phục vụ nhân dân. Vì tham nhũng ở mức độ
cao và phổ biến sẽ cản trở việc thực hiện các
chương trình, kế hoạch đổi mới, cản trở việc
thực hiện có hiệu quả thể chế, chính sách,
cũng như ảnh hưởng không tốt đến chất
lượng phục vụ người dân của các CQHC.
Thứ chín, công bằng: Công bằng ở đây
gồm nhiều nghĩa, trong đó có hai nghĩa cơ
bản là: (i) không phân biệt đối xử trong thực
thi công vụ; (ii) bảo đảm để tất cả mọi người
đều có thể tham gia vào tiến trình phát triển
và thụ hưởng thành quả của phát triển.
Thứ mười, ổn định: Thực tế cho thấy, bất
cứ quốc gia nào cũng cần giải quyết mối
quan hệ giữa ổn định - đổi mới và phát triển.
Trong đó ổn định là tiền đề; đổi mới là động
lực còn phát triển là mục đích. Không có sự
ổn định thì không thể nói đến đổi mới, không
có đổi mới thì không thể nói đến phát triển.
Ổn định ở đây không chỉ là sự ổn định về
chính trị - xã hội, mà còn bao gồm sự ổn
định của thể chế, chính sách.
2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của
hành chính nhà nước hiện nay
Trong chặng đường gần 35 năm đổi mới
vừa qua, với phương châm “kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
từng bước đổi mới chính trị”[3], hệ thống
chính trị Việt Nam nói chung và HCNN Việt
Nam nói riêng góp phần bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội. Mặc dù vậy,
HCNN cũng còn tồn tại một số hạn chế, yếu
kém. Nhìn từ các yếu tố của quản trị tốt, có
thể thấy rõ những vấn đề nổi bật:
Một là, ở phương diện “lấy nhân dân
làm trung tâm”, bên cạnh một số ưu điểm
thì ở đâu đó vẫn còn hiện tượng “lấy HCNN
và cán bộ, công chức làm trung tâm”, chất
lượng dịch vụ công còn một số hạn chế; vẫn
còn một bộ phận cán bộ, công chức chưa thật
sự toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân; lấy sự
“giàu có của gia đình và bản thân làm mục
tiêu phấn đấu” mà “chưa lấy ấm no, hạnh
phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu”[4].
Hai là, ở khía cạnh thực hiện sự hợp tác
giữa HCNN với thị trường và xã hội, bên
cạnh một số ưu điểm thì vẫn còn thể hiện nổi
bật cục diện “coi Nhà nước là độc tôn”, vẫn
còn tư duy coi thị trường và xã hội chỉ là
“đối tượng quản lý”, từ đó can thiệp trực tiếp
và không đáng có vào hoạt động của doanh
nghiệp và xã hội; việc thực hiện xã hội hóa
để phát huy đầy đủ hơn sức mạnh của doanh
nghiệp và xã hội còn không ít rào cản và
chưa đáp ứng được yêu cầu. Điều này không
chỉ làm cho bộ máy và biên chế “phình to”,
chi thường xuyên chiếm tỷ lệ cao, mà còn
không có lợi cho việc giải phóng và phát huy
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.71.
4 Nguyễn Trọng Bình (2019), Tăng cường xây dựng đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận
Chính trị, số 5.
Số 8(408) - T4/202014
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
các nguồn lực trong xã hội để phục vụ mục
tiêu phát triển.
Ba là, ở khía cạnh bảo đảm sự tham gia
của người dân, báo cáo hiệu quả quản trị và
hành chính công cấp tỉnh trong các năm qua
cho thấy, điểm số về sự tham gia của người
dân tuy có được cải thiện theo từng năm,
nhưng nhìn chung còn chưa cao, điểm về sự
tham gia của người dân trong cả nước theo
báo cáo PAPI năm 2018 đạt được dao động
từ 4.41 điểm đến 6.16 điểm/thang 1-10
điểm; tỷ lệ người trả lời cho biết đã tham gia
vào việc quyết định xây mới/tu sửa công
trình công cộng ở xã, phường là 59,21%; tỷ
lệ người trả lời cho biết có tham gia đóng
góp ý kiến trong quá trình thiết kế để mới/tu
sửa công trình là 34,01%[5]; tình trạng “vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, độc
đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ
đạo, điều hành”[6] vẫn còn diễn ra.
Bốn là, ở khía cạnh công khai, minh
bạch thông tin, từ báo cáo hiệu quả quản trị
và hành chính công cấp tỉnh có thể thấy, số
điểm đạt được ở phương diện này cũng chưa
cao, điểm mà cả nước đạt được dao động từ
4.55 đến 6 điểm/10 điểm. Cũng theo báo cáo
PAPI năm 2018, tỷ lệ người trả lời cho biết
thu/chi ngân sách của xã/phường được công
bố công khai là 40,98%; tỷ lệ người trả lời
cho biết đã từng đọc bảng thống kê thu chi
ngân sách là 27,65%; tỷ lệ người trả lời được
biết về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hiện
thời của địa phương là 18,39%; tỷ lệ người
trả lời cho biết họ có dịp góp ý kiến cho quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương
là 5,44%.
Năm là, ở phương diện tính đáp ứng
của CQHC nhà nước và cán bộ, công chức,
bên cạnh một số ưu điểm thì “vẫn còn một
bộ phận cán bộ, công chức quan liêu, xa rời
quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm
tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa
phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô
cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó
khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của
nhân dân”. Hạn chế trong tính đáp ứng của
HCNN thể hiện rõ ở việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân và tổ chức. Báo cáo
PAPI năm 2018 cho thấy, có 25,9% tỷ lệ
người được hỏi cho rằng, họ đã gửi khuyến
nghị, tố cáo, tố giác, khiếu nại tới chính
quyền, trong đó chỉ có 21,89% số người
được hỏi cho rằng, cơ quan chính quyền cơ
sở đã trả lời thỏa đáng đối với các khuyến
nghị, tố cáo, tố giác, khiếu nại của họ”[7].
Sáu là, ở phương diện pháp quyền, bên
cạnh một số ưu điểm thì vẫn còn một số hạn
chế, như kỷ cương kỷ luật chưa nghiêm;
hiện tượng không đảm bảo tính hợp pháp
trong việc ban hành các quyết định vẫn còn
nhiều, thậm chí có chiều hướng gia tăng.
Báo cáo của Bộ Tư pháp cho thấy, trong năm
2017, qua kiểm tra đã phát hiện 5.639 văn
bản trái pháp luật[8].
Bảy là, từ khía cạnh tính trách nhiệm,
bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn hiện
tượng cố ý làm trái các quy định của pháp
luật; “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có
mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức
tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn
còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng
viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”[9].
Tám là, từ khía cạnh tính hiệu quả, nhìn
chung tổ chức bộ máy của HCNN vẫn còn
5 Báo cáo hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh năm 2018,
6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Hà Nội, 2016.
7 Báo cáo hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh năm 2018,
8 Báo Dân trí điện tử, https://dantri.com.vn/xa-hoi/phat-hien-hon-5600.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, 2016.
15Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
cồng kềnh, nhiều đầu mối, trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ, từ đó ảnh hưởng không tốt
đến hiệu quả thực thi chính sách; năng suất,
chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ
cán bộ, công chức nhìn chung còn chưa cao
do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
nguyên nhân quan trọng là công tác cán bộ
và quản lý công chức còn nhiều bất cập; quản
trị điện tử hiệu quả chưa cao. Theo báo cáo
PAPI năm 2018, điểm số về hiệu quả quản trị
điện tử ở nước ta còn rất thấp, dao động từ
1,93-4,24 điểm/10 điểm. Tỷ lệ người sử dụng
cổng thông tin điện tử của chính quyền khi
thực hiện thủ tục hành chính như xin chứng
thực, xác nhận, xin cấp phép xây dựng, xin
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn
rất thấp, dao động từ 1% đến 4%[10].
Chín là, từ khía cạnh liêm chính, mặc dù
công cuộc phòng, chống tham nhũng đạt
được nhiều kết quả quan trọng, song tình
trạng tham nhũng trong khu vực công vẫn
còn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp. Báo
cáo PAPI năm 2018 cho thấy, “điểm chỉ số
nội dung kiểm soát tham nhũng trong khu
vực công đạt trên mức trung bình, với mức
điểm cấp tỉnh dao động từ 5,52 đến 7,61
điểm (trên thang điểm từ 1 đến 10).
3. Một số giải pháp đẩy mạnh cải cách
hành chính công theo tinh thần xây dựng
chính phủ kiến tạo ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, thay đổi tư duy, quan niệm từ
“lấy chính phủ, CQHC nhà nước làm trung
tâm” sang “lấy nhân dân làm trung tâm”.
Có nghĩa là làm cho mỗi CQHC và đội ngũ
cán bộ, công chức thấy rõ trách nhiệm và sứ
mệnh của mình là bảo đảm và thúc đẩy
quyền con người, quyền công dân; nhận thức
rõ “việc hoạch định và thực thi mọi phương
châm, chính sách và tất cả công việc đều
phải đến từ nhân dân, đều phải vì lợi ích của
nhân dân”; “toàn tâm toàn ý phục vụ nhân
dân; thực hiện tốt, duy trì tốt, phát triển tốt
lợi ích căn bản nhất của nhân dân, lấy việc
nhân dân ủng hộ hay không ủng hộ, tán
thành hay không tán thành, vui hay không
vui, đồng ý hay không đồng ý, hài lòng hay
không hài lòng làm tiêu chuẩn cơ bản để
đánh giá tất cả công việc”.
Thứ hai, từ chỗ nhấn mạnh cai trị và
kiểm soát xã hội theo quan niệm truyền thống
sang nhấn mạnh việc thúc đẩy sự thay đổi và
kiến tạo phát triển của HCNN. Kiểm soát
chặt chẽ là một vấn đề được ưu tiên trong mô
hình hành chính công truyền thống. Từ việc
nhấn mạnh kiểm soát chặt chẽ nên CQHC rất
dễ can thiệp trực tiếp và thô bạo vào hoạt
động của doanh nghiệp và xã hội, từ đó dẫn
đến nhiều tiêu cực, trong đó có tệ quan liêu,
hách dịch và tham nhũng. Để thúc đẩy phát
triển, thực thi công vụ của HCNN và cán bộ,
công chức phải coi trọng hơn việc thực hiện
vai trò quản lý sự thay đổi và kiến tạo phát
triển thông qua các khía cạnh, như: (i) làm
cho toàn xã hội thấy được nhu cầu, yêu cầu
bức thiết của đổi mới và phát triển ở Việt
Nam, làm cho toàn xã hội thấy được phát
triển là quy luật sắt ở Việt Nam, là yêu cầu
cơ bản để giải quyết tất cả các vấn đề của Việt
Nam; (ii) hoạch định thể chế, chính sách phù
hợp để định hướng, thúc đẩy sự thay đổi và
phát triển; (iii) xây dựng khung khổ thể chế
phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế; (iv) cung ứng dịch vụ công cơ bản
cho người dân và xã hội, trong đó có dịch vụ
về thủ tục hành chính công.
Thứ ba, chuyển từ mô hình quản trị
nhấn mạnh vai trò độc tôn của HCNN sang
mô hình quản trị có sự hợp tác, phối hợp có
hiệu quả giữa HCNN với doanh nghiệp (thị
trường) và xã hội (các đoàn thể xã hội và
người dân) trong quản trị quốc gia và cung
ứng dịch vụ công. Thực hiện “mạng lưới quản
trị” với sự phối hợp, hợp tác có hiệu quả giữa
10 Báo cáo hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh năm 2018,
Số 8(408) - T4/202016
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ba khu vực nhà nước - thị trường và xã hội
chẳng những góp phần hạn chế “sự thất bại
của thị trường”, “sự thất bại của nhà nước” và
“sự thất bại của xã hội”, mà còn có lợi cho
việc giải phóng và huy động sức mạnh của
toàn xã hội vào quản trị quốc gia và phát triển.
Do đó, ở Việt Nam hiện nay, cần coi trọng đổi
mới tư duy, đổi mới lý luận và đổi mới thể chế
nhằm “xác định rõ và thực hiện đúng vị trí,
vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh
tế thị trường”[11] theo tinh thần Hội nghị
Trung ương 5 khóa XII. Từ định hướng này,
cần quan tâm một số vấn đề cốt lõi sau đây:
(i) chuyển đổi chức năng của HCNN theo
hướng HCNN chỉ thực hiện chức năng thật
cần thiết; (ii) khắc phục tình trạng làm sai chức
năng của CQHC nhà nước, chuyển HCNN từ
nhấn mạnh chức năng “chèo thuyền” sang
chức năng “lái thuyền”; (iii) nhấn mạnh đúng
mức vai trò của cơ chế thị trường trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực
phát triển, theo hướng “làm cho thị trường giữ
vai trò mang tính quyết định trong huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát
triển”; thực hiện xã hội hóa tối đa để phát huy
tốt nguồn lực trong dân, trong doanh nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội ; (iv) phát huy
đầy đủ vai trò, chức năng của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã
hội trong quản trị quốc gia cũng như quản trị
địa phương trên cơ sở đổi mới phương thức
hoạt động của các tổ chức này, cũng như tạo
lập cơ chế pháp lý để các tổ chức này hoạt
động hiệu quả trong bối cảnh mới.
Thứ tư, từ chỗ nhấn mạnh tập trung
quyền lực ở trung ương và cấp trên sang
trao quyền đủ mức cho địa phương và cấp
dưới trên cơ sở đảm bảo sự định hướng và
hướng dẫn của Trung ương và cấp trên.
Thực tế cho thấy, quyền lực tập trung nhiều
ở cấp trên không những dễ dẫn đến hiện
tượng “chạy” và “xin - cho”, mà còn không
có lợi cho việc phát huy tính chủ động, sáng
tạo của cấp dưới, cũng như hạn chế năng lực
“quyết sách cận điểm” của cấp dưới. Do đó,
trên cơ sở đảm bảo sự định hướng của cấp
trên, cần phân cấp, phân quyền mạnh mẽ,
hợp lý cho địa phương và cấp dưới theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về
xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Thứ năm, chuyển từ mô hình HCNN còn
mang sắc thái “khép kín” sang mô hình
HCNN “mở”. Tính công khai, tính chia sẻ,
tính hợp tác, tính tích hợp, tính đổi mới là
những tính chất cơ bản của “Chính phủ mở”
hay “HCNN mở”. Cốt lõi của chính phủ mở
và HCNN mở là thực hiện tốt công khai,
minh bạch thông tin; đảm bảo tốt sự tham
gia của người dân và coi trọng việc thực hiện
tự quản xã hội. Để HCNN có đủ năng lực
cần thiết, từ đó thực hiện chức năng kiến tạo
phát triển cần: (i) thực hiện tốt công khai,
minh bạch thông tin; (ii) thực hiện tốt hoạt
động đối thoại, phản biện và tư vấn chính
sách, nhất là phát huy vai trò của các “think
tank” trong tư vấn chính sách; (iii) thực hiện
tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; (iv) mở rộng tự
quản xã hội; (v) thực hiện tốt “bầu cử dân
chủ”; “quyết sách dân chủ”; “quản lý dân
chủ”; “giám sát dân chủ”.
Thứ sáu, tăng cường xây dựng “hành
chính pháp quyền”: “Hành chính pháp
quyền” là thuật ngữ để chỉ sự chế ước và
kiểm soát thật sự và có hiệu quả của pháp
luật đối với sự vận hành của quyền lực hành
chính, cũng như hành vi, việc làm của các tổ
chức và cá nhân trong xã hội. “Hành chính
pháp quyền” đặc biệt nhấn mạnh sự chế ước
của pháp luật đối với quyền lực hành chính
(quyền lực công), nhấn mạnh việc sử dụng
thể chế pháp luật để “quản quyền lực”,
“quản người” và “quản việc”. Để tăng cường
xây dựng hành chính pháp quyền cần: (i)
11 Báo cáo hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh năm 2018,
17Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hình thành tư duy pháp quyền trong đội ngũ
cán bộ, công chức và toàn xã hội; (ii) xây
dựng, hoàn thiện pháp luật nhằm có hệ thống
“pháp luật tốt”, để từ đó “có pháp luật tốt để
làm căn cứ và điều chỉnh”; (iii) tăng cường
kiểm tra, thanh tra và giám sát trong hệ
thống hành chính, cũng như sự kiểm tra,
giám sát của cơ quan lập pháp, cơ quan tư
pháp, của Đảng cầm quyền, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã
hội, báo chí và người dân đối với sự vận
hành của quyền lực hành chính cũng như
hoạt động của các CQHC và đội ngũ cán bộ,
công chức; (iv) truy cứu và xử lý nghiêm
minh theo pháp luật đối với những người có
hành vi vi phạm pháp luật, bất kể người đó
là ai, dù là đương chức hay đã nghỉ hưu theo
phương châm “không có đặc quyền, không
có vùng cấm và không có ngoại lệ”.
Thứ bảy, cải cách tổ chức bộ máy
HCNN tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6
khóa XII. Để nâng cao hiệu quả thực thi
chính sách và nâng cao chất lượng phục vụ
người dân, cần thực hiện tốt việc đổi mới tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị nói
chung, tổ chức bộ máy của HCNN nói riêng
theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả như Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6 khóa XII đã đề ra. Theo đó cần quan
tâm: (i) nhấn mạnh việc đổi mới tổ chức bộ
máy của HCNN đồng thời với đổi mới tổ
chức bộ máy của cơ quan dân cử, cơ quan
Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, hợp nhất một số cơ quan Đảng và
HCNN có sự tương đồng về chức năng; (ii)
thiết lập tổ chức bộ máy của HCNN theo mô
hình cơ quan “quản lý đa ngành, đa lĩnh
vực” ở tất cả các cấp từ Trung ương đến địa
phương; (iii) tăng cường xây dựng Trung
tâm hành chính công các cấp nhằm giải
quyết thủ tục hành chính theo hướng tích
hợp, thuận tiện và hiệu quả cho người dân.
Thứ tám, nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức trên cơ sở tiếp tục đổi mới công
tác cán bộ và chế độ công chức; kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy
chức, chạy quyền. Để xây dựng một CPKT
phát triển, cần phải nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ trên cơ sở đổi mới công tác cán
bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7
khóa XII. Theo đó, cần đổi mới tất cả các
khâu trong công tác cán bộ và chế độ công
chức, thực hiện chế độ “mở” thật sự trong
thi tuyển và tuyển dụng công chức; đổi mới
công tác đánh giá công chức và kịp thời sàng
lọc, cho ra khỏi bộ máy hành chính những
cán bộ, công chức yếu về năng lực, kém về
phẩm chất. Đặc biệt, cần coi trọng việc kiểm
soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống
chạy chức, chạy quyền theo Quyết định 205
của Bộ Chính trị.
Thứ tám, tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động của các
CQHC, nâng cao hiệu quả quản trị điện tử
của các CQHC. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của các CQHC,
nâng cao hiệu quả quản trị điện tử có ý nghĩa
về nhiều mặt. Điều này không chỉ nâng cao
hiệu quả hành chính, nâng cao tính đáp ứng
của CQHC, cũng như nâng cao chất lượng
phục vụ nhân dân; mà còn tác dụng đảm bảo
tốt hơn quyền tiếp cận thông tin của người
dân và thực hiện “dân chủ điện tử”, “dân chủ
từ xa”. CQHC nhà nước ở Trung ương và địa
phương cần thông qua nhiều giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản trị điện tử, nhất là
coi trọng đầu tư phát triển chính phủ điện tử
ở cấp cơ sở, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng
về công nghệ thông tin cho cả cán bộ, công
chức và người dân.
Thứ chín, đẩy mạnh công tác phòng,
chống tham nhũng; tăng cường xây dựng đạo
đức công vụ. Tham nhũng ảnh hưởng nghiêm
trọng đối với việc thực hiện một CPKT phát
triển. Do đó, cần xác định phương châm
“không muốn tham nhũng, không cần tham
nhũng, không thể tham nhũng và không dám
tham nhũng” để nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống tham nhũng; cần tăng cường
Số 8(408) - T4/202018
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
xây dựng đạo đức công vụ cho đội ngũ cán
bộ, công chức; cần thông qua công tác giáo
dục, tổ chức, hành chính, kiểm tra, giám sát,
sàng lọc và xử lý nhằm hạn chế tối đa các
hiện tượng phản văn hóa chính trị, phản đạo
đức công vụ trong các CQHC và trong đội
ngũ cán bộ, công chức, cũng như làm cho các
giá trị, chuẩn mực của đạo đức công vụ như
phục vụ nhân dân; lợi ích công; trách nhiệm
công; công khai, minh bạch; dân chủ; sử
dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực công thấm
sâu và lan tỏa vào các quan hệ và hoạt động
công vụ của các CQHC và đội ngũ công
chức, từ đó góp phần thực hiện một CPKT,
hành động, liêm chính.
Thứ mười, tăng cường đánh giá chính
phủ và HCNN theo các tiêu chí và nội dung
của “quản trị tốt”. Như đã nói ở trên, một
CPKT, về bản chất đó là một chính phủ
“quản trị tốt”. Quản trị của chính phủ được
xem là quản trị tốt khi thực hiện tốt các yêu
cầu như: (i) lấy nhân dân làm trung tâm; (ii)
công khai, minh bạch; (iii) có sự tham gia
hiệu quả của người dân; (iv) hiệu quả; (v)
tính pháp quyền; (vi) tính trách nhiệm; (vi)
công bằng xã hội); (vii) liêm chính... Để thúc
đẩy chính phủ và CQHC nhà nước đảm bảo
thực hiện tốt các nội dung và tiêu chí trên
trong quản trị cần tăng cường đánh giá quản
trị chính phủ, đánh giá quản trị địa phương
ở các khía cạnh nêu trên. Theo đó, định kỳ
hằng năm cần tiến hành đánh giá và xếp
hạng quản trị chính phủ và quản trị địa
phương trên một số nội dung sau: (i) chất
lượng dịch vụ công; (ii) mức độ công khai,
minh bạch; (iii) sự tham gia của người dân;
(iv) mức độ tuân thủ pháp luật trong thực thi
công vụ; (v) tính công bằng trong thực thi
công vụ; (vi) tính đáp ứng trong thực thi
công vụ; (vii) tính hiệu quả; (viii) kiểm soát
tham nhũng; (ix) tính hiệu quả của quản trị
điện tử; (x) mức độ phân cấp, phân quyền
cho cấp dưới[12]. Điều này sẽ góp phần thúc
đẩy việc cải cách, đổi mới HCNN theo mô
hình quản trị tốt, từ đó góp phần xây dựng
CPKT ở Việt Nam hiện nay n
12 Nguyễn Trọng Bình (2018): Một số vấn đề lý luận về đánh giá quản trị công, Tạp chí Tổ chức Nhà nước,
số 10.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh năm 2018,
cao-va-du-lieu-papi.
2. Báo Dân trí điện tử: https://dantri.com.vn/xa-hoi/phat-hien-hon-5600.
3. Nguyễn Trọng Bình (2019), Hành chính công và quản trị công - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Nguyễn Trọng Bình (2019), “Tăng cường xây dựng đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5.
5. Nguyễn Trọng Bình (2018), “Một số vấn đề lý luận về đánh giá quản trị công”, Tạp chí
Tổ chức Nhà nước, số 10.
6. Nguyễn Trọng Bình (2019), “Cải cách và chuyển đổi mô hình quản trị chính phủ ở Trung
Quốc trong quá trình cải cách, mở cửa”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 7.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Hà Nội, 2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_chinh_phu_kien_tao_o_viet_nam_hien_nay_tiep_can_tu.pdf