Ảnh hưởng của tổ hợp BA và IAA đến sự phát
sinh hình thái cà chua Montavi
Trong nuôi cấy mô tế bào thực vật, việc bổ sung
kết hợp giữa các chất điều tiết sinh trưởng thuộc
nhóm auxin và cytokinin là rất phổ biến nhằm điều
khiển sự phát sinh hình thái của mẫu cấy. Hà Trần
Minh Dũng và cộng tác viên (2012) xác định được
môi trường thích hợp cho tái sinh chồi từ lá mầm cây
cà chua Hồng Châu là MS có bổ sung 0,5 mg/l BA,
0,5 mg/l kinetin, 0,1 mg/l IAA (Hà Trần Minh Dũng
và ctv., 2012). Đỗ Xuân Đồng và cộng tác viên (2007)
cũng sử dụng môi trường tái sinh có sự kết hợp giữa
auxin (IAA) và cytokinin (zeatin) khi xây dựng quy
trình tái sinh cho 3 giống cà chua cà múi TS, PT18,
93D4103 (Đỗ Xuân Đồng và ctv., 2007). Kế thừa kết
quả nghiên cứu trên (bảng 4), thí nghiệm này sử
dụng môi trường có bổ sung BA ở nồng độ 2,0 mg/l
và bổ sung thêm IAA với các nồng độ từ 0 - 0,3 mg/l.
Kết quả trên bảng 6 cho thấy: Việc kết hợp giữa
BA và IAA đã làm tăng khả năng tái sinh của trụ hạ
diệp so với sử dụng BA riêng rẽ. Trong khi công thức
bổ sung riêng rẽ 2 mg/l BA chỉ cho tỷ lệ tái sinh chồi
đạt 36,6% thì các công thức có bổ sung thêm IAA
với nồng độ 0,05 - 0,2 mg/l đã làm tăng tỷ lệ tái sinh
tạo chồi và dao động trong khoảng 45,8 - 70,0%. Môi
trường bổ sung 2 mg BA/l và 0,2 mg IAA/l cho kết
quả tái sinh tạo chồi là cao nhất và đạt 70,0%. Thêm
vào đó, số chồi tái sinh trên môi trường này cũng
đạt cao nhất (1,9 chồi/mẫu), chất lượng chồi tốt. Kết
quả nghiên cứu này có sự trùng lặp hoàn toàn với
kết quả của Sherkar và Chavan (2014) khi hai tác giả
trên cũng xác định môi trường tái sinh phù hợp nhất
cho trụ hạ diệp của giống cà chua Pusa ruby là MS có
bổ sung 2 mg BA/l và 0,2 mg IAA/l. Mặc dù vậy, tỷ
lệ mẫu tái sinh tạo chồi của giống cà chua Pusa ruby
đạt tới 100%, số chồi đạt 1,3 chồi/mẫu cấy (Sherkar
and Chavan, 2014). Trong khi đó, kết quả của Ishag
và cộng tác viên (2009) lại cho thấy việc kết hợp giữa
BA hoặc kinetin với IAA đã làm giảm khả năng tái
sinh tạo chồi của cà chua Lycopersicon esculentum
c.v. Omdurman (Ishag et al., 2009). Như vậy, sự khác
biệt về kiểu gen rõ ràng đã ảnh hưởng tới kết quả
đáp ứng của mẫu cấy với chất điều hoà sinh trưởng
(Gubis et al., 2013).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng hệ thống tái sinh in vitro cho giống cà chua Montavi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
manufactured to overcome the disadvantages of traditional process. The optimal parameters were determined as
follow: Soaking temperature is 35oC, soaking time is 4 hours, sowing density is 40 g/dm², water temperature is
28 - 30°C, irrigation cycle is 30 minutes, each irrigating time for 1 minute , watering density is 0.05 L/min/dm2,
irrigation time is 48 hours, capacity is 7 kg bean sprouts/1kg materials. The product was analyzed for chemical and
microbiological composition as well as sensory evaluation and good results were recorded.
Keywords: Bean sprouts, production process, automatic machines, optimization
XÂY DỰNG HỆ THỐNG TÁI SINH IN VITRO CHO GIỐNG CÀ CHUA MONTAVI
Nguyễn Minh Chiến1, Tráng A Chinh1, Đinh Trường Sơn1
TÓM TẮT
Chiến lược chọn giống cà chua nhờ công nghệ tế bào thực vật hoặc thông qua tạo cây cà chua chuyển gen mang
những đặc tính mong muốn là một trong số các cách tiếp cận khá phổ biến hiện nay. Các quy trình tái sinh in vitro
hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy việc áp dụng kỹ thuật trên nhằm chọn tạo tạo được cây cà chua có các đặc tính mong
muốn. Công trình này được thực hiện nhằm xây dựng quy trình tái sinh cho cây cà chua Montavi. Đã xác định được
chế độ khử trùng hạt phù hợp là sử dụng Presept 0,5% trong thời gian 10 phút cho kết quả tốt nhất. Từ các kết quả
nghiên cứu khả năng tái sinh tạo chồi từ trụ hạ diệp cà chua Montavi trên các môi trường nuôi cấy có bổ sung riêng
rẽ hay kết hợp giữa BA, kinetin, IAA, đã xác định được môi trường MS + 30 g sucrose/l + 2 mg BA/l + 0,2 mg IAA/l
là phù hợp nhất cho sự tái sinh tạo chồi, tỷ lệ tạo chồi đạt 70%, số chồi đạt 1,9 chồi/mẫu, chất lượng chồi tái sinh tốt.
Từ khóa: Cà chua, Montavi, hệ thống tái sinh in vitro
Ngày nhận bài: 16/4/2019
Ngày phản biện: 21/4/2019
Người phản biện: TS. Hoàng Quốc Tuấn
Ngày duyệt đăng: 15/5/2019
1 Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới cà chua được trồng nhiều thứ hai
chỉ sau khoai tây (Abu-Qaoud, 2015). Tại Việt Nam,
theo thống kê của Viện Kinh tế Nông nghiệp, năm
2005 cà chua được tiêu thụ phổ biến nhiều thứ hai
chỉ sau rau muống với 88% số hộ gia đình tiêu thụ.
Tuy nhiên, việc trồng và phát triển diện tích cà chua
tại Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí
hậu và sâu bệnh hại. Thêm vào đó, nhu cầu về tăng
năng suất và chất lượng quả cà chua nhằm đáp ứng
được thị hiếu người tiêu dùng ngày càng đa dạng,
do vậy cần thiết phải chọn tạo, cải tiến các giống cà
chua hiện có.
Hai hướng nghiên cứu chủ đạo nhằm chọn tạo
giống hiện nay là dùng các phương pháp lai tạo
truyền thống và phương pháp sử dụng các công cụ
công nghệ sinh học. Sử dụng công nghệ tế bào và
công nghệ chuyển gen có thể tạo ra vật liệu nguồn
gen phục vụ công tác lai tạo giống mới một cách
nhanh chóng và dễ dàng hơn so với phương pháp
truyền thống. Việc nghiên cứu xây dựng hệ thống
tái sinh hiệu quả cho cây cà chua được nhiều tác
giả trong và ngoài nước quan tâm do đây là yêu cầu
đầu tiên nhưng có ý nghĩa quyết định đến sự thành
công của phương pháp chọn tạo giống (Đỗ Xuân
Đồng và ctv., 2007; Ishag et al., 2009; Hà Trần Minh
Dũng và ctv., 2012; Gubis et al., 2013; Sherkar and
Chavan, 2014; Abu-Qaoud, 2015). Giống cà chua
Montavi có khả năng chống chịu bệnh virus xoăn
vàng lá, chịu nhiệt, năng suất cao, được nhiều người
sử dụng. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu hệ thống tái
sinh hiệu quả phục vụ công tác cải tiến giống cà
chua này là cần thiết.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Hạt giống cà chua Montavi do công ty Hai Mũi
Tên Đỏ sản xuất.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Hạt cà chua Montavi được khử trùng bằng cách
ngâm trong dung dịch Presept nồng độ 0,5% trong
thời gian 10 phút và cấy trên môi trường ¼ MS
(Murashige and Skoog, 1962). Mẫu cấy là đoạn trụ
hạ diệp không mang mầm ngủ được cắt theo chiều
ngang có kích thước 0,8 - 1,0 cm và được đặt nằm
ngang trên bề mặt môi trường nuôi cấy. Mẫu cấy sau
đó được nuôi cấy trên môi trường cơ bản MS có bổ
49
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
sung sucrose và các chất điều tiết sinh trưởng BA,
kinetin, IAA riêng rẽ hoặc tổ hợp. Môi trường nuôi
cấy được điều chỉnh pH = 6,0 trước khi được khử
trùng ở 121oC; 1,0 atm trong thời gian 20 phút. Mẫu
được nuôi ở nhiệt độ 25 ± 2oC, cường độ chiếu sáng
2000 lux, thời gian chiếu sáng 16 h/ngày.
Thí nghiệm được thiết kế ngẫu nhiên hoàn toàn,
3 lần lặp lại, mỗi lần 30 mẫu/công thức. Số liệu được
phân tích phương sai một yếu tố (oneway ANOVA)
và sai số nhỏ nhất có ý nghĩa Least Significant
Difference Test - LSD) bằng phần mềm SPSS và Excel.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6/2018 đến
4/2019 tại Bộ môn Công nghệ sinh học Thực vật -
Khoa Công nghệ sinh học - Học viện Nông nghiệp
Việt Nam.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của nồng độ và thời gian khử
trùng đến giai đoạn tạo nguồn vật liệu ban đầu
Việc lựa chọn được hoá chất khử trùng, nồng độ
và thời gian khử trùng phù hợp đóng vai trò quan
trọng trong giai đoạn tạo nguồn vật liệu ban đầu cho
các thí nghiệm xây dựng hệ thống tái sinh về sau.
Sodium dichloroisocyanurate là hoạt chất có trong
Presept được biết đến là ít độc với mẫu và do vậy
được sử dụng với nồng độ lớn (0,5 - 2,0%) và thời
gian khử trùng có thể kéo dài từ 5 - 90 phút (Kendon
et al., 2017). Chính vì vậy, thí nghiệm này được tiến
hành nhằm xác định ảnh hưởng của nồng độ và thời
gian khử trùng với Presept tới giai đoạn tạo nguồn
vật liệu khởi đầu từ hạt cà chua Montavi. Hạt cà chua
sau khi khử trùng được cấy trên môi trường ¼ MS.
Kết quả được trình bày tại bảng 1 và bảng 2.
Bảng 1. Ảnh hưởng của thời gian khử trùng đến giai đoạn tạo nguồn vật liệu ban đầu
(14 ngày sau gieo hạt)
Công thức Thời gian khử trùng (phút)
Nồng độ
Presept (%)
Tỷ lệ mẫu
sạch (%)
Tỷ lệ nảy
mầm (%)
Chiều cao
(cm/cây) Quan sát hình thái
CT1 5 0,5 100 89,7 6,46 ± 0,47 Cây khỏe, lá to, rễ dài
CT2 10 0,5 100 93,3 7,1 ± 0,34 Cây khỏe, lá to, rễ dài
CT3 15 0,5 100 91,1 6,3 ± 0,38 Cây khỏe, lá nhỏ
Pvalue 0,84 0,5
Bảng 2. Ảnh hưởng của nồng độ chất khử trùng đến giai đoạn tạo nguồn vật liệu ban đầu
(14 ngày sau gieo hạt)
Công thức Nồng độ Presept (%)
Thời gian khử
trùng (phút)
Tỷ lệ mẫu
sạch (%)
Tỷ lệ nảy
mầm (%)
Chiều cao
(cm/cây) Quan sát hình thái
CT1 0,1 10 100 88,0 6,2 ± 0,45 Cây khỏe, lá nhỏ
CT2 0,5 10 100 93,3 7,1 ± 0,34 Cây khỏe, lá to, rễ dài
CT3 1,0 10 100 88,8 5,94 ± 0,4 Cây khỏe, lá nhỏ
Pvalue 0,678 0,1
Kết quả trong bảng 1 và bảng 2 cho thấy tỷ lệ hạt
cà chua sau khi khử trùng với thời gian hoặc nồng
độ Presept khác nhau đều cho tỷ lệ mẫu sạch vi sinh
vật đạt 100%. Kết quả trên chứng tỏ hiệu quả diệt vi
sinh vật trên hạt giống của Presept là rất cao.
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian khử
trùng đến giai đoạn tạo nguồn vật liệu ban đầu cho
thấy: ở nồng độ Presept là 0,5% với thời gian khử
trùng là 10 phút cho tỷ lệ hạt cà chua Montavi nảy
mầm cao nhất và đạt 93,3% (Bảng 1). Mặc dù vậy,
kết quả phân tích thống kê cho thấy sự khác biệt về
tỷ lệ nảy mầm, chiều cao cây giữa các công thức là
không có ý nghĩa thống kê (P-value > 0,05).
Tương tự như vậy, kết quả khảo sát ảnh hưởng
của nồng độ Presept cho thấy: ở nồng độ Presept
là 0,5%, tỷ lệ nảy mầm cũng như sinh trưởng của
cây in vitro là tốt nhất (Bảng 2). Tuy nhiên, sự khác
biệt về tỷ lệ nảy mầm, chiều cao cây giữa các nồng
độ Presept là không có ý nghĩa thống kê (P-value
> 0,05).
Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy: ở giai
đoạn tạo nguồn vật liệu ban đầu, có thể sử dụng
Presept nồng độ 0,5% trong thời gian 10 phút để khử
trùng hạt cà chua Montavi.
50
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
3.2. Ảnh hưởng của nồng độ khoáng tới giai đoạn
tạo nguồn vật liệu ban đầu
Ở thí nghiệm xác định ảnh hưởng của nồng độ và
thời gian khử trùng với Presept, hạt giống được nuôi
cấy trên môi trường ¼ MS và sinh trưởng khá tốt.
Tuy nhiên, việc xác định được môi trường phù hợp
cho giai đoạn tạo nguồn vật liệu ban đầu là rất quan
trọng. Chính vì vậy, thí nghiệm này được tiến hành
trên 4 môi trường nuôi cấy có nồng độ dinh dưỡng
MS khác nhau. Kết quả được trình bày trên bảng 3.
Bảng 3. Ảnh hưởng của nồng độ khoáng đến sinh trưởng của cây cà chua in vitro
(14 ngày sau gieo hạt)
Công
thức
Nồng độ
khoáng
Tỷ lệ
nảy mầm
(%)
Chiều cao
cây
(cm/cây)
Số lá
(lá/cây)
Khối lượng
tươi
(mg/cây)
Khối lượng
khô
(mg/cây)
Quan sát hình thái
CT1 1/8MS 82a 7,9 ± 0,64a 2,5 ± 0,25a 138,4 ± 13,3a 8,8 ± 0,92ab Cây khỏe, thân mảnh, lá nhỏ
CT2 1/4MS 68a 7 ± 0,75a 2,6 ± 0,3a 193,3 ± 25b 11,2 ± 1,34a Cây khỏe, thân mảnh, lá nhỏ
CT3 1/2MS 42b 3,6 ± 0,66b 1,76 ± 0,3a 80 ± 15,3c 5,8 ± 1,14bc Cây khỏe, thân mảnh, lá nhỏ
CT4 MS 24c 1,8 ± 0,48b 0,96 ± 0,26b 45 ± 12,4c 3,2 ± 0,9c Cây khỏe, thân mập, lá to
Pvalue <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 <0,001
Ghi chú: Bảng 3 - bảng 6: Các giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau bởi cùng một chữ cái là không khác biệt
có ý nghĩa thống kê (kiểm định LSD) ở mức độ tin cậy 95%.
Kết quả trên bảng 3 cho thấy: nồng độ khoáng
có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của cây cà chua
Montavi sau khi gieo hạt. Các chỉ tiêu tỷ lệ nảy mầm,
chiều cao cây, khối lượng tươi, khối lượng khô có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các môi trường
có nồng độ khoáng khác nhau. Cụ thể, sau 14 ngày
theo dõi, hạt gieo trên môi trường MS nồng độ thấp
(1/8 MS và 1/4 MS) có tỷ lệ nảy mầm cao, thời gian
nảy mầm sau gieo hạt ngắn hơn so với môi trường có
nồng độ khoáng cao (1/2 MS và MS), các chỉ tiêu về
khối lượng khô và khối lượng tươi có sự khác biệt rõ
ràng với các công thức còn lại. Tuy nhiên, khi quan
sát tại thời điểm 4 tuần sau gieo hạt thì tỷ lệ nảy
mầm của hạt giống trên môi trường MS đạt khoảng
70 - 80%, đường kính thân lớn, hệ thống rễ chính và
lông hút trên thân phát triển. Chính vì vậy, nhóm tác
giả lựa chọn môi trường MS là phù hợp để gieo hạt,
tạo nguồn vật liệu ban đầu.
3.3. Ảnh hưởng của BA đến sự phát sinh hình thái
cà chua Montavi
Việc bổ sung các chất điều tiết sinh trưởng thuộc
nhóm auxin và cytokynin đóng vai trò quyết định
trong điều khiển sự phát sinh hình thái của mẫu mô
muôi cấy. Trong nghiên cứu về hệ thống tái sinh, có
thể sử dụng nhiều loại mẫu cấy khác nhau (lá, thân,
cuống lá...). Mặc dù vậy, đối với cây cà chua thì vật
liệu là trụ hạ diệp được sử dụng khá phổ biến do có
khả năng tái sinh cao (Gubis et al., 2013). Vì vậy, thí
nghiệm này được tiến hành nhằm nghiên cứu ảnh
hưởng riêng rẽ cũng như tổ hợp của các chất điều
tiết sinh trưởng BA, Kinetin, IAA tới khả năng tái
sinh tạo chồi của mẫu cấy là đoạn trụ hạ diệp cây cà
chua Montavi.
Kết quả nghiên cứu trên bảng 4 cho thấy: bổ
sung BA đã làm tăng tỷ lệ tái sinh tạo chồi của trụ hạ
diệp cà chua Montavi. Trong khi mẫu cấy trên môi
trường không bổ sung BA chỉ cho tỷ lệ tái sinh tạo
chồi là 3,3% thì trên các môi trường có bổ sung BA
có tỷ lệ tái sinh tạo chồi dao động từ 22,2 - 56,6%.
Môi trường có bổ sung 2 mg BA/l cho tỷ lệ tái sinh
tạo chồi và số chồi tái sinh trên mẫu là cao nhất, đạt
56,6% và 1,73 chồi/mẫu tương ứng, chồi sinh trưởng
khỏe, thân mập, lá to (Bảng 4).
51
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Bảng 4. Ảnh hưởng của BA đến sự phát sinh hình thái cà chua Montavi
(sau 6 tuần nuôi cấy)
Công
thức
Nồng
độ BA
(mg/l)
Tỷ lệ tạo
chồi
(%)
Số chồi
(chồi/mẫu)
Chiều cao
chồi (cm)
Số lá
(lá/chồi) Số rễ (rễ/cây) Quan sát hình thái
CT1 0 3,3a 0,1 ± 0,1a 0,06 ± 0,06a 0,23 ± 0,23a 0,37 ± 0,15a Cây/callus yếu, nhỏ, màu xanh nhạt sinh trưởng kém
CT2 0,5 22,2ab 0,53 ± 0,17a 0,07 ± 0,02a 0,53 ± 0,18a 0,06 ± 0,06b Cây/callus yếu, nhỏ, màu xanh nhạt sinh trưởng kém
CT3 1,0 41,6bc 0,67 ± 0,2ac 0,35 ± 0,13b 0,67 ± 0,21a 0b Cây/callus yếu, nhỏ, màu xanh nhạt sinh trưởng kém
CT4 1,5 31,6bc 0,79 ± 0,33ac 0,27 ± 0,13ab 0,37 ± 0,23a 0b Cây/callus khỏe, lá nhỏ sinh trưởng tốt
CT5 2,0 56,6c 1,73 ± 0,35b 0,33 ± 0,07b 1,4 ± 0,31b 0b Cây/callus khỏe, thân mập, lá to, sinh trưởng tốt
CT6 2,5 43,3c 1,29 ± 0,35cb 0,37 ± 0,1b 0,54 ± 0,2a 0b Cây/callus khỏe, lá nhỏ sinh trưởng tốt
Pvalue <0,001 <0,001 0,009 0,008 0,001
3.4. Ảnh hưởng của kinetin đến sự phát sinh hình
thái cà chua Montavi
Tương tự như BA, kinetin cũng là một cytokinin
và do vậy được sử dụng khá phổ biến trong điều
khiển phát sinh hình thái theo hướng tạo chồi hoặc
nhân nhanh chồi. Ishag và cộng tác viên (2009)
khi xây dựng hệ thống tái sinh trên giống cà chua
Lycopersicon esculentum c.v. Omdurman đã kết luận:
kinetin cho hiệu quả tái sinh tạo chồi cao hơn so
với BA (Ishag et al., 2009). Vì vậy, việc nghiên cứu
ảnh hưởng của kinetin đến sự phát sinh hình thái
cà chua Montavi là cần thiết. Kết quả được trình bày
tại bảng 5.
Bảng 5. Ảnh hưởng của kinetin đến sự phát sinh hình thái cà chua Montavi
(sau 6 tuần nuôi cấy)
Công
thức
Kinetin
(mg/l)
Tỷ lệ tạo
chồi
(%)
Số chồi
(chồi/mẫu)
Chiều cao
chồi
(cm/chồi)
Số lá
(lá/chồi)
Số rễ
(rễ/cây) Quan sát hình thái
CT1 0 13,3 0,37 ± 0,21 0,22 ± 0,15 0,7 ± 0,4 0,63 ± 00,23a Cây/callus yếu, nhỏ, màu nhạt sinh trưởng kém
CT2 0,5 6,6 0,07 ± 0,05 0,05 ± 0,04 0,1 ± 0,07 0,03 ± 0,03b Cây/callus yếu, nhỏ, màu nhạt sinh trưởng kém
CT3 1,0 10,0 0,17 ± 0,1 0,19 ± 0,11 0,4 ± 0,26 0,07 ± 0,07b Cây/callus khỏe, lá nhỏ sinh trưởng tốt
CT4 1,5 16,6 0,47 ± 0,26 0,13 ± 0,06 0,4 ± 0,27 0b Cây/callus khỏe, lá nhỏ sinh trưởng tốt
CT5 2,0 8,3 0,29 ± 0,2 0,12 ± 0,08 0,5 ± 0,35 0b Cây/callus yếu, nhỏ, màu nhạt sinh trưởng kém
CT6 2,5 3,3 0,03 ± 0,03 0,07 ± 0,07 0,27 ± 0,27 0,1 ± 0,06b Cây/callus yếu, nhỏ, màu nhạt sinh trưởng kém
Pvalue 0,58 0,34 0,771 0,756 <0,001
Kết quả trong bảng 5 cho thấy: có sự dao động
về tỷ lệ tạo chồi, số chồi, chiều cao chồi, số lá/chồi,
nhưng sự khác biệt giữa các công thức môi trường
không bổ sung và có bổ sung kinetin là không có ý
nghĩa thống kê (P-value >0,05). Như vậy, có thể kết
luận kinetin không ảnh hưởng tới khả năng tái sinh
tạo chồi của trụ hạ diệp của cây thuốc lá Montavi. So
sánh với kết quả tái sinh trên môi trường có bổ sung
52
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
riêng rẽ BA và kinetin cho thấy: BA có hiệu quả tái
sinh tạo chồi cao hơn kinetin. Kết quả này có thể coi
là đối lập với kết quả nghiên cứu của Ishag và cộng
tác viên (2009) khi các tác giả kết luận kinetin có
hiệu quả tái sinh tạo chồi cao hơn so với BA khi tiến
hành nghiên cứu trên giống cà chua Lycopersicon
esculentum c.v. Omdurman (Ishag et al., 2009).
Rashid và Bal (2010) khi xây dựng hệ thống tái sinh
cho các giống cà chua ‘Punjab Upma’ và ‘IPA-3’ đã
tìm được môi trường thích hợp nhất là MS có bổ
sung kết hợp 0,5mg/l BA và 0,5 mg/l kinetin, cho
tỷ lệ tái sinh đạt tương ứng là 86,02% và 82,57%
(Rashid and Bal, 2010). Các kết quả trên cho thấy, sự
khác biệt về kiểu gen rõ ràng có thể là nguyên nhân
chính dẫn tới sự khác biệt về đáp ứng của mẫu cấy
với các chất điều tiết sinh trưởng.
3.5. Ảnh hưởng của tổ hợp BA và IAA đến sự phát
sinh hình thái cà chua Montavi
Trong nuôi cấy mô tế bào thực vật, việc bổ sung
kết hợp giữa các chất điều tiết sinh trưởng thuộc
nhóm auxin và cytokinin là rất phổ biến nhằm điều
khiển sự phát sinh hình thái của mẫu cấy. Hà Trần
Minh Dũng và cộng tác viên (2012) xác định được
môi trường thích hợp cho tái sinh chồi từ lá mầm cây
cà chua Hồng Châu là MS có bổ sung 0,5 mg/l BA,
0,5 mg/l kinetin, 0,1 mg/l IAA (Hà Trần Minh Dũng
và ctv., 2012). Đỗ Xuân Đồng và cộng tác viên (2007)
cũng sử dụng môi trường tái sinh có sự kết hợp giữa
auxin (IAA) và cytokinin (zeatin) khi xây dựng quy
trình tái sinh cho 3 giống cà chua cà múi TS, PT18,
93D4103 (Đỗ Xuân Đồng và ctv., 2007). Kế thừa kết
quả nghiên cứu trên (bảng 4), thí nghiệm này sử
dụng môi trường có bổ sung BA ở nồng độ 2,0 mg/l
và bổ sung thêm IAA với các nồng độ từ 0 - 0,3 mg/l.
Kết quả trên bảng 6 cho thấy: Việc kết hợp giữa
BA và IAA đã làm tăng khả năng tái sinh của trụ hạ
diệp so với sử dụng BA riêng rẽ. Trong khi công thức
bổ sung riêng rẽ 2 mg/l BA chỉ cho tỷ lệ tái sinh chồi
đạt 36,6% thì các công thức có bổ sung thêm IAA
với nồng độ 0,05 - 0,2 mg/l đã làm tăng tỷ lệ tái sinh
tạo chồi và dao động trong khoảng 45,8 - 70,0%. Môi
trường bổ sung 2 mg BA/l và 0,2 mg IAA/l cho kết
quả tái sinh tạo chồi là cao nhất và đạt 70,0%. Thêm
vào đó, số chồi tái sinh trên môi trường này cũng
đạt cao nhất (1,9 chồi/mẫu), chất lượng chồi tốt. Kết
quả nghiên cứu này có sự trùng lặp hoàn toàn với
kết quả của Sherkar và Chavan (2014) khi hai tác giả
trên cũng xác định môi trường tái sinh phù hợp nhất
cho trụ hạ diệp của giống cà chua Pusa ruby là MS có
bổ sung 2 mg BA/l và 0,2 mg IAA/l. Mặc dù vậy, tỷ
lệ mẫu tái sinh tạo chồi của giống cà chua Pusa ruby
đạt tới 100%, số chồi đạt 1,3 chồi/mẫu cấy (Sherkar
and Chavan, 2014). Trong khi đó, kết quả của Ishag
và cộng tác viên (2009) lại cho thấy việc kết hợp giữa
BA hoặc kinetin với IAA đã làm giảm khả năng tái
sinh tạo chồi của cà chua Lycopersicon esculentum
c.v. Omdurman (Ishag et al., 2009). Như vậy, sự khác
biệt về kiểu gen rõ ràng đã ảnh hưởng tới kết quả
đáp ứng của mẫu cấy với chất điều hoà sinh trưởng
(Gubis et al., 2013).
Bảng 6. Ảnh hưởng của tổ hợp BA và IAA đến sự phát sinh hình thái cà chua Montavi
(sau 6 tuần nuôi cấy)
Công
thức
BA
(mg/l)
IAA
(mg/l)
Tỷ lệ tái
sinh chồi
(%)
Số chồi
tái sinh
(chồi/mẫu)
Chiều cao
chồi (cm/
chồi)
Số lá
(lá/chồi)
Số rễ
(rễ/cây) Quan sát hình thái
CT1 2,0 0 36,6a 0,93 ± 0,26a 0,29 ± 0,1 0,7 ± 0,2a 0,1 ± 0,1 Cây/callus khỏe, lá nhỏ, sinh trưởng tốt
CT2 2,0 0,05 46,6ab 1,27 ± 0,32ab 0,6 ± 0,16 1,47 ± 0,35ab 0,1 ± 0,06 Cây/callus khỏe, lá nhỏ, sinh trưởng tốt
CT3 2,0 0,1 45,8ab 1,17 ± 0,33ab 0,4 ± 0,13 1,17 ± 0,35ab 0,2 ± 0,17 Cây/callus khỏe, lá nhỏ, sinh trưởng tốt
CT4 2,0 0,2 70,0b 1,9 ± 0,23b 0,72 ± 0,12 2 ± 0,45b 0,17 ± 0,12
Cây/callus khỏe, thân
mập, lá to, sinh trưởng
tốt
CT5 2,0 0,3 25,0a 0,54 ± 0,13a 0,43 ± 0,18 0,67 ± 0,27a 0,63 ± 0,3 Cây/callus khỏe, lá nhỏ sinh trưởng tốt
Pvalue 0,013 0,05 0,098 0,045 0,128
53
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
IV. KẾT LUẬN
Đã xây dựng được hệ thống tái sinh cho cây cà
chua Montavi. Khử trùng hạt giống cà chua Montavi
với Presept 0,5% trong thời gian 10 phút là phù hợp
nhất và cho kết quả 93,3% số hạt nảy mầm, chiều
cao trung bình cây sau 14 ngày gieo hạt đạt 7,1 cm.
Từ các kết quả nghiên cứu thành phần, nồng độ các
chất điều tiết sinh trưởng bổ sung riêng rẽ hoặc kết
hợp giữa BA, kinetin và IAA, đã xác định được môi
trường MS + 30 g sucrose/l + 2 mg BA/l + 0,2 mg
IAA/l là môi trường cho hiệu quả tái sinh chồi tốt
nhất, tỷ lệ tạo chồi đạt 70%, số chồi tái sinh đạt
1,9 chồi/mẫu, chất lượng chồi tái sinh tốt.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả xin cảm ơn sự hỗ trợ tài chính từ
quỹ học bổng VNUA-Monsanto, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam và Đề tài khoa học và công nghệ
trọng điểm cấp Học viện năm 2018 “Sử dụng hệ
thống CRISPR/Cas9 tạo đột biến định hướng trên
gen IAA9 ở cây cà chua”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hà Trần Minh Dũng, Dương Ngọc Kiều Thi, Lê Tấn
Đức, Nguyễn Hữu Hổ, 2012. Thử nghiệm chuyển gen
kháng sâu trên cây cà chua (Lycopersicon esculentum
Mill.) in vitro bằng vi khuẩn Agrobacterium
tumefaciens. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần
Thơ, 24: 39-48.
Đỗ Xuân Đồng, Chu Hoàng Hà, Lê Trần Bình, 2007.
Nghiên cứu quy trình tái sinh và hệ thống chuyển
gen cà chua (Lycopersicon esculentum Mill.) của Việt
Nam. Tạp chí Công nghệ Sinh học, 5: 217-223.
Abu-Qaoud H, 2015. In vitro regeneration of
tomato (Lycopersicon esculentum Mill). Plant Cell
Biotechnology and Molecular Biology, 16: 181-190.
Gubis J, Lajchova Z, Farago J, Rurekova Z, 2013. Effect
of genotype and explant type on shoot regeneration
in tomato (Lycopersicon esculentum Mill.) in vitro.
Czech J. Genet. Plant Breed, 39: 9-14.
Ishag S, Osman GM, Khalafalla M, Ishag S, 2009.
Effects of growth regulators, explant and genotype
on shoot regeneration in tomato (Lycopersicon
esculentum c.v. Omdurman). Int. J. Sustain. Crop
Prod, 4: 7-13.
Kendon JP, Rajaovelona L, Sandford H, Fang R, Bell
J, Sarasan V, 2017. Collecting near mature and
immature orchid seeds for ex situ conservation: ‘in
vitro collecting’ as a case study. Botanical Studies,
58: 1-14.
Murashige T, Skoog F, 1962. A revised medium for
rapid growth and bio assays with tobacco tissue
cultures. Physiologia Plantarum, 15: 473-497.
Rashid R, Bal SS, 2010. Effect of hormones on direct
shoot regeneration in hypocotyl explants of tomato.
Notulae Scientia Biologicae, 2: 70-73.
Sherkar HD, Chavan AM, 2014. Studies on callus
induction and shoot regeneration in tomato. Science
Research Reporter, 4: 89-93.
Establishment of efficient in vitro regeneration protocol for Montavi tomato
Nguyen Minh Chien, Trang A Chinh, Dinh Truong Son
Abstract
There are many tomato breeding strategies, however, through the creation of transgenic tomatoes or through
somaclonal variation are promised and widely used. Efficient protocol for tomato plant regeneration could
contribute to creating transgenic or new tomato plants with desired agronomic properties. The purpose of this
work is to establish the regeneration protocol for Montavi tomato variety. Montavi seeds were surface sterilized
with Presept 0.5% for 10 minutes and then washed 3 - 4 times in autoclaved water. Sterilized seeds were placed on
MS basal medium (Murashige and Skoog 1962) without plant growth regulators. 0.8-1cm-long excised hypocotyl
segments were used as explants for shoot induction. Explants were placed on media supplied with different types
of plant growth regulators (separate and/or in combination between 6-Benzylaminopurine, kinetin, and Indole-3-
acetic acid). The most suitable media for callus and shoots regeneration was MS with 30 g sucrose/l and 2 mg BA/l
and 0.2 mg IAA, the rate of shoot formation reaches 70%, number of shoots reaches 1.9 buds, regenerated buds
were in good condition.
Keywords: Tomato, Montavi, in vitro regeneration
Ngày nhận bài: 20/4/2019
Ngày phản biện: 23/4/2019
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Văn Giang
Ngày duyệt đăng: 15/5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xay_dung_he_thong_tai_sinh_in_vitro_cho_giong_ca_chua_montav.pdf