Tài sản thương hiệu là một khái niệm
quan trọng cho các tổ chức hiện đại và là chủ
đề học thuật rất được quan tâm trong những
năm gần đây. Dù có nhiều mô hình đo lường
tài sản thương hiệu, tuy vậy mô hình của
Aaker (1991) là một trong số những mô hình
được áp dụng khảo sát phổ biến vì nó thể
hiện sự đánh giá đầy đủ của khách hàng đối
với thương hiệu và đặc biệt nó có thể được
hiểu dễ dàng bởi khách hàng (Yoo & cộng
sự, 2000). Mô hình của Aaker (1991) không
những được áp dụng đối với sản phẩm mà đã
dần được khảo sát trong lĩnh vực du lịch, đặc
biệt là đối với điểm đến. Dựa trên cơ sở lý
thuyết và các kết quả nghiên cứu thực tế, bài
báo đã hình thành mô hình lý thuyết về mối
quan hệ giữa các yếu tố cấu thành tài sản
thương hiệu đối với điểm đến. Trong đó, (1)
nhận biết thương hiệu điểm đến có tác động
tích cực đến liên tưởng thương hiệu điểm đến
và chất lượng cảm nhận điểm đến; (2) liên
tưởng thương hiệu điểm đến có ảnh hưởng
thuận chiều đến chất lượng cảm nhận điểm
đến; (3) liên tưởng thương hiệu điểm đến và
chất lượng cảm nhận điểm đến đều có tác
động tích cực đến có trung thành thương hiệu
điểm đến;
21 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 560 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững: Nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i thị trường. Khả năng này sẽ
khác biệt tùy vào doanh nghiệp và đặc biệt là
định hướng kinh doanh từ chủ doanh nghiệp.
Yếu tố này thỏa mãn những yêu cầu của
VRIN. Vì thế, tác giả cho rằng:
H3: Khả năng nhạy bén với thị trường
tác động tích cực đến khả năng cạnh tranh
bền vững của doanh nghiệp.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
54
3.4. Dẫn đạo chi phí
Mỗi một doanh nghiệp khác nhau trên
cơ sở nền tảng và nét khác biệt của mình sẽ
cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho khách
hàng với chi phí khác nhau. Porter (1985)
cho rằng dẫn đạo chi phí là phương thức cạnh
tranh bền vững đặc biệt trong lĩnh vực công
nghệ. Khi doanh nghiệp cải thiện quy trình
cũng như hợp tác với các đối tác trong chuỗi
cung cấp sẽ giúp cho chuỗi cung ứng gia tăng
hiệu quả, từ đó nâng cao rào cản thâm nhập
ngành của mạng lưới. Hơn nữa, để gia tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong
chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị, doanh
nghiệp không chỉ phải phát huy năng lực
sáng tạo trong việc cung ứng sản phẩm và
dịch vụ khác biệt mà phải còn kết nối với các
doanh nghiệp khác trong chuỗi (Nguyễn
Phúc Nguyên & Lê Thế Giới, 2013). Điều
này sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh bền vững
của doanh nghiệp. Vì thế,
H4: Sự dẫn đạo chi phí tác động tích
cực đến khả năng cạnh tranh bền vững của
doanh nghiệp.
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
4. Phương pháp nghiên cứu và phân tích
dữ liệu
4.1. Thang đo
Nghiên cứu sử dụng phương pháp
khảo sát để thu thập dữ liệu trên cơ sở các
câu hỏi được vận dụng từ các nghiên cứu
trước. Bản câu hỏi sau khi xây dựng được sử
dụng để tiền kiểm định với 30 nhà quản lý
(đang theo học chương trình MBA tại các
trường đại học ở khu vực). Bản câu hỏi được
hiệu đính trên cơ sở phản hồi và góp ý. Bản
câu hỏi cuối cùng sẽ được gửi cho các nhà
quản lý ở khu vực du lịch trên cơ sở lựa chọn
ngẫu nhiên từ “trang vàng Việt nam” với quy
mô mẫu là 600 doanh nghiệp (nhà hàng,
khách sạn, resort, công ty lữ hành). Trong
số 276 câu hỏi thu về có 14 bản câu hỏi chưa
hoàn tất và tổng số 262 bảng hỏi sẽ được sử
dụng để phân tích. Nghiên cứu sử dụng thang
đo Likert năm mức độ với mức hoàn toàn
không đồng ý đến hoàn toàn đồng ý. Bộ
thang đo của nghiên cứu bao gồm 23 quan
sát được tổng hợp như ở bảng 1 sau đây:
Quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả
Khả năng nhạy bén với thị trường
Khả năng đổi mới
Lợi thế cạnh tranh bền
vững
Dẫn đạo chi phí
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
55
Bảng 1. Thang đo của các khái niệm trong mô hình
Thành phần Số biến Nguồn
Quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả
(SCM)
5 Curran và Blackburn (2001)
Khả năng đổi mới (IC) 5 Desphandé & cộng sự (1993); Huỳnh Thanh
Nhã & La Hồng Liên (2015).
Khả năng nhạy bén với thị trường
(MC)
5 Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang
(2009); Zhou & Li (2010)
Dẫn đạo chi phí (CL) 5 Curran và Blackburn (2001)
Lợi thế cạnh tranh bền vững (SCA) 3 Buckley & cộng sự (1988); Li & Liu (2014)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
4.1.1. Mô hình hồi quy
iiiiii CLMCICSCMSCA
Trong đó i là sai số
4.1.2. Kiểm định chất lượng thang đo
Để kiểm định thang đo, nghiên cứu sử
dụng Cronbach alpha và loại các biến có hệ
số tương quan biến-tổng nhỏ hơn 0.3. Kết
quả Cronbach alpha của 5 thành phân loại 2
nhân tố thuộc thành phần quản trị chuỗi cung
ứng hiệu quả và khả năng nhạy bén với thị
trường. Vì thế 21 nhân tố còn lại được sử
dụng trong mô hình cho nghiên cứu tiếp theo.
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) 4
biến độc lập của mô hình cho thấy, kiểm định
KMO đạt 0.865 và giá trị kiểm định ở mức ý
nghĩa <0.05. Hơn nữa, tổng phương sai trích
có khả năng giải thích mô hình từ phân tích
EFA với phép xoay Promax là 69.25% tổng
biến thiên của mẫu khảo sát.Đối với nhân tố
năng lực cạnh tranh bền vững, chỉ số KMO là
0.68 với mức ý nghĩa trên 95%. Hệ số R2
hiệu chỉnh bằng 61,6% nghĩa là 61,6% sự
thay đổi của năng lực cạnh tranh động được
giải thích bởi 4 biến độc lập của mô hình. Hệ
số Durbin Watson của mô hình là 1.92 chứng
tỏ mô hình không có hiện tượng tự tương
quan (Thọ, 2011). Hơn nữa, các hệ số VIF
của tất cả các biến độc lập trong mô hình có
giá trị từ 1,23 đến 3,16, gợi ý rằng mô hình
không có hiện tượng đa cộng tuyến (Cohen
và cộng sự, 2003).
Để kiểm tra các sự phù hợp của quan
hệ cấu trúc giữa các thành phần trong mô
hình cũng như xác định độ giá trị hội tụ và
phân biệt trong mô hình nghiên cứu, tác giả
sử dụng kỹ thuật phân tích CFA bằng phần
mềm LISREL 8.80. Chỉ số khi bình phương
của mô hình có ý nghĩa cao ( 56.180
2
,
129df , 00.0p ), với giá trị
( 40.1
2 df ) thấp hơn ngưỡng yêu cầu
5.0 (Schumacker & Lomax, 2004) cho nên
các cấu trúc đều đạt được giá trị hội tụ. Kết
quả cũng chỉ ra rằng bình phương hệ số
tương quan của các cặp nhân tố nhỏ hơn
trung bình phương sai trích của mỗi cặp nhân
tố tương ứng nên các đo lường trong mô hình
đạt được độ giá trị phân biệt (Fornell & Lacker,
1981). Hơn nữa, để kiểm chứng mô hình tổng
thể, tác giả sử dụng các chỉ số CFI, RMSEA
và NFI và NNFI. Kết quả từ phân tích cho
thấy CFI=0.96; RMSEA=0.05; NFI=0.94;
NNFI=0.94. Theo Hair & cộng sự (2010),
các chỉ số của mô hình đều đáp ứng yêu cầu
chứng tỏ mô hình đáng tin cậy. Vì vậy các
biến, cấu trúc trong mô hình đáp ứng yêu cầu
về các tiêu chí thống kê nên được sử dụng để
kiểm định các giá thuyết của mô hình nghiên
cứu.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
56
Bảng 2. Kết quả phân tích kiểm định giá trị hội tụ của mô hình
Thành phần 1 2 3 4 5 CR
1. Quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả 0.68 0.89
2. Khả năng đổi mới 0.39 0.53 0.81
3. Khả năng nhạy bén thị trường 0.18 0.42 0.63 0.89
4. Dẫn đạo chi phí 0.21 0.11 0.03 0.49 0.85
5. Lợi thế cạnh tranh bền vững 0.43 0.36 0.30 0.25 0.55 0.78
Nguồn: Khảo sát của tác giả
4.2. Kết quả phân tích
Để kiểm chứng mô hình đề xuất, tác
giả sử dụng mô hình hồi quy OLS bằng phần
mềm STATA 13 để phân tích tác động của
các biến số đến khả năng cạnh tranh bền
vững của doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng
loại hình sở hữu là biến kiểm soát. Bảng 3
thể hiện kết quả của mô hình hồi quy. Kết
quả mô hình phản ảnh độ tương tích của dữ
liệu và mô hình có ý nghĩa thống kê.Tất cả
các giá thuyết trong mô hình đều chấp nhận
dựa trên kết quả phân tích. Điều này chứng
minh rằng: quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả,
khả năng đổi mới, khả năng nhạy bén với thị
trường và dẫn đạo chi phí là những thành tố
quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh bền
vững của một doanh nghiệp. Kết quả này là
tương thích với các nghiên cứu trước của
Bharadwaj và cộng sự (1993); Gunasekaran
và cộng sự (2006); Menguc và Auh (2006).
Bảng 3. Kết quả phân tích hồi quy
Mô hình 1 Mô hình 2
Biến
Năng lực cạnh tranh
bền vững
Năng lực cạnh
tranh bền vững
Quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả 0.205** 0.214**
Khả năng đổi mới 0.182** 0.191**
Khả năng nhạy bén thị trường 0.097* 0.108*
Dẫn đạo chi phí 0.124** 0.115**
Tư nhân 0.908
Doanh nghiệp nước ngoài 0.116**
Hằng số 0.913** 1.215**
R2 hiệu chỉnh 0.412 0.423
F 14.22*** 11.63***
N 262 262
Ghi chú: *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Khảo sát của tác giả
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
57
Với kết quả này, chúng ta có thể nhận
thấy rằng lợi thế cạnh tranh bền vững của
một doanh nghiệp chịu tác động của cả yếu
tố chiến lược và năng lực cốt lõi. Khả năng
sáng tạo, đổi mới; khả năng nhạy bén thị
trường kết hợp với chiến lược dẫn đạo chi
phí và khả năng quản trị chuỗi cung ứng hiệu
quả sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh bền vững
của doanh nghiệp. Vì thế, lợi thế cạnh tranh
bền vững là có thể xây dựng, duy trì và phát
triển thông qua đổi mới, định hướng lại chiến
lược. Kết quả này cũng chỉ ra rằng doanh
nghiệp phải liên tục thay đổi và định hình lại
trong môi trường cạnh tranh gay gắt vì các
đối thủ cạnh tranh có thể bắt chước, cấu hình
lại chiến lược cũng như nguồn lực. Hơn nữa,
khi xem xét kỹ hệ cố beta, chúng ta phát hiện
ra rằng, trong ngành du lịch thì việc quản trị
chuỗi cung ứng hiệu quả trên cơ sở tích hợp
cả bên trong và tích hợp dọc chuỗi cung ứng
sẽ gia tăng đáng kể hiệu quả kinh doanh,
hình thành rào cản thâm nhập ngành và đây
chính là chìa khóa tạo ra lợi thế cạnh tranh
bền vững (Porter, 1985). Với đặc thù của các
doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch nơi mà
các doanh nghiệp phải tương tác với nhau
trong chuỗi giá trị nhằm cung cấp giá trị cao
nhất cho khách hàng thì khả năng quản trị
chuỗi cung ứng và khả năng đổi mới là vô
cùng quan trọng. Mặt khác, kết quả phân tích
cũng chỉ ra rằng, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước
có tiềm năng về lợi thế cạnh tranh bền vững
hơn các công ty tư nhân. Điều này có thể bắt
nguồn từ năng lực quản lý và đặc biệt là khả
năng nhạy bén thị trường, dẫn đạo chi phí khi
vận hành trong môi trường toàn cầu của các
công ty nước ngoài. Kết quả cũng phản ánh
rằng các công ty nhà nước trên phương diện
nào đó đã và đang được nhà nước bảo hộ sẽ
làm gia tăng lợi thế cạnh tranh bền vững theo
góc độ chi phí (Nguyen, 2011).
5. Kết luận
Dưới góc độ lý thuyết, nghiên cứu đã
làm rõ các yếu tố cấu thành lợi thế cạnh tranh
bền vững của doanh nghiệp. Nghiên cứu này
giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất cạnh
tranh trên cơ sở phân tích nguồn lực cũng
như chiến lược của các tổ chức. Nghiên cứu
đã khái quát và cung cấp một thang đo định
lượng để đo lường lợi thế cạnh tranh bền
vững. Đây có thể được xem là nghiên cứu
đầu tiên ở Việt Nam trong việc đánh giá và
đo lường lợi thế cạnh tranh bền vững.
Dưới góc độ thực tiễn, bài nghiên cứu
cung cấp phương thức và hướng dẫn cho các
nhà quản lý nhằm hoàn thiện các tiêu chuẩn
đánh giá hiệu quả hoạt động đặc biệt trong
việc tạo lập, định hình và duy trì lợi thế cạnh
tranh bền vững cho doanh nghiệp. Thực tế
rằng một tổ chức có thể dẫn đầu tại một thời
điểm và sụp đổ vì một lý do nhỏ trong thời
điểm tiếp theo. Vì thế, nguồn lực đặc biệt kết
hợp với chuỗi hành động và quyết định sẽ tạo
nên lợi thế cạnh tranh bền vững cho doanh
nghiệp. Hơn nữa, lợi thế cạnh tranh bền vững
sẽ không thể đạt được nếu chỉ dựa vào nguồn
lực. Một tài nguyên chỉ trở thành một lợi thế
cạnh tranh khi nó được áp dụng cho một
ngành hoặc phục vụ cho một thị trường. Do
đó, một tổ chức phấn đấu đạt được lợi thế
cạnh tranh bền vững chỉ bằng phương thức
triển khai các nguồn lực của mình, mà không
quan tâm và cân nhắc đến đối thủ cạnh tranh
là một điểm thiếu sót quan trọng. Nếu một
công ty liên tục tập trung vào các yếu tố bên
ngoài sẽ giúp cho công ty hướng đến việc
khám phá và khai thác các nguồn lực độc đáo,
từ đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ballou, R. H. (2004). Business Logistics/Supply Chain Management. 5th ed. NY: Pearson
Prentice Hall.
[2] Barney, J. (1991). Firm resources and sustained competitive advantage, Journal of
Management, 17(1), 99-120.
[3] Barney, J. (2001). Is the resource-based view a useful perspective for strategic
management research? Yes, Academy of Management Review, 74, 27-132.
[4] Bharadwaj, S.G., Varadarajan, P.J. & Fahy, J. (1993). Sustainable Competitive Advantage
in Service Industries: A Conceptual Model and Research Propositions, Journal of
Marketing, 57, 83-99.
[5] Buckley, P.J., Pass, C.L. & Prescott, K. (1988). Measure of international competitiveness: A
critical survey, Journal of Marketing Management, 4 (2), 175-200.
[6] Caves, R.E. (1984). Economic analysis and the quest for competitive advantage, American
Economic Review, 74, 27-132.
[7] Chaharbaghi, K. & Lynch, R. (1999). Sustainable competitive advantage: towards a
dynamic resource-based strategy. Management Decision, 37(1), 45–50.
[8] Chopra Sunil and MeindlPeter (2012). Supply Chain Management, 5th Edition. Pearson.
[9] Cohen, J., Cohen, P., West, S. G., & Aiken, L. S. (2003), Applied Multiple
Regression/Correlation Analysis for the Behavioral Sciences, (3rd ed.), Lawrence
Erlbaum Associates.
[10] Collis, D.J (1994). Research note: how valuable are organizational capabilities?, Strategic
Management Journal, 15 (S1), 143-152.
[11] Curran, J. and Blackburn, R. A. (2001). Researching the small enterprise. London: Sage
Publications.
[12] Damanpour, F. (1991). Organizational innovation: A meta-analysis of effects of
determinants and moderators, The Academy of Management Journal, 34(3), 555-590.
[13] Day, G. S. & Nedungadi, P. (1994). Managerial Representations of Competitive
Advantage, Journal of Marketing, 58, 31-44.
[14] Deshpandé, R., Farley, J.U. & Webster Jr., F.E. (19931). Corporate culture, customer
orientation, and innovativeness in Japanese firms: A quadrad analysis, Journal of
Marketing, 57 (1), 23-37.
[15] Drobis, D. R. (1991). Competitive thinking for competitive advantage, Public Relations
Quarterly, 36 (3), 9-12.
[16] Fabrizio, K.R. (2009). Absorptive capacity and the research for innovation, Research Policy, 38
(2), 255-267.
[17] Fornell, C., & Larcker, D. F. (1981). Evaluating structural equation models with
unobservable variables and measurement error, Journal of Marketing Research, 48, 39–50.
[18] Foster, R. & Kaplan, S. (2001). Creative destruction: Why companies that are built to last
underperform the market – and how to successfully transform them. Doubleday, New
York, NY.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
59
[19] Ghemawat, P. (1991). Commitment: The dynamics of strategy. Free Press, New York, NY.
[20] Grant, R.M. (1991). The resource-based theory of competitive advantage: implications for
strategy formulation, California Management Review, 33 (3), 114-35.
[21] Gunasekaran, A., Laib, K. H., Cheng, E. T. C, (2006). Responsive supply chain: A
competitive strategy in a networked economy, The International Journal of Management
Science, 36, 549-564.
[22] Hair, J. F., Anderson, R. E., Babin, B. J. & Black, W. C. (2010). Multivariate data
analysis. 7th ed. NJ: Prentice-Hall.
[23] Hayes, R. H. & Wheelwright, S. C. (1984). Restoring our competitive edge: competing
through manufacturing. NY: Wiley & Sons.
[24] Huỳnh Thanh Nhã & La Hồng Liên (2015), ‘Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại Thành phố Cần Thơ’, Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 36, 72-80.
[25] Keh, H.T., Nguyen Thi Tuyet Mai, & Hwei, P.Ng (2007). The effects of entrepreneurial
orientation and marketing information on the performance of SMEs, Journal of Business
Venturing. 22 (4), 592-611.
[26] Kotha, S. & Orne, D. (1989). Generic manufacturing strategies: a conceptual synthesis,
Strategic Management Journal, 10(3), 211-231.
[27] Leonard, B.D. (1992). Core capabilities and core rigidities: a paradox in managing new product
development, Strategic Management Journal, 13 (S1), 111-125.
[28] Li, Da-yuan, & Liu, Juan (2014). Dynamic capabilities, environmental dynamism, and
competitive advantage: Evidence from China, Journal of Business Research, 67 (1), 2793-
2799.
[29] Lewis, M. A., (2000). Lean production and sustainable competitive advantage,
International Journal of Operations &Production Management, 20(8), 959-978.
[30] Menguc, B. & Auh, S. (2006). Creating a firm-level dynamic capability through
capitalizing on market orientation and innovativeness. Journal of the Academy of
Marketing Science, 34(1), 63–73.
[31] Montgomery, C.A., & Porter, M.E. (2009). Strategy: Seeking and Securing Competitive
Advantage. The Harvard Business Review, Boston, M.A.
[32] Nguyễn Đình Thọ (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, Nhà xuất
bản Lao động, Hà Nội
[33] Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2009), Một số yếu tố tạo thành năng lực động
doanh nghiệp và giải pháp nuôi dưỡng, Kỷ yếu Hôi thảo Năng lực cạnh tranh động của doanh
nghiệp, Viện nghiên cứu kinh tế phát triển, Hồ Chí Minh tháng 4-2009. Trang 1-21.
[34] Nguyen Phuc Nguyen (2011). Applying theory of reasoned action to explain inter-firm
cooperation: Empirical evidence from Vietnamese enterprises, International Journal of
Management & Information Systems, 15 (3), 61-81.
[35] Nguyễn Phúc Nguyên & Lê Thế Giới (2013). Phát triển bền vững du lịch duyên hải miền
Trung theo cách tiếp cận chuỗi giá trị, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 277, 2-11.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
60
[36] Nguyễn Trần Sỹ (2013). Năng lực động- hướng tiếp cận mới để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 12 (22), 15-20.
[37] Porter, M.E. (1980). Competitive Strategy. Free Press, New York, NY.
[38] Porter, M. E. (1985). Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior
Performance. New York: The Free Press.
[39] Schumacker, R. E., & Lomax, R. G. (2004). A beginner's guide to structural equation
modeling, Second edition. Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.
[40] Schumpeter, J.A. (1950). Capitalism, Socialism and Democracy. Harper and Row, New
York, NY.
[41] Teece, D.J., Pisano, G. & Shuen, A. (1997). Dynamic Capabilities and Strategic
Management. Strategic Management Journal, 18(7), 509-533.
[42] Wernerfelt, B. (1984). The resource-based view of the firm, Strategic Management Journal, 5
(2), 171-180.
[43] Zhou, K.Z. & Li, C.B. (2010). How strategic orientations influence the building of dynamic
capability in emerging economics, Journal of Business Research, 63 (3), 224-231.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
74
TÀI SẢN THƯƠNG HIỆU ĐIỂM ĐẾN: GÓC NHÌN TỪ CƠ SỞ LÝ LUẬN
DESTINATION BRAND EQUITY: THE THEORETICAL PERSPECTIVE
Nguyễn Phúc Nguyên, Trần Trung Vinh
nguyennp@due.edu.vn, vinhtt@due.edu.vn
TÓM TẮT
Bài báo nhằm tổng hợp cơ sở lý thuyết về thương hiệu, điểm đến, thương hiệu điểm đến và tài
sản thương hiệu điểm đến. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất mô hình lý thuyết về mối quan hệ giữa
các yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu điểm dưới góc độ khách hàng. Mô hình đề xuất giải thích
rõ mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu điểm đến, cụ thể về nhận biết
thương hiệu điểm đến, hình ảnh thương hiệu điểm đến, chất lượng cảm nhận điểm đến, và tác
động của chúng đến tài sản thương hiệu. Nghiên cứu cũng gợi mở một số hướng nghiên cứu
trong tương lai.
Từ khóa: Điểm đến; tài sản thương hiệu điểm đến; nhận biết thương hiệu điểm đến; chất lượng
cảm nhận điểm đến; trung thành thương hiệu điểm đến.
ABSTRACT
This paper is aimed to review the literature relating to brand, destination, destination brand and
destination brand equity. Based on the review, the authors have proposed a theoretical model of
the relationships among components of destination brand equity under the view of customer. The
proposed model has explained the relationship between the constructs and destination brand
equity, especially with destination brand awareness, destination brand image, destination
perceived quality, destination brand loyalty; and their impact on overall destination brand equity.
Finally, this paper presents some suggestions for future research.
Keywords: Destination; destination brand equity; destination brand awareness; destination
perceived quality; destination brand loyalty.
1. Giới thiệu
Tài sản thương hiệu là chủ đề dành
được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu từ cuối thập niên 1980. Mặc dầu thuật
thuật ngữ này được bàn luận dưới các quan
điểm khác nhau (Keller, 2003), tài sản
thương hiệu được nghiên cứu trên hai góc độ
chính: Góc độ tài chính và góc độ khách
hàng. Dưới góc độ tài chính, tài sản thương
hiệu được xem là một tài sản riêng biệt với
mục tiêu ước lượng trị giá của thương hiệu
trong toàn bộ trị giá tài sản của công ty và tài
sản thương hiệu có thể được sử dụng như
một cơ sở đánh giá hiệu quả nội bộ hoặc cho
những kế hoạch hợp nhất bên ngoài doanh
nghiệp (Feldwick, 1996). Trên cở sở khách
hàng, tài sản thương hiệu còn được gọi là tài
sản thương hiệu dựa vào khách hàng
(customer-based brand equity) lấy đánh giá
của khách hàng làm trọng tâm. Thông qua sự
liên tưởng và nhận thức của khách hàng dành
cho từng thương hiệu cụ thể sẽ làm tăng thêm
giá trị cho sản phẩm (Winters, 1991). So với
tài sản thương hiệu dựa trên quan điểm tài
chính thì tài sản thương hiệu dựa vào khách
hàng được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ hơn
(Cobb-Walgren & cộng sự, 1995). Do đó, tài
Nguyễn Phúc Nguyên, TS., Trần Trung
Vinh, TS., Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà
Nẵng.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
75
sản thương hiệu được tiếp cận trong nghiên
cứu này dựa trên quan điểm khách hàng.
Nghiên cứu về tài sản thương hiệu
không chỉ dừng lại ở sản phẩm hữu hình hay
dịch vụ mà đã dần lan tỏa sang điểm đến du
lịch. Đã có một vài nghiên cứu về tài sản
thương hiệu đối với điểm đến (Konecnik &
Gartner, 2007; Boo & cộng sự, 2009;
Myagmarsuren & Chen, 2011). So với
nghiên cứu về tài sản thương hiệu đối với sản
phẩm thì nghiên cứu về tài sản thương hiệu
đối với điểm đến ít hơn khá nhiều về số
lượng lẫn thời điểm xuất hiện (nghiên cứu
đầu tiên về tài sản thương hiệu điểm đến là
của Konecnik & Gartner, 2007). Một trong
những nguyên nhân dẫn đến điều này là do
các khái niệm, quan điểm về điểm đến và
thương hiệu điểm đến là khá phức tạp, lại bị
chi phối bởi nhiều yếu tố. Vì thế việc làm rõ
khái niệm cũng như xây dựng mô hình lý
thuyết về mối quan hệ giữa các yếu tố cấu
thành tài sản thương hiệu điểm đến là trọng
tâm của nghiên cứu.
2. Cơ sở lý thuyết và khung nghiên cứu
2.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1. Thương hiệu
Thương hiệu (Brand) là một thuật ngữ
được nhắc đến một cách đều đặn và liên tục
hơn bao giờ hết trong học thuật lẫn thực tiễn
trong những năm gần đây. Định nghĩa về
thương hiệu là rất đa dạng; tuy vậy, chúng có
thể được phân thành hai quan điểm chính:
quan điểm truyền thống và quan điểm tổng
hợp (Thọ & Trang, 2008). Theo quan điểm
truyền thống, Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ
định nghĩa: “Thương hiệu là một cái tên, một
từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một
hình vẽ hay tổng thể các yếu tố kể trên nhằm
xác định một sản phẩm hay một dịch vụ của
người bán và phân biệt các sản phẩm (dịch
vụ) đó với các đối thủ cạnh tranh”. Với quan
điểm này, thương hiệu được xem như là một
thành phần của sản phẩm với hai chức năng
chính: Chức năng thông tin nhằm phân biệt
sản phẩm với các sản phẩm cạnh tranh tương
ứng; chức năng pháp lý để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của cá nhân (tổ chức). Theo quan
điểm tổng hợp, thương hiệu không chỉ là một
cái tên, biểu tượng (những khía cạnh về mặt
hữu hình) mà nó phức tạp hơn nhiều: Thương
hiệu là một tập hợp sự kỳ vọng, liên tưởng từ
sự trải nghiệm của khách hàng với một sản
phẩm (công ty) (Davis, 2002). Theo quan
điểm này, thương hiệu được xem là một yếu
tố bao trùm, một tập hợp mẹ mà trong đó sản
phẩm là một bộ phận cấu thành với nhiệm vụ
thỏa mãn các nhu cầu chức năng lẫn tâm lý
của khách hàng. So với quan điểm truyền
thống thì quan điểm tổng hợp được nhà
nghiên cứu và các nhà quản trị hiện đại chấp
nhận vì sản phẩm chỉ tồn tại trong một vòng
đời cụ thể còn thương hiệu có thể gắn với
một chuỗi các sản phẩm nối tiếp nhau, có khả
năng tồn tại lâu hơn thậm chí là mãi mãi.
2.1.2. Tài sản thương hiệu
Theo Farquhar (1989), tài sản thương
hiệu là sức mạnh mà một thương hiệu có thể
đạt được trong thị trường bởi tên, dấu hiệu,
biểu tượng của nó. Keller (1993) thì cho rằng
tài sản thương hiệu là hiệu ứng khác nhau
của hiểu biết về thương hiệu dựa trên phản
hồi của khách hàng đối với các hoạt động
marketing cho thương hiệu. Tương tự, Aaker
(1991) định nghĩa “tài sản thương hiệu là tập
hợp các giá trị gắn liền với tên hoặc biểu
tượng của thương hiệu, những giá trị này sẽ
được cộng vào sản phẩm hay dịch vụ nhằm
gia tăng giá trị đối với những người liên
quan”. Với khái niệm này, Aaker (1991) đã
đề nghị nhận biết thương hiệu (Brand
awareness), liên tưởng thương hiệu (Brand
association), chất lượng cảm nhận (Perceived
quality), và trung thành thương hiệu (Brand
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
76
loyalty) là bốn yếu tố cấu thành tài sản
thương hiệu. Vì thế, tác giả sử dụng định
nghĩa của Aaker (1991) trong nghiên cứu của
mình vì nó thể hiện sự đánh giá đầy đủ của
khách hàng đối với thương hiệu và đặc biệt
giúp khách hàng hiểu được dễ dàng.
2.1.3. Điểm đến
Điểm đến (Destination) là một khái
niệm đa chiều, phức tạp và được nhìn nhận
dưới những góc độ khác nhau với các mục
tiêu khác nhau. Theo quan điểm truyền
thống, điểm đến được coi là một khu vực địa
lý được xác định rõ; chẳng hạn như một đất
nước, một hòn đảo hay một thị trấn (Hall,
2000). Vì thế điểm đến thường bị chia cắt bởi
các rào cản địa lý và chính trị, không lưu tâm
đến sở thích của du khách hoặc chức năng
của ngành công nghiệp du lịch. Gần đây
nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn nhận điểm đến
là một khái niệm cảm nhận (perceptual
concept), nó có thể được cảm nhận chủ quan
bởi du khách, tùy thuộc vào lộ trình du lịch,
nền văn hóa, mục đích của chuyến thăm,
trình độ học vấn lẫn kinh nghiệm quá khứ
của du khách. Ví dụ, London có thể là một
điểm đến đối với khách du lịch là những
doanh nhân Đức, trong khi đó sáu nước châu
Âu được xem là điểm đến Châu Âu đối với
du khách Nhật cho gói du lịch 2 tuần; hoặc ví
dụ khác, đối với đi du lịch bằng tàu du lịch
(Cruise ship), một số du khách có thể coi con
tàu mà họ đang đi là điểm đến, trong khi đó
những người khác trên cùng một hành trình
tương tự lại cảm nhận những bến cảng mà họ
đã cập trong suốt chuyến đi là điểm đến
(Buhalis, 2000). Từ quan điểm này, điểm đến
có thể được xem là một nơi mà những người
đi du lịch hướng đến và lựa chọn để lưu lại
trong một thời gian nhằm cảm nhận những
trải nghiệm đặc trưng, đặc tính thu hút nào
đó (Leiper, 1995); là nơi mà các cơ sở và
dịch vụ được thiết kế để đáp ứng các nhu cầu
của du khách (Cooper & cộng sự, 1998); là
sự tích hợp của tất cả các sản phẩm, dịch vụ
và trải nghiệm mang tính địa phương để cung
cấp cho du khách (Buhalis, 2000).
2.1.4. Thương hiệu điểm đến
Mặc dù điểm đến được nhìn nhận như
một sản phẩm và từ đó thương hiệu của các
điểm đến du lịch cũng được hình thành
(Prichard & Morgan, 1998); tuy vậy, có
những trở ngại nhất định khi xác định thương
hiệu của điểm đến vì so với một sản phẩm
(dịch vụ) điển hình thì điểm đến du lịch liên
quan đến nhiều yếu tố, chẳng hạn như phòng
ở, điểm tham quan, chính sách du lịch, ngành
công nghiệp du lịch (Cai, 2002), cũng như
tên của một điểm đến gần như được xác định
trước bởi các tên hiện tại của địa điểm (Kim
& cộng sự, 2009). Do đó, định nghĩa về
thương hiệu điểm đến (Destination brand) là
khá ít và tản mát trong lý thuyết. Một trong
những định nghĩa được trích dẫn nhiều nhất
về thương hiệu điểm đến là định nghĩa được
giới thiệu bởi Ritchie & Ritchie (1998). Theo
đó, thương hiệu điểm đến là một cái tên, biểu
tượng, logo, hoặc hình ảnh (Graphic) khác
nhằm xác định và phân biệt một địa điểm
(place), cũng như nó phải chuyển tải lời hứa
về một trải nghiệm du lịch đáng nhớ được
liên kết duy nhất với một địa điểm, đồng thời
nó phải góp phần tăng cường và củng cố
những kí ức thú vị gắn liền với một địa điểm
(Ritchie & Ritchie, 1998). Do đó, các nhà
nghiên cứu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
xây dựng thương hiệu điểm đến, đó là một
thành phần của hoạt động marketing để tạo ra
hình ảnh, logo, biểu tượng và nhận thức
chính xác của khách du lịch (Blain và cộng
sự, 2005); đồng thời củng cố sự độc đáo, hỗ
trợ sự hình thành, phát triển và hiển thị hình
ảnh tích cực của một điểm đến du lịch đến thị
trường mục tiêu (Baker & Cameron, 2008).
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
77
2.2. Các khái niệm nghiên cứu
Tài sản thương hiệu điểm đến
(Destination brand equity). Mặc dù vẫn còn
những tranh cãi là liệu tài sản thương hiệu có
thể được áp dụng từ sản phẩm sang điểm đến
du lịch hay không vì khái niệm này trở nên
khá phức tạp, khó nắm bắt khi kết nối nó với
một điểm đến (Konecnik & Gartner, 2007);
tuy vậy đã có những công trình nghiên cứu
thực tế về tài sản thương hiệu đã được áp
dụng cho các điểm đến du lịch. Công trình
đầu tiên áp dụng mô hình tài sản thương hiệu
dựa vào nghiên cứu thực tế đối với một điểm
đến du lịch được thực hiện bởi Konecnik, &
Gartner (2007), tiếp đó là các nghiên cứu của
Boo & cộng sự (2009); Konecnik & Gartner
(2010); Pike & cộng sự (2010);
Myagmarsuren & Chen (2011). Ngoài ra, gần
đây Srihadi & cộng sự (2015) đã định nghĩa
rằng “tài sản thương hiệu điểm đến là giá trị
gia tăng đã ban tặng cho một điểm đến thông
qua thương hiệu của điểm đến”. Khi áp dụng
tài sản thương hiệu vào điểm đến du lịch, đa
phần các nghiên cứu (như Pike & cộng sự,
2010; Kashif và cộng sự, 2015; Srihadi &
cộng sự, 2015) đã kế thừa các yếu tố cấu
thành tài sản thương hiệu của Aaker (1991)
gồm bốn thành phần: nhận biết thương hiệu
điểm đến, hình ảnh thương hiệu điểm đến,
chất lượng cảm nhận điểm đến và và trung
thành thương hiệu điểm đến.
Nhận biết thương hiệu điểm đến
(Destination brand awareness). Nhận biết
thương hiệu được xem là sức mạnh về sự
hiện diện của một thương hiệu trong tâm trí
của khách hàng (Aaker, 1991). Theo Keller
(1993), nhận biết thương hiệu bao gồm 2
thành tố: gợi nhớ thương hiệu (Brand recall)
và đoán nhận thương hiệu (Brand
recognition). Gợi nhớ thương hiệu là khi
khách hàng nhìn thấy một loại sản phẩm, họ
có thể nhớ lại tên thương hiệu một cách
chính xác. Đoán nhận thương hiệu liên quan
đến khả năng của khách hàng nhận ra một
thương hiệu nào đó đã biết khi các gợi ý về
thương hiệu đó được đưa ra. Trong ngành du
lịch, nhận biết thương hiệu điểm đến được
định nghĩa là hình ảnh của điểm đến tồn tại
trong tâm trí của khách du lịch tiềm năng
(Konecnik & Gartner, 2007). Khi một điểm
đến du lịch muốn thành công, đầu tiên nó
phải giành lấy được sự nhận biết của du
khách (Milman & Pizam, 1995). Mục tiêu
của marketing điểm đến là nhằm mục đích
nâng cao nhận biết của một điểm đến bằng
cách tạo ra sự độc đáo thương hiệu (Jago &
cộng sự, 2003).
Hình ảnh thương hiệu điểm đến
(Destination brand image). Hình ảnh thương
hiệu được đề cập như là nhận thức lý tính
hoặc cảm tính của khách hàng dành cho một
thương hiệu nhất định (Keller, 2003). Trong
ngành du lịch, mặc dù hình ảnh thương hiệu
điểm đến (được nhiều tác giả gọi tắt là hình
ảnh điểm đến) được quan tâm nghiên cứu
rộng rãi, tuy vậy chưa có một khái niệm về
hình ảnh điểm nào là độc tôn và được chấp
nhận rộng rãi (Konecnik & Gartner, 2007).
Hình ảnh điểm đến có thể được xem là bất kỳ
điều điều gì liên kết trong tâm trí du khách về
những thuộc tính của một thành phố cụ thể
(Yuwo & cộng sự, 2013); là ấn tượng chung
mà một du khách đối với một điểm đến
(Rynes, 1991), nó có thể là một quốc gia,
một hòn đảo hay một thị trấn (Hall, 2000); là
một hệ thống tương tác của những suy nghĩ,
ý kiến, cảm xúc, hình ảnh trực quan và ý
định hướng tới một điểm đến (Tasci & cộng
sự, 2007). Theo Cai (2002), xây dựng hình
ảnh thương hiệu điểm đến là một thành phần
quan trọng quá trình hình thành mô hình tạo
dựng thương hiệu điểm đến.
Chất lượng cảm nhận điểm đến
(Destination perceived quality). Chất lượng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
78
cảm nhận là đánh giá chủ quan của khách
hàng về tổng thể sự hoàn hảo hoặc vượt trội
của một sản phẩm (Zeithaml, 1988). Kinh
nghiệm cá nhân, nhu cầu đặc biệt và các tình
huống tiêu dùng có thể ảnh hưởng đến đánh
giá chủ quan của khách hàng về chất lượng.
Chất lượng cảm nhận không đồng nhất với
chất lượng thực của sản phẩm. Chất lượng
cảm nhận dựa vào sự đánh giá của khách
hàng; trong khi đó, chất lượng thực của sản
phẩm được xác định trên cơ sở sản phẩm
hoặc định hướng sản xuất (Garvin, 1983).
Đối với ngành du lịch, chất lượng cảm nhận
điểm đến là một sự so sánh giữa cảm nhận
thực tế và sự mong đợi của du khách về chất
lượng dịch vụ của một điểm đến
(Myagmarsuren & Chen, 2011) và là yếu tố
then chốt ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng
của khách du lịch. Theo Konecnik & Gartner
(2007), chất lượng cảm nhận điểm đến là
đánh giá tổng thể của khách du lịch về một
điểm đến, hay đúng hơn là đánh giá về sự kết
hợp của các sản phẩm, dịch vụ cũng như
những trải nghiệm mà họ đã sử dụng và có
được tại điểm đến đó.
Trung thành thương hiệu điểm đến
(Destination brand loyalty). Trung thành
thương hiệu là một cam kết chắc chắn tiếp
tục mua lại một thương hiệu hoặc dịch vụ
yêu thích thường xuyên trong tương lai, dù
có những ảnh hưởng bởi tình huống và các
nỗ lực marketing có khả năng tạo ra hành vi
chuyển đổi (Oliver, 1999). Trung thành
thương hiệu thường được tiếp cận dưới hai
góc độ chính, đó là: (1) Thái độ: là sự cam
kết mà một khách hàng đã có với một thương
hiệu (Aaker, 1991), là xu hướng trung thành
với một thương hiệu tiêu điểm (focal brand)
được chứng minh bởi ý định mua thương
hiệu đó như là sự lựa chọn đầu tiên (Oliver,
1999); và (2) Hành vi: Mức độ mà một đơn
vị đã mua thương hiệu nào đó trong một đơn
vị thời gian (Javalgi & Moberg, 1997). Với
ngành du lịch, trung thành thương hiệu điểm
đến thể hiện mức độ gắn bó của du khách với
điểm đến cụ thể dưới dạng ý định thăm viếng
lại, cùng với mong muốn giới thiệu giới thiệu
điểm đến cho các du khách khác
(Myagmarsuren & Chen, 2011). Theo Back
& Parks (2003), trung thành thương hiệu
điểm đến được coi như là một hệ quả của các
thái độ nhận thức đa chiều hướng về một
thương hiệu điểm đến cụ thể.
2.3. Mối quan hệ giữa các khái niệm
nghiên cứu
2.3.1. Mối quan hệ giữa nhận biết thương
hiệu điểm đến, hình ảnh thương hiệu điểm
đến và chất lượng cảm nhận điểm đến
Trong ngành du lịch, nhận biết điểm
đến là một trong những chỉ số nhận thức
quan trọng của hành vi khách du lịch
(Woodside & Lysonski, 1989); và nhận thức
thương hiệu về một điểm đến càng cao sẽ
càng nâng cao hình ảnh thương hiệu điểm
đến (Pike & cộng sự, 2010). Trong nghiên
cứu của mình, Pike & cộng sự (2010) đã
dùng khái niệm nét nổi bật thương hiệu
(brand salience) để thay thế cho khái niệm
nhận biết thương hiệu, với nét nổi bật thương
hiệu là hình thức mở rộng của nhận biết
thương hiệu, nó đại diện cho sức mạnh về sự
nhận biết của một điểm đến). Konecnik
(2010) cho rằng có mối quan hệ giữa mối
quan hệ giữa nhận biết thương hiệu điểm đến
với hình ảnh thương hiệu điểm đến. Kết quả
nghiên cứu của Pike & cộng sự (2010) và
Myagmarsuren & Chen (2011) chứng minh
rằng nhận biết thương hiệu điểm đến có tác
động tích cực đến hình ảnh thương hiệu điểm
đến. Mặt khác, mặc dù trong cơ sở lý thuyết
về lĩnh vực du lịch, mối quan hệ giữa nhận
biết thương hiệu điểm đến và chất lượng cảm
nhận điểm đến chưa được phản ánh; tuy vậy
trong lý thuyết marketing, Keller (1993) chỉ
ra rằng nhận biết và liên tưởng thương hiệu
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
79
dẫn dắt sự cảm nhận của khách hàng về chất
lượng của một thương hiệu. Với các nghiên
cứu thực tiễn đối với điểm đến du lịch,
Myagmarsuren & Chen (2011) đã gợi ý rằng
cảm nhận về chất lượng đối với một thương
hiệu điểm đến có khả năng được tăng cường
bởi nhận biết thương hiệu điểm đến. Mối
quan hệ thuận chiều giữa nhận biết thương
hiệu điểm đến và chất lượng cảm nhận điểm
đến được khẳng định bởi các kết quả nghiên
cứu thực tế của Konecnik (2010); Pike &
cộng sự (2010). Tương tự, đối với mối quan
hệ giữa hình ảnh thương hiệu điểm đến và
chất lượng cảm nhận điểm đến; các nghiên
cứu cứu thực tế của Konecnik (2010);
Myagmarsuren & Chen (2011); Aliman
(2014) đã chứng minh có mối quan hệ trực
tiếp, tích cực giữa hai khái niệm này. Vì thế,
tác giả đề xuất:
H1: Nhận biết thương hiệu điểm đến
có ảnh hưởng tích cực đến hình ảnh thương
hiệu điểm đến.
H2: Nhận biết thương hiệu điểm đến
có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng cảm
nhận điểm đến.
H3: Hình ảnh thương hiệu điểm đến có
ảnh hưởng tích cực đến chất lượng cảm nhận
điểm đến.
2.3.2. Mối quan hệ giữa hình ảnh thương
hiệu điểm đến, chất lượng cảm nhận điểm
đến và trung thành thương hiệu điểm đến
Trong ngành du lịch, theo Chang &
Shin (2004), sự ảnh hưởng của hình ảnh
thương hiệu không chỉ giới hạn ở giai đoạn
lựa chọn điểm đến mà còn ảnh hưởng đến
hành vi của khách du lịch nói chung. Tương
tự, hình ảnh điểm đến có một tác động tích
cực đến các biến số hành vi cũng như trên
các biến đánh giá (Bigne & cộng sự, 2001).
Các kết quả kiểm định thực tế từ các nghiên
cứu của Boo & cộng sự (2009); Bianchi &
cộng sự (2010); Pike & cộng sự (2010);
Aliman (2014) đã khẳng định cho mối quan
hệ tích cực giữa hình ảnh thương hiệu điểm
đến và trung thành thương hiệu điểm đến.
Mặt khác, cơ sở lý thuyết đã chỉ ra có mối
quan hệ tích cực giữa chất lượng cảm nhận
và ý định sau khi mua (Keller & Lehman,
2003). Trong ngành du lịch, các kết quả
nghiên cứu thực tế đã chỉ ra mối quan hệ
thuận chiều giữa chất lượng cảm nhận điểm
đến và trung thành thương hiệu điểm đến như
nghiên cứu của Boo & cộng sự (2009); Pike
& cộng sự (2010). Trên cơ sở này, giả thuyết
sau được đề nghị nghiên cứu:
H4: Hình ảnh thương hiệu điểm đến có
ảnh hưởng tích cực đến trung thành thương
hiệu điểm đến.
H5: Chất lượng cảm nhận điểm đến có
ảnh hưởng tích cực đến trung thành thương
hiệu điểm đến.
2.3.3. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành
tài sản thương hiệu điểm đến và tài sản
thương hiệu điểm đến
Mô hình tài sản thương hiệu điểm đến
trong đề tài này gồm bốn thành phần, đó là:
nhận biết thương hiệu điểm đến, liên tưởng
thương hiệu điểm đến, chất lượng cảm nhận
điểm đến, và trung thành thương hiệu điểm
đến. Tài sản thương hiệu điểm đến (tài sản
thương hiệu điểm đến trong ngữ cảnh này
được hiểu là tài sản thương hiệu điểm đến
tổng thể) càng cao nghĩa là du khách càng có
sự nhận biết rõ; sự liên tưởng tích cực, mạnh
mẽ đến thương hiệu điểm đến; cũng như có
sự cảm nhận về một thương hiệu điểm đến có
chất lượng cao; đồng thời trung thành với
thương hiệu điểm đến đó (Srihadi & cộng sự,
2015). Nói cách khác, các yếu tố cấu thành sẽ
làm gia tăng tài sản thương hiệu điểm đến vì
từng yếu tố có sự ảnh hưởng tích cực đến tài
sản thương hiệu điểm đến. Dựa trên cơ sở
này, tác giả cho rằng:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
80
H6: Nhận biết thương hiệu điểm đến
có ảnh hưởng tích cực đến tài sản thương
hiệu điểm đến.
H7: Hình ảnh thương hiệu điểm đến có
ảnh hưởng tích cực đến tài sản thương hiệu
điểm đến.
H8: Chất lượng cảm nhận điểm đến có
ảnh hưởng tích cực đến tài sản thương hiệu
điểm đến.
H9: Trung thành thương hiệu điểm đến
có ảnh hưởng tích cực đến tài sản thương
hiệu điểm đến.
2.4. Mô hình đề nghị nghiên cứu
Dựa vào mối quan hệ giữa nhận biết
thương hiệu điểm đến, hình ảnh thương hiệu
điểm đến, chất lượng cảm nhận điểm đến,
trung thành thương hiệu điểm đến; và mối
quan hệ giữa các yếu tố này đến tài sản
thương hiệu điểm đến, mô hình đề nghị
nghiên cứu được thể hiện ở hình 1. Hơn nữa,
tác giả sử dụng và kế thừa thang đo từ các
nghiên cứu trước, cụ thể ở biểu 1.
Hình 1. Mô hình đề nghị nghiên cứu
Biểu 1. Thang đo
STT Thang đo
Số biến quan
sát
Nguồn
1 Nhận biết thương hiệu
điểm đến
4 Boo & cộng sự (2009)
2 Hình ảnh thương hiệu
điểm đến
4 Boo & cộng sự (2009)
3 Chất lượng cảm nhận
điểm đến
4 Boo & cộng sự (2009)
4 Trung thành thương hiệu
điểm đến
3 Kashif và cộng sự (2015)
5 Tài sản thương hiệu
điểm đến
3 Kashif và cộng sự (2015); Tong &
Hawley (2009)
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
81
3. Kết luận và hướng nghiên cứu tiếp theo
Tài sản thương hiệu là một khái niệm
quan trọng cho các tổ chức hiện đại và là chủ
đề học thuật rất được quan tâm trong những
năm gần đây. Dù có nhiều mô hình đo lường
tài sản thương hiệu, tuy vậy mô hình của
Aaker (1991) là một trong số những mô hình
được áp dụng khảo sát phổ biến vì nó thể
hiện sự đánh giá đầy đủ của khách hàng đối
với thương hiệu và đặc biệt nó có thể được
hiểu dễ dàng bởi khách hàng (Yoo & cộng
sự, 2000). Mô hình của Aaker (1991) không
những được áp dụng đối với sản phẩm mà đã
dần được khảo sát trong lĩnh vực du lịch, đặc
biệt là đối với điểm đến. Dựa trên cơ sở lý
thuyết và các kết quả nghiên cứu thực tế, bài
báo đã hình thành mô hình lý thuyết về mối
quan hệ giữa các yếu tố cấu thành tài sản
thương hiệu đối với điểm đến. Trong đó, (1)
nhận biết thương hiệu điểm đến có tác động
tích cực đến liên tưởng thương hiệu điểm đến
và chất lượng cảm nhận điểm đến; (2) liên
tưởng thương hiệu điểm đến có ảnh hưởng
thuận chiều đến chất lượng cảm nhận điểm
đến; (3) liên tưởng thương hiệu điểm đến và
chất lượng cảm nhận điểm đến đều có tác
động tích cực đến có trung thành thương hiệu
điểm đến; (4) các yếu tố cấu thành tài sản
thương hiệu điểm đến có ảnh hưởng tích cực
đến toàn bộ tài sản thương hiệu điểm đến.
Mô hình lý thuyết này có thể được xem là
một tài liệu tham khảo khi áp dụng khảo sát
mô hình tài sản thương hiệu đối với một
điểm đến cụ thể.
Nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc
xây dựng mô hình lý thuyết mối quan hệ giữa
các yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu đối
với điểm đến. Vì vậy, nghiên cứu này có
những hạn chế nhất định và trên những hạn
chế đó, bài báo gợi ý một số hướng cho các
nghiên cứu tương lai. Một là, đây là mô hình
lý thuyết chung, do đó có thể sẽ phải có
những điều chỉnh nhất định khi áp dụng cho
từng điểm đến riêng biệt đối với từng nhóm
du khách riêng biệt. Hai là, trên cơ sở các
khái niệm nghiên cứu, các nghiên cứu tương
lai cần xây dựng thang đo cho những khái
niệm này. Xây dựng thang đo có thể kế thừa,
hợp tuyển từ các nghiên cứu có trước, sau đó
tiến hành kiểm định để hình thành các thang
đo chính thức cho từng điểm đến cụ thể. Ba
là, kiểm định mô hình lý thuyết đề nghị này
đối với một điểm đến cụ thể, từ đó rút ra kết
quả để so sánh với kết quả từ các nghiên cứu
đi trước và với cơ sở lý thuyết. Đây cũng là
hướng đối với các nghiên cứu tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Aaker, D.A. (1991), Managing Brand Equity, Free Press, New York.
[2] Al-Azzam, A.F. (2013). Analysis of the antecedents of customer-based brand equity and
its application to multiple destinations, Journal of contemporary research in business,
5(5), 71-90.
[3] Aliman, N.K., Hashim, S.M., Wahid, S.D.M. & Harudin, S. (2014). The effects of
destination image on trip behavior: Evidences from Langkawi island, Malaysia, European
Journal of Business and Social Sciences, 3(3), 279-291.
[4] Back, K.J. & Parks, S.C. (2003). A brand loyalty model involving cognitive, affective, and
conative brand loyalty and customer satisfaction, Journal of Hospitality and Tourism
Research, 27(4), 419–435.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
82
[5] Baker, M.J. & Cameron, E. (2008). Critical success factors in destination marketing,
Tourism and Hospitality Research, 8(2), 79-97.
[6] Blain, C., Levy, S.E. & Ritchie, R.B. (2005). Destination branding: insights and practices
from destination management organizations, Journal of Travel Research, 43, 328–338.
[7] Bianchi, C. & Pike, S.D. (2011). Antecedents of destination brand loyalty for a long-haul
market: Australia’s destination loyalty among Chilean travelers, Journal of Travel &
Tourism Marketing, 28(7), 736-750.
[8] Bigne, J.E., Sanchez, M.L. & Sanchez, J. (2001). Tourism image, evaluation variables and
after purchase behaviour: inter-relationship, Tourism Management, 22, 607-616.
[9] Boo, S., Busser, J. & Baloglu, S. (2008). A model of customer-based brand equity and its
application to multiple destinations, Tourism Management,xxx, 1-13.
[10] Buhalis, D. (2000). Marketing the competitive destination of the future, Tourism
Management, 21, 97-116.
[11] Cai, L.A. (2002). Cooperative branding for rural destinations, Annals of Tourism
Research, 29(3), 720–742.
[12] Chang, K.H. & Shin, J.L. (2004). The relationship between destination cues of Asian
countries and Korean tourist images, Asia Pacific Journal of Marketing and Logistics,
16(2), 82-100.
[13] Cobb-Walgren, C.J., Beal, C. & Donthu, N. (1995). Brand equity, brand preferences, and
purchase intent, Journal of Advertising, 24 (3), 25-40.
[14] Cooper, C., Fletcher, J., Gilbert, D., Shepherd, R., & Wanhill, S. (1998). Tourism:
Principles and practices, England: Ad-dison-Wesley, Longman.
[15] Davis, S. (2002). Implementing your BAM strategy: 11 steps to making your brand a more
valuable business asset, Journal of Consumer Marketing, 19(6), 503-513.
[16] Farquhar, P.H., Han, J.Y. & Ijiri, Y. (1991). Recognizing and measuring brand assets
marketing science institute working paper series, Working Paper, Marketing Science
Institute, Cambridge, MA.
[17] Feldwick, P. (1996). What is brand equity anyway, and how do you measure it?, Journal
of the Market Research Society, 38 (2), 85-104.
[18] Garvin, D.A. (1983). Quality on the line, Harvard Business Review, 61, 65-73.
[19] Hall, C. M. (2000). Tourism Planning: Policies, Processes, Relationships, UK, Prentice
Hall.
[20] Jago, L., Chalip, L., Brown, G., Mules, T. & Ali, S. (2003). Building events into
destination branding: insights from experts, Event Management, 8(1), 3-14.
[21] Javalgi, R, G., & Moberg, C, R. (1997). Service loyalty: implications for service
providers, Journal of Services Marketing, 11(3), 165-179.
[22] Kashif, M., Samsi, S.Z.M. & Sarifuddin, S. (2015). Brand equity of Lahore Fort as a
tourism destination brand, Revista de Administração de Empresas, 55(4), 432-443.
[23] Keller, K.L. (1993). Conceptualizing, measuring, and managing customers-based brand
equity, Journal of marketing, 57(1), 1-22.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 4(01) - 2016
83
[24] Keller, K.L. (2003). Strategic brand management: building, managing, and measuring
brand equity, Pearson Education, Upper Saddle River, NJ.
[25] Kim, S. H., Han, H. S., Holland, S. & Byon, K.K. (2009). Structural relationships among
involvement, destination brand equity, satisfaction and destination visit intentions: The
case of Japanese outbound travellers, Journal of Vacation Marketing, 15, 349-365.
[26] Konecnik, M. & Gartner, W.C. (2007). Customer-based brand equity for a destination,
Annals of Tourism Research, 34(2), 400-421.
[27] Konecnik, M. (2010). Extending the tourism destination image concept into customer-
based brand equity for a tourism destination, Ekonomska istraživanja, 23(3), 24-42.
[28] Leiper, N. (1995), Tourism Management, Melbourne: RMIT Press.
[29] Milman, A. & Pizam, A. (1995). The role of awareness and familiarity with a destination:
The central Florida case, Journal of Travel Research, 33(3), 21-27.
[30] Myagmarsuren, O. & Chen, C. (2011). Exploring relationships between destination brand
equity, satisfaction, and destination loyalty: a case study of Mongolia, Journal of Tourism,
Hospitality & Culinary Arts, 3(2), 81-94.
[31] Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2008). Nghiên cứu khoa học marketing:
Ứng dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[32] Oliver, R.L. (1999). Whence consumer loyalty, Journal of Marketing, 63(4), 33-44.
[33] Pike, S., Bianchi, C., Kerr, G. & Patti, C. (2010). Consumer-based brand equity for
Australia as a long haul tourism destination in an emerging market, International
Marketing Review, 27(4).
[34] Prichard, A. & Morgan, N. (1998). Mood marketing: the new destination branding
strategy: a case study of Wales, the brand, Journal of Vacation Marketing, 4(3), 215–229.
[35] Ritchie, J.B.R. & Ritchie, R.J.B. (1998). The branding of tourism destination: Past
achievements and future trends, in destination marketing-scope and limitations, Reports of
48th Congress, AIEST, St-Gall, 89-116.
[36] Rynes, S.L. (1991). Recruitment, job choice, and post-hire consequences: A call for new
research directions, Handbook of Industrial and Organizational Psychology, 399-444.
[37] Srihadi, T.F., Hartoyo, Sukandar, D. & Soehadi, A.W. (2015). Brand equity model of
Jakarta as an international tourist destination, Interdisciplinary Behavior and Social
Sciences: Proceedings of the 3rd International Congress on Interdisciplinary Behavior
and Social Science, 421-425.
[38] Tasci, A.D.A., Gartner, W.C. & Cavusgil, S.T. (2007). Measurement of destination brand
bias using a quasi-experimental design, Tourism Management, 28(6), 1529–1540.
[39] Tong, X & Hawley, J. M. (2009). Measuring Customer Based Brand Equity: Empirical
Evidence from the Sports-wear Market in China, Journal of Product & Brand
Management, 18(4), 262-271.
[40] Winters, L.C. (1991). Brand equity measures: some recent advances, Marketing Research,
3(4), 70-73.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
84
[41] Woodside, A. & Lysonski, S. (1989). A general model of travel destination choice,
Journal of Travel Research, 27(4), 8-14.
[42] Yuwo, H., Ford, J.B. & Purwanegara, M.S. (2013). Customer based brand equity for a
tourism destination: The specific case of Bandung city, Indonesia, Organizations and
Markets in Emerging Economies, 4, 8-22.
[43] Zeithaml, V.A. (1988). Consumer perceptions of price, quality, and value: a means-end
model and synthesis of evidence, Journal of Marketing, 52, 2-22.
View publication stats
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_loi_the_canh_tranh_ben_vung_nghien_cuu_trong_linh_v.pdf