Yếu tố “Thể chế xã hội”. Thể chế là tập
hợp những quy tắc chính thức, các quy định
không chính thức hay những nhận thức
chung có tác động kìm hãm, định hướng
hoặc chi phối sự tương tác của các chủ thể
chính trị với nhau trong những lĩnh vực nhất
định. Các thể chế được tạo ra và đảm bảo
thực hiện bởi cả nhà nước và các tác nhân phi
nhà nước (như các tổ chức nghề nghiệp hoặc
các cơ quan kiểm định) (Geoffrey Hodgson,
2006). Có nhiều mối quan tâm của các công
ty đa quốc gia về tác động có hại của việc
định giá chuyển giao, Chính phủ và các cơ
quan thu thuế cho rằng giá chuyển giao có
thể là một công cụ tránh né thuế và trốn
tránh, điều này làm cho FDIEs có cơ hội
giảm thiểu trách nhiệm về thuế tại quốc gia
sở tại liên quan đến đầu tư của các công ty đa
quốc gia.
Yếu tố “Chính sách định giá chuyển giao
của FDIEs”. Các luồng hàng hoá và dịch vụ
giữa các đơn vị liên quan của một doanh
nghiệp đa quốc gia qua các nơi có chính sách
thuế khác nhau được gọi là thương mại giữa
các công ty và giá mà những dịch vụ và dịch
vụ này được chuyển giao được gọi là định
giá chuyển giao (Tang, R.Y.W., 1981). Do
đó, định giá chuyển giao là quá trình xác
định giá chuyển giao của hàng hoá trong một
thương mại trong nội bộ công ty (Tang,
R.Y.W., 1982). Việc không tuân thủ nguyên
tắc này có thể dẫn tới việc đánh thuế hai lần,
khi các cơ quan thuế từ cả hai phía đòi phải
đóng thuế lợi tức tạo ra để chia sẻ (Tang,
R.Y.W., 1993) để tránh điều này, các công ty
đa quốc gia đã đưa ra phương tiện để giảm
bớt nợ thuế thông qua việc vận dụng giá
chuyển nhượng nội bộ đối với các công ty
con (hoặc FDIEs) trong quá trình kinh doanh
tại các quốc gia tiếp nhậ
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng đã phân tích ý nghĩa và
các phương pháp cơ bản để xác định giá thị
trường trong giao dịch liên kết nhằm phục vụ
cho quá trình chống chuyển giá. Bên cạnh
đó, nhóm nghiên cứu tập trung tìm hiểu
những kinh nghiệm của các quốc gia trên thế
giới về vấn đề chống chuyển giá để từ đó có
thể tìm ra những bài học bổ ích, những ứng
dụng thực tiễn giúp hoàn thiện hơn nữa công
tác chống chuyển giá ở Việt Nam. Theo
Nguyễn Thị Liên Hoa (2003), cho rằng
Chính sách chuyển giá và chiến lược bán phá
giá tại các công ty có quan hệ liên kết, tác giả
đã chỉ ra các dấu hiệu nhận biết hoạt động
chuyển giá, những dấu hiệu vi phạm về chế
độ kế toán, thống kê và chỉ ra thế nào là có
mối quan hệ liên kết, theo tác giả là quan hệ
mà bên này trực tiếp hoặc gián tiếp điều
hành, kiểm soát, góp vốn, hoặc đầu tư vào
bên kia, hoặc trực tiếp, gián tiếp cùng chịu sự
điều hành, kiểm soát, góp vốn hoặc đầu tư
của một bên khác, hoặc cùng tham gia trực
tiếp, gián tiếp vào điều hành, kiểm soát, góp
vốn hoặc đầu tư vào một bên khác. Nguyễn
Thị Quỳnh Giang (2010), đã cho biết chuyển
giá là một trong những hình thức gian lận
thương mại khá tinh vi đã được áp dụng ở
nhiều tập đoàn đa quốc gia trên toàn thế giới
từ rất lâu và Việt Nam cũng không nằm trong
các quốc gia ngoại lệ. Theo Henry Fayol
(1949), “kiểm soát là việc kiểm tra để khẳng
định mọi việc có được thực hiện theo đúng
kế hoạch hoặc các chỉ dẫn và các nguyên tắc
đã được thiết lập hay không, từ đó chỉ ra các
yếu kém và các sai phạm cần phải điều
chỉnh, đồng thời ngăn ngừa chúng không
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
16
được phép tái diễn”. Gravelle, J.G. (2010)
cho rằng, tài sản vô hình rất khó xác định
đúng giá trị của nó (như tiền bản quyền, tiền
sở hữu trí tuệ) và cũng khó xác định giá của
chúng trong các DNLK. Trên thực tế,
Gruber, H. (2003) đã phát hiện ra nguy cơ
định giá chuyển giao trong việc xác định giá
tài sản vô hình. Các công ty có cơ hội lớn để
tham gia vào định giá chuyển giao thông qua
việc chuyển giao tài sản vô hình giữa các
doanh nghiệp liên kết có mức thuế khác
nhau. Theo Hatem Elsharawy (2006), mỗi
quốc gia có một cơ chế chính sách và pháp
luật khác nhau, do đó lãnh đạo doanh nghiệp
cần phải hiểu biết về pháp luật tại nước sở tại
trước khi tiếp nhận nhiệm vụ lãnh đạo tại
một quốc gia. Khi ban lãnh đạo có trình độ
cao, hiểu biết về pháp luật và có đạo đức
kinh doanh thì khả năng gian lận trong định
giá chuyển giao rất thấp và ngược lại nhận
thức và hiểu biết các quy định pháp luật của
Ban lãnh đạo cũng như kế toán trong doanh
nghiệp liên kết không cao thì khả năng gian
lận trong định giá chuyển giao rất lớn. Hatem
Elsharawy (2006) cho rằng môi trường pháp
lý cũng có ảnh hưởng đến các hoạt động định
giá chuyển giao. Các yếu tố từ nên kinh tế
đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh
hưởng đến các hoạt động định giá chuyển
giao quốc tế. Vì vậy, cần thiết nghiên cứu các
yếu tố của nền kinh tế ảnh hưởng đến định
giá chuyển giao trong các công ty đa quốc
gia. Đặc điểm về thị trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt, buộc doanh nghiệp phải sử
dụng công cụ tài chính phái sinh, để: (i) gia
tăng giá trị doanh nghiệp (Froot và cộng sự,
1993); (ii) giảm chi phí phá sản dự kiến và
tăng giá trị doanh nghiệp (Smith và Stulz,
1985); (iii) giảm nguy cơ rủi ro tiềm ẩn hoặc
quản lý rủi ro dự kiến; (iv) bù đắp những rủi
ro kinh doanh vốn có (Danthine, 1978); (v)
giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí vốn vay, ổn
định thu nhập. Do đó, sử dụng công cụ tài
chính phái sinh góp phần quản trị rủi ro và
kiểm soát nền kinh tế. Theo khái niệm bản
chất xã hội của kế toán (Davis và cộng sự,
1982), kế toán góp phần mang lại lợi ích cho
xã hội nhằm duy trì và phát triển bền vững xã
hội. Tuy nhiên, với sự bất đối xứng thông tin
kế toán sẽ dẫn đến sự kém phát triển của thị
trường tài chính hệ quả là ảnh hưởng đến các
thị trường còn lại. Ngoài ra, theo Young
(1996), chức năng kế toán là cung cấp thông
tin minh bạch cho thị trường hoạt động.
Quan điểm của Hopwood (1994) cho rằng
trong việc thiết lập các quy định, nguyên tắc,
chuẩn mực lại được thực hiện bởi nhu cầu
của thị trường trong đó bao gồm thị trường
vốn, thị trường hàng hóa, thị trường chứng
khoán... Theo Watts (2006), kế toán góp
phần trong quá trình định hướng thị trường.
Theo quan điểm này, việc tuân thủ các quy
định kế toán nhằm thực hiện công bố báo cáo
tài chính sẽ làm cân bằng các mục tiêu của
các đối tượng khác nhau, dựa vào các thị
trường khác nhau chẳng hạn như việc sử
dụng báo cáo tài chính cho các hợp đồng, đầu
tư, định giá Có thể dễ nhận diện nhân tố
thị trường là nhân tố có ảnh hưởng đến kế
toán tài chính, giữa hàng hóa – kế toán và
nhân tố thị trường có mối quan hệ tương
quan cùng chiều. Như vậy, một thị trường
cạnh tranh hoàn hảo và hoạt động hiệu quả
với đầy đủ thông tin về giá cả, chất lượng sẽ
làm tăng khả năng áp dụng kế toán công cụ
tài chính phái sinh và ngược lại. Thị trường
sẽ phân bổ vốn và phòng ngừa rủi ro hiệu
quả trong điều kiện thông tin kế toán hoàn
hảo. Do đó, kế toán tài chính đóng vai trò
quan trọng để đảm bảo các thông tin có liên
quan và đáng tin cậy được công bố (Merino
và Neimark, 1982). Nhân tố pháp lý là cơ sở
không thể thiếu để mô tả, đánh giá, phân tích,
góp phần thúc đẩy thông tin kế toán khách
quan, minh bạch. Nhà nước đóng vai trò
quan trọng trong việc giảm thiểu sự bất đối
xứng thông tin thông qua quá trình thiết lập,
ban hành các quy định về kế toán, về chính
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
17
sách kinh tế, trong đó, kế toán có sự tương
tác với quy định mang tính pháp lý trong nền
kinh tế thị trường. Theo quan điểm của
Gipper và cộng sự (2013), nhân tố pháp lý có
ảnh hưởng đáng kể đến chuẩn mực kế toán
được thiết lập, ban hành và thực hiện. Ảnh
hưởng pháp lý xảy ra khi có sự thay đổi các
quy định từ các cơ quan ban hành có nghĩa là
một quy định pháp lý được ban hành phải đạt
được mục tiêu, phù hợp với chính sách kinh
tế, xã hội và các nguyên tắc kế toán (Kothari
và cộng sự, 2010). Các cơ quan ban hành các
quy định pháp lý phải đảm bảo mang lại lợi
ích xã hội, hoàn thiện sự thất bại thị trường
(Posner, 1974). Mặc khác, thông tin kế toán
là thông tin dễ sai lệch bởi tính chủ quan của
người lập, hoặc do động cơ hay mục đích của
nhà quản trị trong việc công bố thông tin do
đó để đảm bảo lợi ích xã hội, nhà nước tập
trung vào việc ban hành tất cả các quy định
liên quan đến kế toán nhằm đạt được thông
tin kế toán tốt nhất, đáp ứng nhu cầu thông
tin cho tất cả các thành phần kinh tế, đồng
thời giảm thiểu thông tin bất bối xứng. Hoạt
động của doanh nghiệp đặt trong cộng đồng
và xã hội có nghĩa là hoạt động của doanh
nghiệp này có thể ảnh hưởng đến hoạt động
của doanh nghiệp khác trong mối quan hệ
kinh tế - xã hội, cần phải có các quy định
mang tính pháp lý, nhằm đảm bảo lợi ích
kinh tế cho toàn xã hội. Do đó, kế toán được
đặt trong một khuôn khổ mang tính quy
chuẩn. Điều này cho thấy giữa kế toán và
nhân tố pháp lý có mối quan hệ tương quan
cùng chiều trong việc kiểm soát chính sách
định giá chuyển giao của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên tắc kế
toán, chuẩn mực kế toán là một phần của một
quá trình định hướng thị trường (Watts,
2006). Trong doanh nghiệp, nhà quản trị là
người ra quyết định kinh tế, tổ chức, quản lý
các hoạt động trong đơn vị không thể tách rời
bộ máy kế toán. Do đó, kế toán phải được
kiểm tra, giám sát thông qua các quy định
hơn là để cho nhà quản trị tự do lựa chọn
cách thức thực hiện kế toán hoặc tự do thực
hiện báo cáo kế toán quản trị. Làm thế nào để
thiết lập các quy định về chuẩn mực, chính
sách kế toán đã khó mà khi thực hiện, áp
dụng lại càng khó hơn? Theo Peltzman
(1976), các doanh nghiệp phải tuân thủ các
quy định kế toán mang tính bắt buộc thực
hiện, nhưng lại được chủ động lựa chọn
chính sách kế toán theo hướng có lợi nhất
cho công ty. Kết quả phần tổng quan nghiên
cứu, giúp cho tác giả xác định được lỗ hổng
trong nghiên cứu là chính sách định giả
chuyển giao của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài không hẳn là hành vi trốn thuế
của doanh nghiệp mà còn là kỹ thuật để bảo
toàn vốn đầu tư và lợi ích của các cổ đông,
do vậy các nhân tố như thuế, lạm phát, giáo
dục, văn hoá, tỷ giá, thể chế xã hội, môi
trường sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến
chính sách định giá chuyển giao của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Lý thuyết nền liên quan
Lý thuyết thông tin bất cân xứng
(Asymmetric information theory), dựa theo
quy luật về sự cân bằng giữa cung và cầu
trong kinh tế học vi mô cổ điển dựa trên giả
định cơ bản là tất cả các bên tham gia giao
dịch mua hay bán hàng hóa và dịch vụ đều
chia sẻ những thông tin như nhau trong quá
trình ra quyết định kinh tế, tức là không có
người bán nào có thể có hiểu biết nhiều hơn
về những đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ so
với những người mua, đồng thời không có
người mua nào có thể có hiểu biết nhiều hơn
về chi phí sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch
vụ so với những người bán (Stiglitz, The
contributions of the economics of
information to twentieth century economics,
2000; Stiglitz & Walsh, Economics, 2006;
Bernheim & Whinston, 2014). Tuy nhiên
thực tế lại cho thấy thị trường thông thường
vận động không trên cơ sở giả định này,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
18
nghĩa là trong một giao dịch, thường sẽ có
một bên có hiểu biết (thông tin) nhiều hơn về
đặc điểm của hàng hóa/dịch vụ được trao đổi
và do đó có thể sẽ có lợi thế khi thực hiện
giao dịch so với bên còn lại, đó chính là tình
trạng thông tin bất cân xứng (Akerlof, 1970).
Sự lựa chọn bất lợi là hiện tượng trong đó
bên có thông tin về đặc điểm của hàng hóa,
dịch vụ được trao đổi luôn sẵn sàng hơn
trong giao dịch nếu như giao dịch đó gây bất
lợi cho bên không có thông tin bởi vì thông
tin ẩn giấu (Akerlof, 1970). Rủi ro đạo đức
xảy ra khi một bên tham gia giao dịch thực
hiện những hành động mà các bên còn lại
không thể quan sát được, làm ảnh hưởng đến
lợi ích của các bên còn lại trong giao dịch đó
(Holmstrom, 1979; Stiglitz, The
contributions of the economics of
information to twentieth century economics,
2000; Stiglitz, Information and the Change in
the Paradigm in Economics, 2002). Các nhà
kinh tế học cho rằng cả hai hiện tượng sự lựa
chọn bất lợi và rủi ro đạo đức đều là những
thất bại của thị trường, và những thất bại này
có thể và cần được khắc phục trên cơ sở giảm
mức độ bất cân xứng thông tin giữa các bên
tham gia giao dịch (Stiglitz & Walsh,
Economics, 2006). Theo Spence (1973) đề
xướng giải pháp nhằm giảm hậu quả của
thông tin bất cân xứng theo hướng lựa chọn
bất lợi bằng cách bên có nhiều thông tin về
đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ trao đổi có
thể chủ động thực hiện những hoạt động tốn
kém (costly activity) – được gọi là phát tín
hiệu (signaling) – nhằm thuyết phục các bên
thiếu thông tin còn lại về chất lượng của
hàng hóa, dịch vụ; ngược lại (Stiglitz, The
Theory of ''Screening,'' Education, and the
Distribution of Income, 1975) đề nghị rằng
bên thiếu thông tin về đặc điểm của hàng
hóa/dịch vụ có thể chủ động thực hiện những
thử nghiệm trong đó yêu cầu bên có nhiều
thông tin tự phân loại – được gọi là sàng lọc
(screening) – và qua đó bộc lộ những hiểu
biết của mình về đặc điểm của hàng hóa/dịch
vụ. Tóm lại, vận dụng lý thuyết thông tin bất
cân xứng trong mô hình nghiên cứu nhằm
diễn giải cho nhân tố môi trường văn hoá; và
nhân tố thể chế xã hội thông qua nguồn thông
tin bất cân xứng xuất phát từ (i) mức độ về
kiến thức, hiểu biết, chuyên môn khác nhau,
dẫn đến kết quả kiểm tra của những người
thực thi chính sách thuế cũng sẽ khác nhau;
hoặc có thể (ii) lợi ích nhóm, thông qua hành
vi của nhà quản trị và người kế toán viên, từ
đó sẽ can thiệp vào hệ thống kế toán sao cho
có lợi nhất cho mục tiêu của mình, vì vậy
cũng ảnh hưởng đến chính sách định giá
chuyển giao tại các FDIEs.
Lý thuyết tín hiệu được sử dụng rộng rãi
làm nền tảng cho các nghiên cứu giải thích
cách thức mà những người quản lý cấp cao
nhất của các doanh nghiệp truyền đạt thông
tin về chất lượng hay giá trị của doanh
nghiệp đến nhà đầu tư bằng cách phát tín
hiệu thông qua hoạt động thua lỗ mà vẫn gia
tăng đầu tư, chính sách về cổ tức, công bố
thông tin tự nguyện, hoặc lựa chọn doanh
nghiệp kiểm toán uy tín để kiểm toán báo cáo
tài chính (Riley, J.G., 2001). Lý thuyết tín
hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành cơ chế công bố thông tin của các doanh
nghiệp. Thông tin kế toán không được doanh
nghiệp trình bày đầy đủ trên báo cáo tài
chính, hoặc có thể thông tin mà doanh nghiệp
trình bày và công bố không đảm bảo chất
lượng cho các đối tượng sử dụng, được xử lý
dưới dạng chi phí đầu vào hay khấu hao tài
sản cố định khi góp vốn ban đầu. Mặt khác,
động cơ của nhà quản trị trong việc công bố
thông tin, bởi vì nhà quản trị có lợi nhất về
thông tin có nghĩa là nhà quản trị là đối
tượng cung cấp thông tin, độc quyền trong
việc cung cấp thông tin. Do đó, nhà quản trị
sẽ cung cấp thông tin ra bên ngoài có lợi nhất
cho bản thân nhà quản trị và cho doanh
nghiệp, nên việc định giá chuyển giao nội bộ
sẽ được áp dụng. Tóm lại, vận dụng lý thuyết
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
19
tín hiệu trong mô hình nghiên cứu nhằm diễn
giải cho nhân tố chính sách thuế; nhân tố môi
trường văn hoá; và nhân tố môi trường pháp
lý thông qua nguồn thông tin cung cấp cho
các bên hữu quan để có cơ sở nhận biết được
chính sách định giá chuyển giao trong
FDIEs.
Lý thuyết ủy nhiệm hay lý thuyết đại diện
(Agency Theory) được đề xuất bởi (Jensen,
M. C., & Meckling, W. H., 1976) về mối liên
hệ đại diện đề cập về mối liên hệ dưới dạng
hợp đồng giữa hai, hoặc nhiều bên trong đó
một hoặc nhiều người được gọi là bên ủy
nhiệm thuê một hoặc nhiều người khác được
gọi là bên được ủy nhiệm thay mặt bên ủy
nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ và được
phép thực hiện các quyết định liên quan đến
các nhiệm vụ đó (Jensen, M. C., & Meckling,
W. H., 1976); (Watts & Zimmerman, 1983)
và (Adams, 1994), (Ross, 1973). Lý thuyết
ủy nhiệm đặt trên giả định căn bản là, trong
một mối liên hệ đại diện, lợi ích của bên ủy
nhiệm và bên đại diện có sự bất đồng và cả
hai bên đều mong muốn tối đa hóa lợi ích của
mình (Jensen, M. C., & Meckling, W. H.,
1976) đề cập rằng trong một công ty cổ phần
thì chính sự tách biệt giữa người chủ sở hữu
và người quản lý, điều hành công ty làm hình
thành mối liên hệ đại diện trong đó bên ủy
nhiệm chính là các cổ đông còn bên đại diện
chính là Ban giám đốc. Người đại diện được
trao một số quyền quản lý nhất định đối với
nguồn lực nhằm phục vụ lợi ích của chủ sở
hữu. Do đó, trong một thể chế xã hội không
minh bạch, với chính sách giáo dục không
khai phóng và nhân bản, khả năng sử dụng
các loại chi phí ngầm để đảm bảo lợi ích cho
FDIEs là không thể nào tránh khỏi.
Trong các công ty hiện đại ngày nay, với
những đặc trưng như chịu ảnh hưởng của
cuộc cách mạng thông tin (Elliott R. K.,
1992), xu hướng toàn cầu hóa và sự gia tăng
mức độ phức tạp trong cấu trúc tổ chức của
các công ty (Davenport, 2000); (Motiwalla &
Thompson, 2009), Ban Giám đốc không chỉ
là đại diện cho lợi ích của cổ đông mà được
coi là đại diện cho lợi ích của nhiều bên liên
quan khác nữa như người cho vay, nhân viên,
khách hàng, nhà cung cấp và chính phủ
(Hill,C.W. & Jones, T.M. 1992). Lý thuyết
các bên liên quan giúp đáp ứng nhu cầu về
thông tin tin cậy được cung cấp liên tục hoặc
theo thời gian thực của các bên liên quan của
doanh nghiệp bao gồm thông tin tài chính và
thông tin phi tài chính chẳng hạn như về tình
hình tuân thủ các quy định pháp lý hoặc tính
tin cậy của các quá trình xử lý giao dịch nội
bộ của FDIEs bao gồm chính sách thuế,
chính sách tỷ giá hay tỷ lệ lạm phát của đồng
nội tệ.
Các lý thuyết về chấp nhận và khuếch tán
đổi mới nghiên cứu về những nhân tố ảnh
hưởng đến sự chấp nhận (thực sự sử dụng)
một sự đổi mới và cách thức một sự đổi mới
được khuếch tán (được sử dụng rộng rãi)
trong xã hội hay nền kinh tế. Một sự đổi mới
được hiểu là một ý tưởng, cách thức thực
hiện, hoặc một đối tượng được nhận thức là
mới bởi một cá nhân, một nhóm cá nhân hay
một tổ chức (Rogers, 1983). Đối với các
doanh nghiệp, một sự đổi mới, do đó, có thể
là việc thực hiện một sản phẩm mới hoặc
được cải tiến đáng kể, hoặc là việc thực hiện
một phương thức marketing mới, một
phương pháp tổ chức mới trong hoạt động
kinh doanh, tổ chức nơi làm việc hoặc trong
mối quan hệ với đối tác bên ngoài” (OECD,
2005). Các lý thuyết này xây dựng các mô
hình về sự chấp nhận và khuếch tán đổi mới
dựa trên hai quan điểm là quan điểm xã hội
học và quan điểm kinh tế học (Hall, 2004).
Theo Hall (2004) cho rằng mặc dù được phát
triển dựa trên các quan điểm khác nhau,
nhưng các lý thuyết về chấp nhận và khuếch
tán đổi mới có thể được sử dụng kết hợp với
nhau nhằm cung cấp một nền tảng khoa học
và toàn diện để giải thích sự chấp nhận đối
với sự đổi mới cũng như tốc độ của sự chấp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
20
nhận (rate of adoption) một sự đổi mới trong
xã hội hay nền kinh tế. Các lý thuyết về chấp
nhận và khuếch tán đổi mới đặc biệt thích
hợp để giải thích sự phát triển của chính sách
định giá chuyển giao nội bộ trong các công ty
có mối quan hệ liên kết, nhất là FDIEs. Thật
vậy, theo quan điểm xã hội học về sự chấp
nhận và khuếch tán đổi mới được trình bày
trong quyển sách nổi tiếng có nhan đề “Sự
khuếch tán Đổi mới” (Diffusion of
Innovations) của nhà nghiên cứu Everett M.
Rogers xuất bản lần đầu năm 1962 và tái bản
đến lần thứ năm vào năm 2003 (Rogers,
2003), theo đó, ở cấp độ cá nhân, có năm
nhân tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận đổi mới
bao gồm (i) Lợi thế tương đối (relative
advantage) của sự đổi mới; (ii) Tính tương
thích (compatibility) của sự đổi mới với công
nghệ hiện tại hoặc quy chuẩn xã hội; (iii)
Mức độ phức tạp (complexity) của sự đổi
mới; (iv) Tính dễ thử nghiệm (trialability)
đối với sự đổi mới; và (v) Tính có thể quan
sát (observability) nhằm đánh giá kết quả thử
nghiệm, các nhân tố này có liên quan đến
chính sách định giá chuyển giao của FDIEs.
Rogers (2003) cũng chỉ ra rằng trong trường
hợp những công nghệ mới được áp dụng
trong các doanh nghiệp thì công nghệ mới đó
cần được chấp nhận ở cấp độ tổ chức trước
khi có thể diễn ra sự chấp nhận ở cấp độ cá
nhân, những nhân tố ảnh hưởng đến sự chấp
nhận đổi mới ở cấp độ tổ chức bao gồm: (1)
Các đặc điểm cá nhân về thái độ của Ban
Giám đốc đối với sự thay đổi; (2) Các đặc
điểm nội bộ về cấu trúc của doanh nghiệp
như mức độ tập trung (centralization), mức
độ phức tạp (complexity), mức độ chuẩn hóa
(formalization) của các quy trình xử lý kinh
doanh, mức độ liên kết nội bộ
(interconnectedness), nguồn lực nhàn rỗi của
doanh nghiệp (organizational slack), quy mô
(size) thể hiện thông qua số lượng nhân viên
của doanh nghiệp; và (3) Các đặc điểm bên
ngoài của doanh nghiệp như độ mở của hệ
thống (system openness) (Rogers, 2003).
Rogers (2003) cũng minh chứng thông qua
các nghiên cứu trường hợp rằng nhiều điều
kiện bên ngoài hoặc xã hội có ảnh hưởng quá
trình khuếch tán đổi mới như: Các quyết định
chấp nhận đổi mới được đưa ra bởi các cá
nhân hoặc bởi một cơ quan có thẩm quyền
tập trung (central authority); Kênh truyền
thông được sử dụng để thu thập các thông tin
về sự đổi mới; Bản chất của hệ thống xã hội,
các quy chuẩn xã hội và mức độ liên kết giữa
các cá nhân; và Phạm vi các hoạt động của
các tác nhân thúc đẩy đổi mới (các công ty
quảng cáo, các tổ chức hỗ trợ phát triển,).
Mô hình dựa trên quan điểm kinh tế học về
sự chấp nhận và khuếch tán đổi mới, trái lại,
không tập trung vào nhân tố môi trường bên
ngoài và hành vi tổ chức như trên, mà được
xây dựng trên cơ sở cho rằng sự chấp nhận
và quá trình khuếch tán đổi mới là kết quả
của hàng loạt các quyết định cá nhân dựa trên
sự so sánh giữa lợi ích của công nghệ mới
với chi phí phải bỏ ra để thay đổi sang công
nghệ mới, trong điều kiện môi trường bất
định và thông tin bị hạn chế (Hall & Khan,
2003); (Hall, 2004). Một luận điểm đáng chú
ý theo quan điểm của các nhà kinh tế học đó
là, khi xuất hiện một sự đổi mới, các quyết
định về chấp nhận đổi mới không phải là sự
lựa chọn giữa chấp nhận hay không chấp
nhận sự đổi mới đó, mà chỉ là chấp nhận sự
đổi mới ngay hoặc trì hoãn việc ra quyết định
chấp nhận đến một thời điểm về sau (Hall &
Khan, 2003). Theo quan điểm kinh tế học,
quá trình chấp nhận và khuếch tán đổi mới
chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố bao
gồm: Các nhân tố cầu đối với sự đổi mới,
gồm có các nhân tố kinh tế như lợi ích nhận
được của sự đổi mới, chi phí để chấp nhận sự
đổi mới, và các nhân tố phi kinh tế như năng
lực của nhân viên, hiệu ứng mạng lưới
(network effects), sự cam kết và mối quan hệ
với khách hàng; Các nhân tố cung đối với sự
đổi mới, gồm có sự cải tiến đối với công
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
21
nghệ mới, sự đào tạo và hướng dẫn về công
nghệ mới bởi các công ty sản xuất, cung ứng
công nghệ mới; và Các nhân tố về môi
trường và thể chế, gồm có quy mô và cấu
trúc của thị trường, quy mô doanh nghiệp,
các tiêu chuẩn ngành nghề kinh doanh, các
quy định của pháp luật (Hall & Khan, 2003).
Theo lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp
(Wernerfelt, 1984), tập trung phân tích: (i)
nguồn lực hữu hình như nguồn lực về tài
chính đó là nguồn vốn góp của chủ sở hữu và
nguồn tài trợ; (ii) nguồn lực vô hình có thể là
kiến thức, kỹ năng của nhà quản trị, nhân
viên... Cùng với lý thuyết nguồn lực doanh
nghiệp còn có lý thuyết quản trị doanh
nghiệp, nhằm thiết lập mối quan hệ giữa nhà
quản trị, cổ đông và các bên liên quan nhằm
thực hiện mục tiêu chung của tổ chức, thông
qua các phương tiện giám sát, kiểm soát.
Tính hiệu quả của việc kiểm soát, kiểm tra
được biểu hiện thông qua chất lượng thông
tin được công bố trong báo cáo tài chính làm
gia tăng mối quan tâm giữa các bên và làm
cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế (John,
1992). Lý thuyết này giúp giải thích nguồn
lực doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến chính
sách định giá chuyển giao nội bộ trong
FDIEs khi môi trường văn hoá, môi trường
pháp lý hoặc chính sách thuế, chính sách tỷ
giá trực tiếp tác động đến nguồn lực doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Theo Posner (1974), bản thân lý thuyết
lập quy kinh tế ra đời nhằm mục đích kiểm
soát về mặt pháp lý mang tính thủ tục hành
chính và các khía cạnh khác thuộc hoạt động
kinh tế. Lý thuyết lập quy kinh tế ra đời trên
cơ sở của: (i) lý thuyết lợi ích xã hội (public
interest theory), và (ii) lý thuyết nhóm lợi ích
(capture theory). Bản chất của lý thuyết lợi
ích xã hội cho rằng nhằm đáp ứng nhu cầu
của xã hội, điều chỉnh sự thất bại của thị
trường, do đó các quy định cần thiết lập
thông qua sự can thiệp của nhà nước vào các
thị trường. Lý thuyết nhóm lợi ích ra đời
trong điều kiện bản thân các tổ chức lập quy
cũng không độc lập hoặc không công bằng
trong quá trình lập quy, dẫn đến các quy định
được thiết lập theo yêu cầu của các nhóm lợi
ích trong xã hội, đồng thời có sự can thiệp
của chính phủ trong việc bảo vệ các tập đoàn
kinh tế, dẫn đến bất bình đẳng trong hoạt
động của thị trường tự do. Tóm lại, lý thuyết
lập quy kinh tế đề cập đến các quy định của
nhà nước tác động vào thị trường hoạt động
và quy định về những chính sách kế toán góp
phần cải thiện thông tin kế toán cho thị
trường hoạt động, giúp doanh nghiệp áp dụng
chính sách định giá chuyển giao nội bộ liên
quan đến môi trường văn hoá, môi trường
pháp lý, và thể chế xã hội.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Giả thiết mô hình:
Giả thuyết (H1): Chính sách thuế của
nước nhận đầu tư có tương quan đến chính
sách định giá chuyển giao của FDIEs.
Giả thuyết (H2): Tỷ lệ lạm phát của nước
nhận đầu tư có tương quan đến chính sách
định giá chuyển giao của FDIEs.
Giả thuyết (H3): Chính sách tỷ giá của
nước nhận đầu tư có tương quan đến chính
sách định giá chuyển giao của FDIEs.
Giả thuyết (H4): Chính sách giáo dục của
nước nhận đầu tư có tương quan đến chính
sách định giá chuyển giao của FDIEs.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
22
Giả thuyết (H5): Môi trường văn hóa của
nước nhận đầu tư có tương quan đến chính
sách định giá chuyển giao FDIEs.
Giả thuyết (H6): Môi trường pháp luật
của nước nhận đầu tư có tương quan đến
chính sách định giá chuyển giao của FDIEs.
Giả thuyết (H7): Các quy định về thể chế
của nước nhận đầu tư có tương quan đến
chính sách định giá chuyển giao của FDIEs.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính, bao gồm (i) Phương pháp tiếp cận
hệ thống được sử dụng nhằm tìm hiểu các
nghiên cứu trong và ngoài nước, các tài liệu
hướng dẫn của các Tổ chức/ Hiệp hội/ Viện
có uy tín và chuyên nghiệp về kế toán, tài
chính, đặc biệt là các công trình nghiên cứu
đã được công bố dưới dạng sách, luận văn,
luận án, bài báo đăng trên các tạp chí khoa
học, . có liên quan đến vấn đề định giá
chuyển giao, giá trị hợp lý khi xác định tài
sản, về hoạt động của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, nghiên cứu
các lý thuyết nền có liên quan, kinh nghiệm
trong việc quản lý chính sách định giá
chuyển giao tại các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài để có cơ sở đề xuất mô hình
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chính
sách định giá chuyển giao tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. (ii) Phương pháp tổng hợp, phân tích
và so sánh nhằm giúp tìm hiểu sự khác biệt
trong việc tìm kiếm các yếu tố ảnh hưởng
đến chính sách định giá chuyển giao tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
đồng thời, trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt
động định giá chuyển giao tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. (iii) Phỏng
vấn chuyên gia được sử dụng với mục đích
chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách
định giá chuyển giao của các công ty có mối
quan hệ liên kết (chủ yếu là các công ty có
vốn đầu tư nước ngoài), cụ thể là trao đổi với
TS. Phan Hiển Minh, GS. TS. Nguyễn Đông
Phong tại buổi hội thảo về chuyển giá do
trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh và
trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức vào
ngày 9/10/2017 sau khi tôi trình bày tham
luận.
5. Kết quả nghiên cứu
Trên quan điểm kế thừa các nghiên cứu
trước, cả trong và ngoài nước, sau khi xác
định được lỗ hổng trong nghiên cứu, tác giả
đưa ra mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến
chính sách định giá chuyển giao của FDIEs ở
Việt Nam, cụ thể:
Yếu tố “Chính sách thuế”. Thuế là một
trong những công cụ hữu hiệu nhất của nhà
nước để thực hiện chức năng điều tiết, quản
lý nền kinh tế vĩ mô. Thu nhập từ thuế là
quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào vì nó
cho phép chính phủ nước phục vụ phúc lợi xã
hội của người dân (Shulman, J.S.,1966). Tuy
nhiên, hầu hết các nước đang phát triển
không huy động đủ số thuế, trong đó có
FDIEs, thông qua giá chuyển nhượng của các
công ty đa quốc gia để thực hiện chính sách
định giá chuyển giao nhằm tối thiểu hoá số
thuế phải nộp (Greene, J. and M.G.
Duerr,1970). Đối với các quốc gia đang phát
triển, các quy định về định giá chuyển giao là
cần thiết để tạo ra một môi trường chắc chắn
cho trao đổi quốc tế, đồng thời đảm bảo
không mất nguồn thu từ thuế (Shulman,
J.S.,1966).
Yếu tố “lạm phát”. Lạm phát là một trong
ba yếu tố bên ngoài, bao gồm tỷ giá hối đoái,
lãi suất, và lạm phát, có ảnh hưởng đến các
công ty đa quốc gia và thị trường của họ, các
biến này tương quan với nhau. Sự tăng lên
của mức giá chung mới chỉ phản ánh biểu
hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát
được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó,
đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài,
chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian
này đến thời gian khác mới tạo ra những tác
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
23
động đặc thù của lạm phát (Ken Milani PhD.,
CPA, And Juan Rivera PhD., CPA 2004). Do
vậy, trong nhiều trường hợp các công ty đa
quốc gia phải thiết lập một chính sách định
giá chuyển giao, bảo toàn sức mua của tiền
mặt nghĩa là biến đổi rủi ro ngoại tệ làm cho
các luồng tiền mặt đó được dịch chuyển ra
khỏi đồng tiền của nước siêu lạm phát.
Yếu tố “Chính sách tỷ giá”. Chính sách tỷ
giá là tập hợp các biện pháp sử dụng tỷ giá
như một công cụ để thực hiện các mục tiêu
kinh tế đã đề ra, là cách thức mà chính phủ
hoặc ngân hàng trung ương sử dụng để tác
động vào nội tệ và can thiệp vào thị trường
ngoại hối (Canri Chan; Steven P. Landry;
Terrance Jalbert, 2000). Trong nền kinh tế thị
trường động cơ hoạch định chính sách là
những mục tiêu cân đối bên trong và bên
ngoài, trong khi đó tỷ giá hối đoái lại là một
yếu tố có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến
chính sách định giá chuyển giao. Đồng thời,
trong nghiên cứu đã chỉ ra việc các công ty
đa quốc gia lựa chọn chính sách định giá
chuyển giao khi có vấn đề thông tin không
cân đối tồn tại giữa công ty mẹ và các công
ty con nước ngoài, sự không đối xứng thông
tin, có thể cung cấp một cái nhìn sâu sắc tiềm
ẩn trong việc ra quyết định chuyển đổi khi
đối mặt với tỷ giá hối đoái bất ổn trong
những nền kinh tế có liên quan.
Yếu tố “Chính sách giáo dục”. Giáo dục
ngày càng đóng vai trò quan trọng, giáo dục
là động lực đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa
nền kinh tế thế, là yếu tố chủ lực cho quá
trình đi lên của nền kinh tế tri thức, giáo dục
còn đóng vai trò quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế, góp phần giữ gìn bản sắc dân
tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Theo cách hiểu hạn hẹp, giáo dục là một quá
trình được tổ chức một cách có mục đích, có
kế hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những
kinh nghiệm xã hội của loài người. Theo
cách hiểu rộng hơn, giáo dục là một quá trình
bao gồm tất cả các hoạt động hướng vào sự
phát triển và rèn luyện năng lực bao gồm tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất như niềm
tin, đạo đức, thái độ ở con người để có thể
phát triển nhân cách đầy đủ và trở nên có giá
trị tích cực đối với xã hội. Từ kết quả nghiên
cứu đã được tìm hiểu và tổng hợp, chính sách
giáo dục có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn
lao động và tác động nhất định đến việc thu
hút đầu tư. Theo kết quả được công
bố, Edmund Malesky (2014), đó là chi phí
lao động; ưu đãi về thuế, đất đai đầu tư; ổn
định chính trị; chất lượng lao động; chi phí
nguồn nguyên liệu, dịch vụ trung gian; sức
mua của người tiêu dùng; sự sẵn có của
nguồn nguyên liệu; quy mô thị trường nội
địa; sự sẵn có của các khu công nghiệp; ổn
định kinh tế vĩ mô.
Yếu tố “Môi trường văn hóa”. Văn hoá
quy định những quy cách ứng xử được chấp
nhận trong xã hội và mang tính nguyên tắc
phải tuân theo. Văn hoá, có thể được định
nghĩa theo nhiều cách khác nhau, song một
định nghĩa được chấp nhận, văn hoá là tập
hợp các giá trị và tín ngưỡng truyền thống
được lưu truyền và san sẻ trong một xã hội
đã có từ trước, văn hoá còn là tổng thể các
cách thức sống và cách suy nghĩ được truyền
lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, văn hoá
bao gồm rất nhiều điều của con người bởi vì
khái niệm này chứa đựng các quy tắc, giá trị,
phong tục, nghệ thuật và nhiều hơn thế
(Shaefer, T. Richard, 2003). Vì vậy, doanh
nghiệp phải cân nhắc sự khác nhau giữa
những nhóm dân tộc và xã hội để dự đoán,
điều hành các mối quan hệ và hoạt động của
mình (Shaefer, T. Richard, 2003). Chính thị
hiếu và tập quán của người tiêu dùng mang
đặc điểm riêng của từng vùng, từng châu lục,
từng dân tộc và chịu ảnh hưởng của các yếu
tố văn hoá, lịch sử (Macionis, J. Jonhn,
1987).
Yếu tố “Môi trường pháp luật”. Môi
trường pháp luật cho hoạt động kinh doanh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
24
bao gồm những quy định pháp luật trong các
văn bản và hiệu quả hoạt động tổ chức thực
hiện các quy định pháp luật thông qua hoạt
động của công chức, cơ quan nhà nước.
Chuyển giá đã được các nhà hoạch định
chính sách tài chính Việt Nam xác định là
một vấn đề cần được quan tâm quản lý khi
mà ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu
chuyển giá trong giao dịch có yếu tố nước
ngoài (Lê Văn Sua, 2015). Như vậy có thể
thấy rằng môi trường pháp luật của nước sở
tại có tác động rõ ràng đến việc định giá
chuyển giao của doanh nghiệp. Ở Việt Nam,
vì môi trường pháp luật chưa thật rõ ràng về
định giá chuyển giao nên các doanh nghiệp
sẽ áp dụng những thủ thuật để làm sao cho có
lợi nhất.
Yếu tố “Thể chế xã hội”. Thể chế là tập
hợp những quy tắc chính thức, các quy định
không chính thức hay những nhận thức
chung có tác động kìm hãm, định hướng
hoặc chi phối sự tương tác của các chủ thể
chính trị với nhau trong những lĩnh vực nhất
định. Các thể chế được tạo ra và đảm bảo
thực hiện bởi cả nhà nước và các tác nhân phi
nhà nước (như các tổ chức nghề nghiệp hoặc
các cơ quan kiểm định) (Geoffrey Hodgson,
2006). Có nhiều mối quan tâm của các công
ty đa quốc gia về tác động có hại của việc
định giá chuyển giao, Chính phủ và các cơ
quan thu thuế cho rằng giá chuyển giao có
thể là một công cụ tránh né thuế và trốn
tránh, điều này làm cho FDIEs có cơ hội
giảm thiểu trách nhiệm về thuế tại quốc gia
sở tại liên quan đến đầu tư của các công ty đa
quốc gia.
Yếu tố “Chính sách định giá chuyển giao
của FDIEs”. Các luồng hàng hoá và dịch vụ
giữa các đơn vị liên quan của một doanh
nghiệp đa quốc gia qua các nơi có chính sách
thuế khác nhau được gọi là thương mại giữa
các công ty và giá mà những dịch vụ và dịch
vụ này được chuyển giao được gọi là định
giá chuyển giao (Tang, R.Y.W., 1981). Do
đó, định giá chuyển giao là quá trình xác
định giá chuyển giao của hàng hoá trong một
thương mại trong nội bộ công ty (Tang,
R.Y.W., 1982). Việc không tuân thủ nguyên
tắc này có thể dẫn tới việc đánh thuế hai lần,
khi các cơ quan thuế từ cả hai phía đòi phải
đóng thuế lợi tức tạo ra để chia sẻ (Tang,
R.Y.W., 1993) để tránh điều này, các công ty
đa quốc gia đã đưa ra phương tiện để giảm
bớt nợ thuế thông qua việc vận dụng giá
chuyển nhượng nội bộ đối với các công ty
con (hoặc FDIEs) trong quá trình kinh doanh
tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư.
6. Kết luận
Những thành quả kinh tế mà FDIEs mang
lại cho Việt Nam đã làm thay đổi diện mạo
của nền công nghiệp nước nhà, nhưng làn
sóng đầu tư này cũng đang khiến cho Việt
Nam nhận về những hệ lụy không nhỏ cho
môi trường kinh doanh và cho cả nền kinh tế
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả đã cố
gắng đưa ra mô hình nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng đến chính sách định giá chuyển
giao của các FDIEs, để có một góc nhìn
khách quan hơn trong việc tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi cũng như kiểm soát
được các hành vi gian lận của những FDIEs.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adams, M. B. (1994). Agency theory and the internal audit. Managerial Auditing Journal, 9(8),
8-12.
Atul Dua (2005), Tranfer Pricing-Atax: Corporate and Securities Perspective, IPBA Journal, số
40, tr.22.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
25
Anh Vũ (2015), Bóc trần thủ đoạn định giá chuyển giao của Metro Việt Nam,
554476.html.
Burns, J. (1980): Transfer Pricing in U. S. Multinational Corporations, Journal of International
Business Studies, 11(2): 23-39.
Bộ Tài Chính, Thông tư số 117/2005/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường
trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết.
Bộ Tài Chính, Thông tư số 13/2001/TT-BTC hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các
hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Bộ Tài Chính, Thông tư số 201/2013/TT-BTC hướng dẫn việc áp dụng thỏa thuận trước về
phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế.
Bộ Tài Chính, Thông tư số 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường
trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Bộ Tài Chính, Thông tư số
74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Bộ Tài Chính, Thông tư số 89/1999/TT-BTC hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các
hình thức đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Canri Chan; Steven P. Landry; Terrance Jalbert (2000): Effects of Exchange Rates On
International Transfer Pricing Decisions.
Chính phủ (2016), Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về Quản lý thuế đối với doanh
nghiệp có giao dịch liên kết ban hành ngày 24/2/2017.
Danthine, J. P., (1978). Information, futures prices, and stabilizing speculation. Journal of
Economic Theory, 17 (1), 79-98.
Davis, S. W, Menon, K., Morgan, G., (1982). The images that have shaped accounting theory.
Accounting, Organizations and Society, 7(4), 307-318.
Davenport, T. H. (2000). The Future of Enterprise System-Enabled Organizations. Information
Systems Frontiers, 2(2), 163-180.
Đoàn Thanh Nga & Tạ Thu Trang (2017): “Nâng cao khả năng áp dụng cơ chế thỏa thuận trước
về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) tại Việt Nam” Hội thảo khoa học tổ chức tại
trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày
05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-604-89-1299-4.
Elliott, R. K. (1992). The Third Wave Breaks on the Shores of Accounting. Accounting
Horizons, 6(2), 61-85.
Elliott, R. K. (1994b). Confronting the future: Choices for the attest function. Accounting
Horizons, 8(3), 106-124.
Elliott, R. K. (1995). The Future of Assurance Services: Implications for Academia.
Accounting Horizons, 9(4), 118-127.
Elliott, R. K. (1997). Assurance Service Opportunities: Implications for Academia. Accounting
Horizons, 11(4), 61-74.
Elliott, R. K. (2002). Twenty-first century assurance. Auditing: A Journal of Practice & Theory,
21(1), 139-146.
Edmund Malesky (2014): Mười kết quả chú ý từ việc điều tra PCI-FDI và hiệp định TPP. Đại
học Duke
Froot, K., Scharfstein, D., Stein, J., (1993). Risk management: coordinating corporate
investment and financing policies. The Journal of Finance, 48 (5), 1629-1658.
Greene, J. and M.G. Duerr (1970): Intercompany Transactions in the Multinational Firm, New
York: The Conference Board.
Gipper, B., Lombardi, B. J., Skinner D. J., (2013). The politics of accounting standard-setting:
A review of empirical research. Australian Journal of Management, 38(3) 523–551.
Gravelle, J.G. (2010), Tax Havens: International Tax Avoidance and Evasion, CRS Report for
Congres, CRS Washington DC.
Gruber, H. (2003), Intangible income, Intercompany transactions, income shifting and the
choice of location, National Tax Journal 56 (1, Part 2), 221-242.
Geoffrey Hodgson (2006) “What Are Institutions?” Journal of Economic Issues, XL:1, 1-25.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
26
Hatem Elsharawy (2006), Developing Controlling and Performance Evaluation of
Multinational Companies Operating in Egypt, Gottingen University, Egypt.
Hall, B. H. (2004). Innovation and Diffusion. Trong J. Fagerberg, D. C. Mowery, & R. R.
Nelson (Các biên tâp̣ viên), The Oxford Handbook of Innovation (trang 459-484). Oxford:
Oxford University Press.
Hall, B. H., & Khan, B. (2003). Adoption of New Technology. Berkley: University of
California Working Papers No: E03-330 (May).
Henry Fayol (1949), General and Industrial Management, Pitman Publishing, New York.
Hill, C. W., & Jones, T. M. (1992). Stakeholder-Agency Theory. Journal of Management
Studies, 29(2), 131-154.
Hopwood, A. G., (1994). Some reflections on “The harmonization of accounting within the
EU’’. The European Accounting Review, 3(2), 241–253.
Huỳnh Thị Xuân Thùy (2013), “Giải pháp vận dụng giá trị hợp lý để thực hiện đo lường các
khoản đầu tư chứng khoán tại các Công ty cổ phần niêm yết trên sở giao dịch chứng
khoán TP.Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
John, J. F., 1992. Corporate Governance and Disclosure Quality. Accounting and Business
Research, 22(86), 111-124.
Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976). Theory of the firm: Managerial behavior, agency
costs, and ownership structure. Journal of Financial Economics, 3(4), 305-360.
Johnson, W. A. & R. J. Kirsch (1991) International Transfer Pricing and Decision Making in
United States Multinationals, International Journal of Management, June, 8(2): 554- 561.
Kothari S. P., Ramanna K., Skinner D. J., (2010). Implications for GAAP from an analysis of
positive research in accounting. Journal of Accounting & Economics, 50, 246–286.
Ken Milani PhD., CPA, And Juan Rivera PhD., CPA (2004): The Rigorous Business of
Budgeting for International Operations (Effects of Inflation in the Transfer Pricing).
Lê Thị Kim Dương (2013), “Vận dụng giá trị hợp lý để trình bày thông tin trên BCTC của các
doanh nghiệp Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
Lê Thị Mộng Loan (2013), “Giá trị hợp lý ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa độ tin cậy và thích
hợp các thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
Lê Văn Sua (2015), Cơ sở pháp lý chống định giá chuyển giao và vấn đề hoàn thiện pháp luật
về chống định giá chuyển giao ở Việt Nam,
cuutrao-doi.aspx?ItemID=1896
Motiwalla, L. F., & Thompson, J. (2009). Enterprise Systems for Management (1st ed.). Upper
Saddle River, New Jersey: Pearson Education, Inc.
Merino, B. D., Neimark, M. D., (1982). Disclosure regulation and public policy: A
sociohistorical appraisal. Journal of Accounting and Public Policy, 1(1), 33–57.
Macionis, J. Jonhn (1987): Xã hội học - Nhà xuất bản Thống kê.
Nguyễn Thị Mai Anh (2017): “Bản chất và đặc điểm hoạt động chuyển giá trong các doanh
nghiệp”. Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã số ĐKXB:
3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày 05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-604-89-
1299-4.
Mai Phương (2017), Chống định giá chuyển giao vẫn khó,
gia-van-kho-492678-492678.html.
Ngô Thị Thùy Trang (2012), “Phương hướng và giải pháp vận dụng giá trị hợp lý trong kế toán
doanh nghiệp Việt Nam”
Nguyễn Hữu Ánh, Nguyễn Thị Phương Hoa, Nguyễn Thị Hồng Thúy (2016), Định giá chuyển
giao và kiểm soát định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, NXB Đại học
Kinh tế quốc dân.
Ngọc Ánh (2013), Phát hiện nhiều vụ định giá chuyển giao tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (FDI) ở Bình Dương, CAND online ngày 12/3/2013 (
com.vn/ vi-VN/kinhte/2013/3/193886.cand)
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
27
Nguyễn Thị Quỳnh Giang (2010), “Chuyển giá trong các công ty đa quốc gia ở Việt Nam”
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Liên Hoa (2003): “Vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam” Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số đề tài nghiên cứu: CS-2004-14.
Nguyễn Thị Mỹ (2017): “Chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Thực
trạng và Giải pháp”. Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã
số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày 05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-
604-89-1299-4.
Ngô Quang Trung (2015): Vấn đề định giá chuyển giao của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, Viện Chính sách Nghiên cứu & Phát triển.
Nguyễn Xuân Trường, Trần Lâm Thảo My và Nguyễn Dạ Thảo (2017) “Kinh nghiệm chống
chuyển giá của một số nước Châu á và bài học cho Việt Nam”. Hội thảo khoa học tổ chức
tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Mã số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp
ngày 05 tháng 10 năm 2017 và ISBN: 978-604-89-1299-4.
Nguyễn Thanh Tùng (2014), “Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng giá trị hợp lý
trong kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế
TP.Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Đức Dũng, Nguyễn Thị Liên Hoa (2000a): “Các biện pháp chống
chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TP HCM” Đề tài nghiên cứu
khoa học, Sở khoa học công nghệ môi trường TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Đức Dũng, Nguyễn Thị Liên Hoa (2000b) “Vấn đề chuyển giá tại
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh.” Tài liệu tham
khảo. Nhà xuất bản tài chính năm 2000.
Nguyễn Văn Trình & Phan Đức Dũng (2005) “Chi phí nghiên cứu phát triển của các công ty đa
quốc gia trong chính sách định giá chuyển giao” Tạp chí phát triển kinh tế số 171,
01/2005.
OECD. (2005). Oslo Manual: Guidelines For Collecting And Interpreting Innovation Data (lần
xuất bản 3rd). Paris: OECD and Eurostat.
OECD (2010), Transfer Pricing Guidelines for Multinational Enterprises and Tax
Administration.
Peltzman S., (1976). Toward a more general theory of regulation. Journal of Law &
Economics, 19, 211–240.
Posner, R. A., (1974). Theories of economic regulation. NBER Working paper series.
Phan Thị Thành Dương (2012) Pháp luật về kiểm soát định giá chuyển giao ở Việt Nam (Law
on control of transfer pricing in Vietnam).
Phan Đức Dũng (1998): “Chính sách chuyển giá của các Công ty đa quốc gia,” Thời báo tài
chính Việt Nam, Số 9 (Số 43) 15/9/1998.
Phan Đức Dũng (2004): “Thông tư 128/2003/TT-BTC và vấn đề kế toán chênh lệch tỷ giá” Tạp
chí kế toán, Số 47 (4/2004) 15/4/2004
Phan Đức Dũng (2017): “Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp là xu hướng tất yếu trong bối
cảnh hội nhập quốc tế khi Việt Nam là thành viên hợp tác kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)” Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Thủ
Dầu Một, ngày 14/4/2017
Phương Hà (2015): Chống định giá chuyển giao, cần hơn một đội đặc nhiệm, Enternews.
Phạm Huyền (2013), Phi vụ định giá chuyển giao ngàn tỷ bậc nhất của Keangnam,
Phạm Huyền (2013), Vô địch định giá chuyển giao trắng trợn hơn cả Keangnam
Phan Hiển Minh & Phan Trần Trung Quang (2017): “Phân tích và đánh giá tính minh bạch,
hiệu quả và bền vững của các chính sách và hoạt động kiểm soát chuyển giá hiện tại của
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
28
các cơ quan quản lý nhà nước” Hội thảo khoa học tổ chức tại trường Đại học Kinh tế
TP.HCM. Mã số ĐKXB: 3417-2017/CXBIPH/51-70/HĐ cấp ngày 05 tháng 10 năm 2017
và ISBN: 978-604-89-1299-4.
Riley, J. G. (2001). Silver Signals: Twenty-Five Years of Screening and Signaling. Journal of
Economic Literature, 39(2), 432–478.
Rogers, E. M. (1983). Diffusion of Innovations (3rd ed.). New York: The Free Press.
Rogers, E. M. (2003). Diffusion of Innovations (lần xuất bản 5th). New York: The Free Press.
Ross, S. A. (1973). The Economic of Theory of Agency: The Principal's Problem. American
Economic Review, 63(2), 134-139.
Smith, C., Stulz, R., 1985. The determinants of firms’ hedging policies. The Journal of
Financial and Quantitative Analysis, 20 (4), 391-405.
Shulman, J.S. (1966): Transfer Pricing in Multinational Business, unpublished DBA Thesis,
Harvard University.
Stigler, G. J., 1971. The Theory of Economic Regulation. The Bell Journal of Economics and
Management Science, 2(1), 3-21
Stiglitz, J. E. (1975). The Theory of ''Screening,'' Education, and the Distribution of Income.
The American Economic Review, 65(3), 283-300.
Stiglitz, J. E. (2000). The contributions of the economics of information to twentieth century
economics. Quarterly Journal of Economics, 115(4), 1441-1478.
Stiglitz, J. E. (2002). Information and the Change in the Paradigm in Economics. The American
Economic Review, 92(3), 460-501.
Stiglitz, J. E., & Walsh, C. E. (2006). Economics (4th ed.). New York: W. W. Norton &
Company.
Shaefer, T. Richard (2003): Xã hội học - Nhà xuất bản Thống kê.
Tang, R.Y.W. and Chan, K.H. (1979): Environmental Variables of International Transfer
Pricing: A Japan-United States Comparison, Abacus, June, 5: 3-12.
Tang, R.Y.W. (1981): Multinational Transfer Pricing: Canadian and British Perspectives,
Toronto: Butterworths and Co. Ltd.
Tang, R.Y.W. (1982): Environmental Variables of Multinational Transfer Pricing, Journal of
Business Finance and Accounting, 9(2): 179-89.
Tang, R.Y.W. (1993) Transfer Pricing in the 1990’s: Tax and Management Perspectives,
Westport: Quorum Books.
Trần Thị Phương Thanh (2012), “Các giải pháp mang tính định hướng cho việc xác lập khung
pháp lý về giá trị hợp lý áp dụng trong hệ thống kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam”
Võ Thành Hiệu và Phan Đức Dũng (1998) “Đầu tư liên doanh với nước ngoài – Những vấn đề
đặt ra,” Thời báo Tài chính Việt Nam, Số 5 (Số 39) 15/5/1998.
Vũ Ngọc Nhung & Phan Đức Dũng (1998) “Sử dụng lạm phát như một phương thuốc giúp tăng
trưởng kinh tế,” TT kinh tế ngân hàng, Số 10/98 ngày 15/10/1998.
Watts, R. L, 2006. What has the invisible hand achieved? Accounting and Business Research,
36, 51–61.
Wernerfelt, B., 1984. A resource-based view of the firm. Stragic Management Journal, 5(2),
171-180.
Watts, R. L., & Zimmerman, J. L. (1983). Agency Problems, Auditing, and the Theory of the
Firm: Some Evidence. Journal of Law and Economics, 26(3), 613-633.
Young, J. J., 1996. Institutional thinking: the case of financial instruments. Accounting
Organizations and Society, 21(5), 487–512.
Yunkers, P.J. (1983): A Survey Study of Subsidiary Autonomy, Performance Evaluation and
Transfer Pricing in Multinational Corporations, Columbia Journal of World Business, Fall,
19: 51-64.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_mo_hinh_cac_yeu_to_anh_huong_den_chinh_sach_dinh_gi.pdf