Xây dựng mô hình phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo tại Việt Nam

- Sắp xếp thứ tự ưu tiên các dự án trong tương lai dựa trên những vấn đề cần thiết nhất - Cải thiện công tác quy hoạch, phát triển và quản lý dự án - Đảm bảo mọi thành phần xã hội (kể cả người dân tộc thiểu số, thanh niên và phụ nữ) đều có thể hưởng lợi từ CBT - Cải thiện công tác xây dựng chính sách - Nâng cao sự tin cậy của các nhà tài trợ - Nâng cao tính tập trung của hoạt động hỗ trợ - Nâng cao sự hiểu biết của các thành phần liên quan về du lịch bền vững Cần áp dụng Bốn nhóm tiêu chí (bình đẳng giới, giảm nghèo, kinh doanh bền vững, và phát triển năng lực địa phương) để xây dựng và đánh giá mô hình phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo. Nó cho các đối tượng liên quan đến việc tài trợ, lập kế hoạch hoặc quản lý một dự án du lịch cộng đồng như: nhà chức trách địa phương, các nhà hoạch định du lịch, các nhà tư vấn phát triển, cơ quan tài trợ, các nhóm cộng đồng và vì sự phát triển ngành du lịch Việt Nam trong tương lai.

pdf12 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 719 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng mô hình phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90 XÂY DỰNG MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG VÌ NGƯỜI NGHÈO TẠI VIỆT NAM Nguyễn Văn Hóa* TÓM TẮT Ngành du lịch là một trong những dịch vụ xuất khẩu chủ yếu với lợi thế so sánh mạnh mẽ và giá trị của nó đã được chứng minh trong cuộc chiến chống đói nghèo. Đây là ngành quan trọng giúp cho sự phát triển và thịnh vượng trong một nước đang phát triển để xoá đói giảm nghèo. Ngành du lịch chịu trách nhiệm phát triển và phải tìm cách tận dụng các mô hình nâng cao khả năng cạnh tranh với các lợi thế của nó. Du lịch cộng đồng (CBT) nhằm vào mục tiêu thu hút sự tham gia của người dân địa phương vào việc vận hành và quản lý các dự án du lịch nhỏ như là một phương tiện giảm nghèo và mang lại thu nhập cho cộng đồng. Các sáng kiến CBT còn khuyến khích tôn trọng các truyền thống và văn hóa địa phương cũng như các di sản thiên nhiên. CBT là mội loại hình du lịch mang tính bền vững thúc đẩy các chiến lược vì người nghèo trong môi trường cộng đồng. SET UP THE COMMUNITY- BASED TOURISM MODEL TO REDUCE POVERTY IN VIETNAM SUMMARY Tourism is among the major exporting services with strong comparable advantages as its values have bean proved in the war against poverty and starvation. This is an important business field for the development and prosperity of a developing country against poverty and starvation. The tourism is responsible to develop and apply models to enhance the competing abilities regarding its advantages. CBT is supposed to attract the attention of local people to execute and manage small tourism projects as a method to reduce the poor and bring income to the community. CBT ideas also encourage to respect the local culture and traditions as well as the natural heritages. CBT is a stable tourism model which takes effect on projects against poverty and starvation in the community. Trong Hội nghị Thượng đỉnh toàn cầu về nghèo đói, cộng đồng trên thế giới đã cam kết tăng cường năng lực của các nước đang phát triển để giảm mức độ nghèo đói và cạnh tranh trong thị trường thế giới. Các nước G8 và các quốc gia công nghiệp hóa, cũng như Tổ chức Liên Hợp Quốc và tổ chức Breton Woods, Ngân hàng Thế giới và hệ thống Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cam kết triển khai thực hiện các chương trình phát triển vào năm 2015. Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu tại Bali- Indonesia của Liên Hợp Quốc đã đặt nền tảng cho một khuôn khổ mới là chuyển đổi sang một nền kinh tế ít Carbon hơn bằng cách triệt để giảm phát thải khí nhà kính vào năm 2020. Kết quả của Hội nghị, các nước đã bắt đầu quá trình đàm phán về chế độ giảm tải khí nhà kính hậu Kyoto vào năm 2012. Điều này cuối cùng sẽ đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động quan trọng của con người cho tất cả các lĩnh vực, bao gồm các phương pháp tiếp cận để cạnh tranh. * TS. Trưởng khoa Thương mại-Du lịch, trường Đại học Công nghiệp Tp.HCM Tạp chí Đại học Công nghiệp 91 Biến đổi khí hậu là một thách thức toàn cầu và cộng đồng thế giới đã đồng ý cam kết, song song cam kết với các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Tại các nước nghèo nhất thế giới và các nước mới nổi, ngành du lịch là một trong những dịch vụ xuất khẩu chủ yếu với lợi thế so sánh mạnh mẽ và giá trị của nó đã được chứng minh trong cuộc chiến chống đói nghèo. Ngành du lịch chịu trách nhiệm phát triển và phải tìm cách tận dụng các mô hình nâng cao khả năng cạnh tranh với các lợi thế của nó. 1. MỘT SỐ KẾT QUẢ GIẢM NGHÈO VIỆT NAM ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC Việt Nam, đất nước chịu đựng sự tàn phá suốt thời gian dài của chiến tranh và hàng chục năm trong thời kỳ bao cấp nghèo khổ. Tuy nhiên, Việt Nam đã về đích sớm trong việc thực hiện mục tiêu đầu tiên về xoá nghèo trong 8 mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ với việc giảm tỷ lệ người nghèo trong dân cư từ 58,1% năm 1993 xuống còn 9,45% trong năm 2010. Đại sứ Bùi Thế Giang, Phó trưởng Phái đoàn Đại diện thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã nêu rõ, chính sách xoá đói giảm nghèo của Việt Nam không chỉ giúp tăng thu nhập cho người nghèo mà còn giúp họ cải thiện sinh kế và tiếp cận các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, hoà nhập xã hội Các biện pháp thực hiện giảm nghèo của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra khá đa dạng như: - Mục tiêu Quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải là hỗ trợ xây dựng nhà mới cho 500 ngàn hộ nghèo giai đoạn 2008- 2012. Trong năm 2010 thực hiện hỗ trợ được 190 ngàn hộ, có 9 tỉnh và thành phố đã hoàn thành chương trình xây nhà mới cho người nghèo, về đích trước kế hoạch 2 năm là các tỉnh Ninh Bình, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Lào Cai, Lâm Đồng, Phú Thọ, Thái Nguyên, Đắc Lắc, Đắc Nông. Trong 2 năm qua, nguồn vốn trung ương huy động cho chương trình là 8.275 tỷ đồng, địa phương là 464 tỷ đồng, nguồn vốn khác là 1700 tỷ đồng. Năm 2010, toàn tỉnh Long An có 30 cơ sở dạy nghề, đã đào tạo nghề cho 19.027 lao động, tổ chức 310 lớp dạy nghề cho lao động nông thôn, người tàn tật và người nghèo, với 8.677 học viên. - Hội Chữ thập đỏ thành phố Hồ Chí Minh cho biết, cơ quan này vừa chi hơn 220 tỷ đồng cho các hoạt động nhân đạo, cứu trợ các cá nhân có hoàn cảnh khó khăn và đối tượng chính sách. - Các mô hình Tổ phụ nữ tiết kiệm, Tổ phụ nữ tình thương, Tổ phụ nữ tín dụng- tiết kiệm theo hướng dẫn của T.Ư Hội, Tổ phụ nữ làm kinh tế, Câu lạc bộ nuôi trồng thuỷ sản, Câu lạc bộ V.A.C tiếp tục duy trì và phát triển có hiệu quả. Qua đó đã tạo được thói quen tiết kiệm cho phụ nữ, mặt khác tạo được sự gắn bó, tương trợ giúp nhau trong tổ nhóm. 2. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG VÌ NGƯỜI NGHÈO TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2002 VÀ HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 2.1. Định hướng và mô hình phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo tại Việt Nam đến năm 2020 và hướng đến 2030 Những nhân tố tác động trực tiếp đến ngành du lịch, dẫn đến việc hình thành xu thế phát triển của ngành Du lịch trong tương lai như thế nào? Xu hướng đó là: a. Du lịch vẫn là một ngành thương mại lớn. Tuy nhiên, du lịch đại chúng vẫn sẽ phát triển. Du lịch theo nhóm được đặt chỗ trước sẽ ngày càng giảm, các kỳ nghỉ cá nhân được đặt ngẫu nhiên sẽ ngày càng tăng. Các yếu tố văn hóa truyền thống bản địa sẽ được pha trộn với các dịch vụ hiện đại theo yêu cầu của từng cá nhân cũng là đòi hỏi trong tương lai. b. Bên cạnh đó, con người ngày càng mong muốn hiểu biết hơn về cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, con người đi du lịch xuất hiện từ nhu cầu các mối liên hệ cá nhân hay nhu cầu Xây dựng mô hình phát triển du lịch 92 được nghỉ ngơi cùng với gia đình và bạn bè. Những người độc thân đi du lịch vì muốn gặp gỡ, hẹn hò và tìm bạn lứa đôi. c. Khi xã hội ngày càng trở nên phức tạp, con người bắt đầu thể hiện sự hứng thú với những nền văn hoá khác. Con người phát triển nhân cách thông qua việc khám phá các nền văn hóa bên ngoài và các loại hình nghệ thuật nơi đến. Do vậy, du lịch là một cách thức hữu hiệu giúp con người tìm hiểu, giao lưu với các nền văn hóa bên ngoài. Bên cạnh đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng, sự hỗ trợ của các phương tiện giao thông mới, thu nhập tăng khiến du lịch trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Dự báo khách du lịch quốc tế và nội địa của du lịch Việt Nam đến năm 2030. (Báo cáo của Viện nghiên cứu Phát triển du lịch, Tổng cục Du lịch Việt Nam) Định hướng phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2020 và 2030 chủ yếu là phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch MICE. Trong các sản phẩm du lịch chủ đạo vẫn dựa vào: - Tập quán, truyền thống và lối sống của đồng bào các dân tộc. - Các làng nghề sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống và độc đáo: Bát Tràng, làng làm nón (Chuông, Hà Tây), làng dệt lụa Vạn Phúc (Hà Tây), làng đúc đá Ngũ Hành Sơn,... khôi phục và phát triển các làng nghề thành các điểm du lịch. - Du lịch sinh thái tại các rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, vùng núi phía Bắc, Tây nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long; phát triển du lịch sinh thái biển Nơi để phát triển các sản phẩm chủ đạo trên là những vùng mà đa số có tài nguyên còn hoang sơ và đời sống người dân còn nghèo 2.2. Một số khái niệm liên quan đến phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo Ngày 10/2/2011, tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York, Uỷ ban Phát triển xã hội Liên Hợp Quốc đã tiến hành phiên họp khoá 49 với chủ đề “Xóa nghèo, mối quan hệ qua lại giữa hòa nhập xã hội với việc làm đầy đủ và tốt đẹp cho mọi người” . Theo tinh thần của Phiên họp thì ngành du lịch của các nước chậm phát triển và đang nổi cần phát triển du lịch cộng đồng nhằm xóa đói giảm nghèo. Các chỉ tiêu/năm 2010* 2015 2020 2030 Tổng số khách quốc tế vào VN: - Lượt khách (ngàn) 4.800 8.000 12.000 19.500 - Ngày lưu trú trung bình 7,0 7,3 7,5 8,0 - Tổng số ngày khách (ngàn) 33.600 58.400 90.000 156.000 Tổng số khách du lịch nội địa: - Lượt khách (ngàn) 22.000 32.000 45.000 70.000 - Ngày lưu trú trung bình 4,4 5,4 6,0 6,5 - Tổng số ngày khách (ngàn) 96.800 172.800 270.000 455.000 Tổng số lao động du lịch trực tiếp (ngàn) 420 1.600 2.200 3.000 Tạp chí Đại học Công nghiệp 93 2.2.1. Nghèo là gì? Các Mục tiêu Thiên niên Kỷ 21 của Liên Hợp Quốc định nghĩa cực nghèo là sinh sống với mức thu nhập ít hơn 1 đô la Mỹ một ngày. Nghèo được định nghĩa là những người không có khả năng tiếp cận những điều kiện sống được xã hội chấp nhận. Thuật ngữ “những điều kiện sống được xã hội chấp nhận” kết hợp giữa các nhu cầu thiết yếu như: thu nhập, lương thực, trang phục và nơi ở với các lợi ích về sinh lý và xã hội như y tế, dinh dưỡng, giáo dục và cơ hội việc làm. Tuyệt đối nghèo là thiếu khả năng tiếp cận các nhu cầu thiết yếu đối với sự sinh tồn của con người. Tương đối nghèo là so sánh giữa điều kiện sống của những người thuộc bộ phận thấp thấp trong dân cư với những người thuộc tầng lớp cao nhất. Thủ tướng vừa ký quyết định ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011-2015. Theo đó, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (6 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 - 520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 - 650.000 đồng/người/tháng. Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính sách an sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2011. Trước đó, UBND TP. Hà Nội cũng đã ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 trên địa bàn. Cụ thể, tại khu vực thành thị những hộ có mức thu nhập bình quân từ 750.000đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, còn tại nông thôn là 550.000 đồng/người/tháng trở xuống. Hộ cận nghèo tại khu vực thành thị là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 751.000 đến 1.000.000 đồng/ người/tháng. Hộ cận nghèo tại nông thôn sẽ là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 551.000 đến 750.000 đồng/người/tháng. Còn tại TP. Hồ Chí Minh, theo chuẩn nghèo trong giai đoạn 2009-2015, hộ nghèo tại khu vực nội thành là những hộ có thu nhập bình quân dưới 12 triệu đồng/người/năm. Tại các quận mới, huyện ngoại thành, những hộ thuộc diện nghèo là hộ có thu nhập dưới 10 triệu đồng/người/năm./. 2.2.2. Du lịch vì người nghèo là gì? Du lịch vì người nghèo (PPT) là một phương thức tiếp cận mới về lập kế hoạch và quản lý du lịch trong đó những người sống trong điều kiện nghèo được đưa lên vị trí ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự. Các chiến lược PPT về giảm thiểu cả tình trạng tuyệt đối nghèo lẫn tương đối nghèo bằng cách tạo ra các cơ hội tạo thu nhập liên quan đến du lịch cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Cần tiến hành công tác giám sát để đánh giá xem các chiến lược đó có hiệu quả hay không. 2.2.3. Du lịch cộng đồng là gì? Du lịch cộng đồng (CBT) là mội loại hình du lịch bền vững thúc đẩy các chiến lược vì người nghèo trong môi trường cộng đồng. Các sáng kiến CBT nhằm vào mục tiêu thu hút sự tham gia của người dân địa phương vào việc vận hành và quản lý các dự án du lịch nhỏ như là một phương tiện giảm nghèo và mang lại thu nhập cho cộng đồng. Các sáng kiến CBT còn khuyến khích tôn trọng các truyền thống và văn hóa địa phương cũng như các di sản thiên nhiên. 2.3. Mô hình phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo Một số mô hình dự án CBT được thực hiện và quản lý bởi một hoặc nhiều hộ kinh doanh sử dụng lao động là người địa phương, và bằng cách đó phân chia lợi ích kinh tế cho toàn cộng đồng. Các mô hình khác có thể được quản lý và vận hành bởi hợp tác xã hoặc nhóm cộng Xây dựng mô hình phát triển du lịch 94 đồng, có thể với sự hỗ trợ của một cơ quan tài trợ hoặc một Tổ chức Phi chính phủ (NGO). Thông thường, các dự án CBT phát triển một hệ thống tái phân chia thu nhập từ du lịch cho cộng đồng thông qua các dự án giáo dục hoặc y tế. Tuy mỗi điểm đến du lịch hay mỗi dự án đều có những đặc thù riêng, trong du lịch cộng đồng lại có những chủ đề chung cần được kiểm nghiệm trong phần giới thiệu này. Bốn nhóm tiêu chí được lựa chọn để xây dựng và đánh giá mô hình phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo là: bình đẳng giới, giảm nghèo, kinh doanh bền vững, và phát triển năng lực địa phương. Nhóm tiêu chí thứ 1: Giám sát bình đẳng giới và tham gia của xã hội Du lịch có thể mang lại tác động tích cực đối với đói nghèo nhờ vào việc mở rộng các cơ hội tăng thu nhập cho phụ nữ có thu nhập thấp, những người có hoàn cảnh khó khăn như người dân tộc thiểu số và thanh niên không có tay nghề. Phụ nữ, ngay cả trong những xã hội bảo thủ và truyền thống cũng thường được coi là những đối tượng có tiềm năng về cung cấp dịch vụ du lịch. Do phụ nữ thường là những người chăm lo chính trong gia đình, thu nhập từ du lịch có thể tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống gia đình. Du lịch đặc biệt thuận lợi đối với phụ nữ, là ngành thường tuyển nhiều phụ nữ hơn nam giới. Tuy nhiên, bình đẳng giới không chỉ đơn giản là việc phụ nữ có được việc làm trong ngành du lịch mà còn tham gia đảm nhiệm vị trí cao, các cơ hội đào tạo, tăng tỷ lệ làm việc toàn thời gian hay bán thời gian và khả năng phát triển. Ở những xã hội truyền thống, tiêu chí phụ nữ và nam giới có bình đẳng trong việc tiếp cận với hệ thống tín dụng và vay vốn mua đất để phụ nữ trở thành người chủ kinh doanh du lịch. Một tiêu chí khác cần xem xét là du lịch tác động khác nhau như thế nào đối với đời sống của nam giới và nữ giới. Ví dụ, phụ nữ thường là người đầu tiên cảm nhận được tình trạng thất thoát tài nguyên thiên nhiên, nhưng đồng thời họ cũng có thể là những người đầu tiên được hưởng lợi từ việc cải thiện cơ sở hạ tầng thường đi kèm với việc phát triển du lịch như cấp nước và điện. Một số tiêu chí chính cần quan tâm về bình đẳng giới và phát triển du lịch liên quan đến hạnh phúc gia đình, cơ hội việc làm bình đẳng, vai trò của giới trong các xã hội truyền thống, tiếp cận vốn vay và tín dụng, kiểm soát lợi ích. a. Hạnh phúc gia đình Đối với nhiều người tại các quốc gia đang phát triển, cả nam giới cũng như phụ nữ, du lịch có thể mang lại cơ hội đầu tiên để có việc làm chính thức. Nhưng đi đôi với lợi ích về kinh tế, việc làm trong ngành du lịch còn mang lại những hậu quả tiêu cực đối với hạnh phúc gia đình, như thời gian làm việc dài và sức ép do nhu cầu làm việc theo ca. Các lĩnh vực cần xem xét bao gồm: - Hậu quả của làm việc trong ngành du lịch đối với mối liên kết gia đình, khối lượng công việc của phụ nữ, sức ép và sức khỏe sinh sản. - Những khó khăn mà phụ nữ nuôi con nhỏ gặp phải. - Sự an toàn của phụ nữ đối với các công việc nguy hiểm, quấy rối tình dục, đường đi từ nhà đến nơi làm việc và làm ca. b. Các cơ hội bình đẳng để có việc làm chính thức Thu nhập thường là động cơ quan trọng nhất để phụ nữ cũng như nam giới tham gia vào ngành du lịch, vì du lịch đem lại cơ hội cho những người có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là ở những vùng nông thôn và đảo nhỏ. Các lĩnh vực cần kiểm tra gồm: - Tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động chính thức và không chính thức trong ngành du lịch; tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí cao so với Tạp chí Đại học Công nghiệp 95 những người đồng nhiệm là nam giới; chế độ lương thưởng cho phụ nữ. - Những phụ nữ đã phấn đấu trở thành doanh nhân và chủ doanh nghiệp - Các cơ hội đào tạo cho nhân viên nam/nữ c. Vai trò của giới trong cộng đồng truyền thống Vai trò của giới trong cộng đồng truyền thống thường mang tính văn hóa và một chương trình giám sát tiêu chí giới không nhất thiết phải được thiết kế để tạo nên sự thay đổi. Nhưng nó có thể nâng cao nhận thức về các tiêu chí, giúp mọi người có thái độ tôn trọng và chấp nhận hơn đối với những người nam giới và phụ nữ phá bỏ các chuẩn mực và chủ động dấn thân vào tham gia kinh doanh du lịch. d. Các lĩnh vực cần kiểm tra gồm: - Vai trò của nam giới và nữ giới trong cộng đồng truyền thống cung cấp các dịch vụ du lịch. - Tỷ lệ phụ nữ tham gia quá trình ra quyết định về du lịch. - Cơ cấu lương/thưởng cho nam giới/phụ nữ làm việc trong các doanh nghiệp du lịch cộng đồng. e. Tiếp cận và quản lý đất, tín dụng và các nguồn lực khác Do đất là nguồn lực chủ yếu đối với du lịch, việc quản lý đất và tiếp cận tín dụng hoặc vốn vay để phát triển đất xác định ai là người đóng vai trò chủ đạo trong phát triển du lịch. Các tiêu chí chính cần xem xét bao gồm: - Ai có thể tiếp cận và quản lý đất ở những khu vực có tiềm năng phát triển du lịch. - Những trở ngại đối với cả nam giới và phụ nữ trong việc tiếp cận tín dụng và vốn vay để phát triển du lịch. Công nhận sự cần thiết của bình đẳng giới trong giám sát du lịch có thể chỉ đơn giản như việc quan tâm tới tiêu chí giới khi thu thập dữ liệu bằng cách phân tích các câu trả lời của nam và nữ giới. Ví dụ khi kiểm tra mức độ hài lòng của địa phương về du lịch, hãy ghi chú câu trả lời của nam giới hay nữ giới. Các bảng dưới đây cho ví dụ về các chỉ tiêu về giới có thể sử dụng trong CBT. Nhóm tiêu chí thứ 2: Giảm nghèo Du lịch, khi được phát triển một cách thận trọng, có thể tạo ảnh hưởng tích cực đến xóa đói giảm nghèo. Du lịch cộng đồng thường có hiệu quả cao hơn về giảm nghèo so với phát triển quy mô lớn vì nó đòi hỏi ít đầu tư, ít kỹ năng kinh doanh và ít hàng hóa nhập khẩu hơn so với các dự án du lịch đại chúng với quy mô lớn. Do đó, tác động trực tiếp và gián tiếp từ các hoạt động phục vụ kinh doanh có thể vừa rộng và sâu. Hơn nữa, cộng đồng nghèo tại các địa phương vùng nông thôn hẻo lánh thường có lợi thế so sánh về phát triển du lịch vì họ thường có di sản thiên nhiên và văn hóa phong phú. Tuy nhiên, vẫn còn có một số trở ngại để bộ phận nghèo nhất của cộng đồng có thể tham gia vào phát triển du lịch. Điều kiện dinh dưỡng và trình độ giáo dục kém làm giảm năng suất và động cơ làm việc của người lao động. Thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về du lịch và du khách dẫn đến những quan niệm sai lệch và sự hoài nghi. Giám sát tác động của phát triển du lịch về xóa đói giảm nghèo trong một cộng đồng có thể hỗ trợ các nhà quản lý dự án tích cực nhận biết và tháo gỡ những trở ngại để mọi thành phần tham gia hoàn toàn vào du lịch. Ấn phẩm của UNWTO “Du lịch và xóa đói giảm nghèo đã đưa ra các khuyến nghị 7 cách để giúp người nghèo hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ du lịch. Các khuyến nghị đối với Du lịch vì Người Nghèo đó là: Xây dựng mô hình phát triển du lịch 96 Thứ nhất. Tuyển người nghèo vào làm việc cho các doanh nghiệp du lịch; Thứ hai. Người nghèo hoặc các doanh nghiệp sử dụng lao động nghèo cung cấp cho các cơ sở kinh doanh du lịch hàng hóa và dịch vụ; Thứ ba. Bán trực tiếp hàng hóa và dịch vụ của người nghèo (khu vực kinh tế không chính thống) cho du khách; Thứ tư. Cho người nghèo thành lập và vận hành các doanh nghiệp du lịch siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs) hoặc các doanh nghiệp cộng đồng (khu vực kinh tế không chính thống); Thứ năm. Đánh thuế thu nhập hay lợi nhuận từ các doanh nghiệp du lịch và phân chia lại tiền thuế thu được cho người nghèo; Thứ sáu. Tự nguyện cho tặng/hỗ trợ từ doanh nghiệp du lịch hoặc du khách; Thứ bảy. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng xuất phát từ nhu cầu du lịch cũng mang lại lợi ích cho người nghèo tại địa phương, một cách trực tiếp hay thông qua sự hỗ trợ các ngành khác. Các lĩnh vực cần đánh giá về xóa đói giảm nghèo là việc làm, thu nhập, doanh nghiệp và chất lượng cuộc sống. Cụ thể như sau: a. Lợi ích về việc làm: Các lĩnh vực liên quan đến xóa đói giảm nghèo và việc làm cần kiểm tra bao gồm: - Số lượng việc làm trực tiếp và gián tiếp do CBT tạo ra; - Tỷ lệ người địa phương so với người ngoài địa phương tham gia vào du lịch trong cộng đồng; - Tỷ lệ cơ hội việc làm truyền thống so với cơ hội việc làm trong ngành du lịch; - Tỷ lệ người địa phương làm du lịch có thu nhập thấp, trung bình, cao từ du lịch; - Số lượng cơ hội kinh doanh do du lịch mang lại. b. Các lợi ích kinh tế: Thu nhập cần được xem xét không chỉ ở góc độ tổng thu nhập cho cộng đồng, mà còn qua việc thu nhập đó được phân phối như thế nào cho các thành viên của cộng đồng. Các tiêu chí chính cần xem xét bao gồm: - Thu nhập trực tiếp và gián tiếp từ du lịch trong cộng đồng; - Số lượng và loại hình kinh doanh đang hoạt động trong cộng đồng; - Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ cung cấp dịch vụ du lịch; - Tỷ lệ các hộ có thu nhập thấp được hưởng lợi ích kinh tế từ du lịch; - Tỷ lệ thu nhập từ du lịch của cư dân có thu nhập thấp, trung bình và cao. c. Chất lượng cuộc sống: Các hộ nghèo nhất thường không có khả năng tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch nhưng vẫn có thể hưởng lợi từ du lịch nhờ cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cộng đồng được cải thiện. Các lĩnh vực cần quan tâm gồm có: - Các hộ đã tự cải thiện kết cấu nhà ở trong năm vừa qua; - Các hộ được cải thiện điều kiện cung cấp tiện ích sinh hoạt; Giám sát tác động của các hoạt động du lịch đối với xóa đói giảm nghèo không chỉ giúp xác định những nơi đang diễn ra thay đổi tích cực mà còn giúp xác định các cơ hội cải thiện. Nhóm tiêu chí thứ 3: Tính bền vững của công việc kinh doanh Sự bền vững của công việc kinh doanh hết sức quan trọng để một dự án CBT có thể đóng góp vào xóa đói giảm nghèo cho cộng đồng. Một trong những trở ngại đối với sự thành công của một doanh nghiệp CBT chính là xu hướng chung của các dự án CBT là quá chạy theo Cung. Các doanh nghiệp định hướng Cung Tạp chí Đại học Công nghiệp 97 được thiết kế xoay quanh nhu cầu của cộng đồng, các sản phẩm và nguồn lực mà điểm đến du lịchhoặc cộng đồng có sẵn. Về nguyên tắc thì điều này có vẻ tốt, nhưng nó lại bỏ qua một thực tế là sự thành công trong kinh doanh du lịch cũng dựa vào khả năng đáp ứng nhu cầu của du khách một cách cạnh tranh và thường xuyên. Rõ ràng là có cần phải có sự cân bằng giữa Cung và Cầu trong công tác giám sát và quản lý CBT. Giám sát doanh nghiệp kinh doanh sự bền vững của cộng đồng đòi hỏi cân nhắc rất nhiều tiêu chí. Những tiêu chí cần nhấn mạnh ở đây bao gồm khả năng hoạt động của doanh nghiệp, tính cạnh tranh, sự hài lòng của du khách và tiếp thị. a. Khả năng hoạt động của doanh nghiệp Một hoặc nhiều doanh nghiệp du lịch thành công là cốt lõi của bất kỳ dự án CBT nào. Đo năng lực của doanh nghiệp và tính bền vững của ngành sẽ cho chúng ta thấy sự bền vững của dự án CBT. Các tiêu chí chính cần kiểm tra bao gồm: - Số doanh nghiệp du lịch khởi nghiệp; - Tuổi thọ của các doanh nghiệp du lịch; - Tỷ lệ thay đổi nhân viên; - Tăng trưởng về doanh thu; - Trị giá đầu tư và cải tạo. b. Tính cạnh tranh Không như nhiều tiêu chí về du lịch bền vững khác, tính cạnh tranh là một chỉ tiêu đo lường có tính tương đối. Nó xác định xem một điểm đến du lịchlàm tốt như thế nào so với các điểm khác. Nếu du lịch là bền vững thì không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà nó còn phải cạnh tranh thành công với các điểm đến du lịchkhác ở địa phương, trong nước và cả khu vực về giá, tính cạnh tranh của chiến lược sản phẩm và tiếp thị. Các lĩnh vực cần kiểm tra về tính cạnh tranh bao gồm: - Tỷ lệ chi phí/giá dịch vụ lưu trú, các điểm tham quan, các Tour trọn gói so với mức chuẩn của ngành hoặc tỷ lệ các sản phẩm tương tự ở các điểm đến du lịchkhác; - Các điểm độc đáo của điểm đến du lịch; - Đánh giá của du khách về giá trị/mức giá; - Lai lịch du khách và thời gian lưu trú so với các điểm khác. c. Sự hài lòng của du khách Sự hài lòng cùa du khách là một yếu tố quan trọng đối với sự bền vững của doanh nghiệp. Các khách hàng hài lòng sẽ lưu lại lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn và khi trở về nhà họ sẽ giới thiệu điểm đến du lịch cho bạn bè của mình. Sự hài lòng của du khách là kết quả của sự kết hợp đa dạng giữa các yếu tố bao gồm kinh nghiệm có từ trước và kỳ vọng, cũng như kinh nghiệm thực tế hiện có. Tuy nhiên, những tiêu chí liên quan đến sự hài lòng của du khách có thể giám sát trong dự án CBT bao gồm: - Mức độ hài lòng chung của du khách tính theo quốc tịch và mục đích chuyến đi; - Cảm giác của du khách về giá trị đồng tiền họ bỏ ra có xứng đáng hay không; - Đánh giá của du khách về mức độ hấp dẫn chung của điểm đến du lịch; - Thay đổi về số lượng du khách quay trở lại điểm đến du lịch; - Số du khách có lý do chính đến thăm điểm đến du lịchlà được “bạn bè hoặc người than giới thiệu”. d. Tiếp thị Tiếp thị có vai trò quan trọng đối với sự bền vững của doanh nghiệp vì nó có trách nhiệm chính trong việc tạo dựng hình ảnh của điểm đến du lịch và thu hút du khách tới dự án Xây dựng mô hình phát triển du lịch 98 CBT. Sức mạnh của hình ảnh tiếp thị có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến năng lực hoạt động của điểm đến du lịch. Các lĩnh vực cần quan tâm khi giám sát tính hiệu quả của các hoạt động Marketing bao gồm: - Chi phí tiếp thị tính cho một du khách tính trên điểm đến du lịch và trên toàn doanh nghiệp; - Chi phí tiếp thị cho các dự án hợp tác; - Ngân sách của chính quyền chi cho công tác tiếp thị điểm đến du lịch; - Số lượng du khách “đọc về điểm đến du lịch trong tài liệu quảng cáo hoặc trang web”. Nhóm tiêu chí thứ 4: Phát triển năng lực địa phương Một trong những khác biệt chủ yếu giữa du lịch cộng đồng và các loại hình du lịch đại chúng khác là sự tập trung vào việc trao cho cộng đồng địa phương quyền thực hiện hoạt động kinh doanh du lịch của riêng mình. Phát triển năng lực địa phương thông qua nâng cao nhận thức, tổ chức các chương trình giáo dục, đào tạo du lịch và hỗ trợ tư vấn kinh doanh có thể giúp nâng cao tính tự tin, kiến thức và năng lực của cộng đồng địa phương trong việc kiểm soát và quản lý quá trình phát triển của mình. Từ đó, dần dần nâng cao tính tự tôn của người dân, tăng cường hợp tác giữa các thành viên cộng đồng và cải thiện năng lực quản lý và điều hành của địa phương. Việc phát triển năng lực địa phương trong việc quản lý và giám sát các dự án CBT thường là một quá trình dài và chậm chạp, bắt đầu từ trường học và tiếp tục suốt cuộc đời học tập của người dân cộng đồng. Các lĩnh vực chính cần quan tâm là nhận thức về du lịch, đào tạo kinh doanh du lịch, địa phương kiểm soát các hoạt động du lịch, sự tham gia vào quản lý và điều hành ở địa phương. Cụ thể như sau: a. Nhận thức về du lịch Nhận thức về du lịch là bước đầu tiên trong quá trình nâng cao năng lực địa phương tham gia vào CBT. Nó bao gồm phát triển các chương trình nhằm vào các nhóm mục tiêu cụ thể như học sinh phổ thông, người dân cộng đồng, các quan chức địa phương và doanh nghiệp. Các chương trình nâng cao nhận thức thường bao gồm: giải thích du lịch là gì, chi phí và lợi ích của việc phát triển du lịch đối với cộng đồng so với các loại hình kinh doanh khác. Để đưa mục tiêu vào các chương trình nhận thức trước hết cần tiến hành một số nghiên cứu nhỏ về các tiêu chí sau: - Quan niệm của người dân về du lịch và tại sao lại có du lịch; - Những quan niệm sai lệch chung về du lịch; Cần giám sát các tiêu chí sau: - Học sinh phổ thông tham gia vào các chương trình nhận thức du lịch; - Các hộ gia đình có một hoặc nhiều thành viên tham gia chương trình nâng cao nhận thức; - Mức độ hài lòng của những người tham gia chương trình nâng cao nhận thức. b. Đào tạo kinh doanh du lịch Đào tạo kinh doanh du lịch có thể tiến hành ở các cấp khác nhau: chủ doanh nghiệp, cấp giám sát và nhân viên. Đối với chủ doanh nghiệp, các lĩnh vực có thể có nhu cầu đào tạo cao nhất là các lĩnh vực kinh doanh liên quan cụ thể tới du lịch như Marketing, dịch vụ chỗ đặt trước, liên lạc với các doanh nghiệp và chiến lược giá. Đối với cấp giám sát, hỗ trợ đào tạo nhân viên và quản lý khách hàng có thể là những lĩnh vực đào tạo thích hợp. Đối với nhân viên làm công, đào tạo kỹ năng là bổ ích nhất, có thể về hướng dẫn du lịch, chuẩn bị đồ ăn thức uống hoặc về đạo đức nghề nghiệp. Các tiêu chí cần giám sát bao gồm: Tạp chí Đại học Công nghiệp 99 - Số lượng doanh nghiệp đã thực hiện đào tạo; - Số chủ doanh nghiệp được tư vấn trực tiếp về kinh doanh; - Số doanh nghiệp đã gửi nhân viên tham dự các khóa đào tạo; - Nhân viên du lịch có thể tiếp cận các cơ hội đào tạo; - Các đối tượng tham gia đào tạo (nam, nữ, thanh niên, người dân tộc, v.v..). c. Quản lý của địa phương Kết quả chính của sự phát triển năng lực địa phương thành công là khả năng địa phương quản lý được các hoạt động du lịch. Có thể giám sát những tiêu chí sau: - Tỷ lệ người địa phương tham gia các doanh nghiệp bên ngoài; - Số tiền đầu tư do địa phương đóng góp so với các nguồn từ bên ngoài; - Tỷ lệ doanh nghiệp do người địa phương quản lý; - Tỷ lệ nhân viên làm trong ngành du lịch là người địa phương. d. Quản lý và điều hành Ngoài các hoạt động kinh doanh thành công, năng lực địa phương được nâng cao có thể được thể hiện ở sự tham gia vào công tác quản lý và điều hành cộng đồng, khả năng và quá trình ra quyết định của địa phương. Một số lĩnh vực có thể theo dõi bao gồm: - Sự đa dạng của các thành phần tham gia vào các cơ quan quản lý du lịch; - Có kế hoạch du lịch hay không; - Đóng góp của địa phương vào quá trình lập kế hoạch du lịch; - Các thành viên cộng đồng hài lòng với các nhà đại diện ngành du lịch địa phương; - Các thành viên cộng đồng có cảm tưởng rằng cộng đồng mình có tiếng nói quan trọng trong công tác quản lý và điều hành ở địa phương. e. Các tiêu chí chính về giám sát Trước khi kiểm tra các bước thực tế trong quá trình xây dựng và thực hiện một chương trình giám sát, các tiêu chí chính cần giám sát như sau: kiểm tra lý do vì sao phải giám sát, quyết định xem ai cần tiến hành giám sát, thảo luận xem cần giám sát những gì, cân nhắc về loại chỉ tiêu cần sử dụng, xem xét lại nguồn nhân lực và tài chính có sẵn dành cho giám sát, cân nhắc phương pháp thông báo về kết quả giám sát cho các bên liên quan - Kiểm tra lý do tiến hành giám sát Xây dựng và thực hiện một chương trình giám sát có thể mất thời gian và nhiều khi còn tốn kém. Giám sát hiệu quả đòi hỏi phải có sự cam kết thường xuyên từ tất cả các thành viên tham gia. Cần hiểu rõ tầm quan trọng của giám sát và giá trị của thông tin đối với các nhóm cụ thể trước khi bắt đầu, nếu chương trình cần sự ủng hộ của các bên để đạt được thành công. Có một số lý do mà các thành phần liên quan khác có thể hỗ trợ dự án CBT: + Thành viên cộng đồng với đóng góp tài chính cho dự án sẽ muốn biết dự án hoạt động như thế nào và có thể làm gì để cải thiện hoạt động. + Các nhà tài trợ cho dự án có thể quan tâm đặc biệt đến tác động của dự án lên đối tượng mục tiêu. + Các tổ chức phi chính phủ có thể quan tâm đến tác động của dự án đối với khu vực cụ thể nào đó, ví dụ như tình trạng biết chữ của người lớn, tái tạo đất ướt hay bảo vệ cây đước. + Chính quyền địa phương sẽ muốn biết dự án được thực hiện như thế nào, có thể làm gì để thành công hơn nữa và tránh được thất bại ở những nơi khác. Xây dựng mô hình phát triển du lịch 100 + Chính quyền địa phương có thể quan tâm đến việc nêu gương điển hình về du lịch cộng đồng thành công, thông qua các giải thưởng và công nhận quốc tế. Nhìn chung, việc xác định xem một dự án hiện có được thực hiện như kỳ vọng hay không, và nó hoạt động tốt hơn hoặc kém hơn mong đợi ở những lĩnh vực nào sẽ giúp các thành phần liên quan đến dự án, giúp giải trình về việc tài trợ và giúp đưa ra những thay đổi một cách hiệu quả. Tiếp cận được các thông tin cập nhật cho phép các nhà quản lý dự án điều chỉnh công tác quản lý của mình cho phù hợp với hoàn cảnh đang thay đổi, thí điểm các phương pháp tiếp cận mới và rút ra bài học kinh nghiệm từ kết quả đạt được. Khi mọi việc tiến triển kém đi, giám sát có thể cung cấp hệ thống cảnh báo sớm, cho phép các nhà quản lý sửa chữa sai sót ở những khu vực cụ thể trước khi quá muộn. Do vậy, giám sát các dự án CBT rất quan trọng đối với sự thành công lâu dài. - Quyết định xem ai thực hiện công tác giám sát Các yêu cầu quan trọng nhất đối với tạo dựng một cộng đồng bền vững là huy động được sự tham gia của mọi thành viên của cộng đồng vào quá trình này. Những ý tưởng lớn nhất trên thế giới sẽ không thành công nếu chỉ một phần nhỏ cộng đồng được đại diện không tán thành. Có nhiều cơ hội để các bên tham gia vào mỗi giai đoạn của chu trình phát triển và thực hiện giám sát. Sự tham gia của các bên càng đa dạng thì càng có nhiều kết quả để học hỏi: + Trong giai đoạn lập kế hoạch, các thành phần tham gia chính có thể là quan chức địa phương, các nhà hoạch định chính sách, tư vấn phát triển và các cơ quan tài trợ làm việc chặt chẽ với các nhóm cộng đồng. + Trong giai đoạn phát triển, có nhiều cơ hội để cộng đồng tham gia rộng rãi hơn khi các tiêu chí chủ yếu được đánh giá và các chỉ tiêu đã được lựa chọn. + Trong giai đoạn thu thập dữ liệu, các thành viên cộng đồng và đại diện ngành du lịch có thể được đào tạo về cách thu thập dữ liệu (như số lượng và các loại chim gặp trên đường đi và sự hài lòng của du khách) + Trong giai đoạn thực hiện, nên thành lập nhóm công tác nhỏ bao gồm các bên liên quan để bao quát công tác giám sát và phân tích kết quả. Việc đó sẽ tạo ra sự độc lập đối với nhà chức trách và giúp tránh được tình trạng mâu thuẫn lợi ích và diễn giải kết quả một cách không thống nhất. - Giám sát các bên tham gia + Khối nhà nước: nhà chức trách quốc gia, địa phương và chuyên ngành. + Khối tư nhân: các chủ doanh nghiệp và người lao động tư nhân, các công ty du lịch và lữ hành, các cơ sở lưu trú, nhà hàng và các điểm du lịch, các cơ sở vui chơi giải trí, các dịch vụ vận tải hàng không, đường bộ, đường sông và đường biển, hướng dẫn viên du lịch, phiên dịch, các nhà cung cấp thông tin và cung cấp trang thiết bị, các nhà cung cấp cho ngành, các tổ chức du lịch và thương mại, các tổ chức phát triển kinh doanh. + Các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác: các nhóm môi trường và bảo tồn, các nhóm sở thích khác (đi săn, câu cá, và các hiệp hội du lịch/mạo hiểm), các cộng đồng và nhóm cộng đồng địa phương, các nhóm bản địa và văn hóa, các nhà lãnh đạo theo truyền thống, du khách và các tổ chức đại diện cho du khách ở nước xuất xứ, các cơ quan du lịch quốc tế. 3. KẾT LUẬN Đối với du lịch cộng đồng, công tác giám sát giúp nâng cao hiểu biết về sự tác động của du lịch đối với cộng đồng và những đóng góp của du lịch cho mục tiêu phát triển bền vững của cộng đồng. Giám sát cũng giúp phát Tạp chí Đại học Công nghiệp 101 hiện những lĩnh vực cần được cải thiện và những nơi đang diễn ra sự thay đổi. Theo cách đó, giám sát và quản lý được thể hiện như hai yếu tố vừa liên quan vừa phụ thuộc lẫn nhau. Các dự án Du lịch cộng đồng (CBT), như bất kỳ ngành kinh doanh nhỏ nào, đều cần phải có sự kiểm soát cẩn thận về mọi công việc kinh doanh – nắm bắt và phản hồi để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và quản lý vấn đề tài chính, hoạt động nội bộ, nguồn nhân lực và mối quan hệ với các nhà cung cấp và đối tượng liên quan bên ngoài. Trong các trường hợp vấn đề đáng quan tâm nhất là xóa đói giảm nghèo và sự bền vững về môi trường, giám sát có thể giúp nhà quản lý dự án tìm hiểu xem liệu dự án hiện có được thực hiện như mong muốn hay không và giúp họ đưa ra những điều chỉnh để cải thiện hoạt động khi cần thiết. Những lợi ích chính của việc giám sát CBT bao gồm: - Đánh giá tình hình hoạt động dự án theo thời gian - Điều chỉnh hoạt động dự án dựa trên các bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình giám sát - Sắp xếp thứ tự ưu tiên các dự án trong tương lai dựa trên những vấn đề cần thiết nhất - Cải thiện công tác quy hoạch, phát triển và quản lý dự án - Đảm bảo mọi thành phần xã hội (kể cả người dân tộc thiểu số, thanh niên và phụ nữ) đều có thể hưởng lợi từ CBT - Cải thiện công tác xây dựng chính sách - Nâng cao sự tin cậy của các nhà tài trợ - Nâng cao tính tập trung của hoạt động hỗ trợ - Nâng cao sự hiểu biết của các thành phần liên quan về du lịch bền vững Cần áp dụng Bốn nhóm tiêu chí (bình đẳng giới, giảm nghèo, kinh doanh bền vững, và phát triển năng lực địa phương) để xây dựng và đánh giá mô hình phát triển du lịch cộng đồng vì người nghèo. Nó cho các đối tượng liên quan đến việc tài trợ, lập kế hoạch hoặc quản lý một dự án du lịch cộng đồng như: nhà chức trách địa phương, các nhà hoạch định du lịch, các nhà tư vấn phát triển, cơ quan tài trợ, các nhóm cộng đồng và vì sự phát triển ngành du lịch Việt Nam trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Website Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam: www.molisa.gov.vn 2. Hart. www.sustainablemeasures.com Hatton, M. (2002) Du lịch Cộng đồng Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương và Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada. đồng-du lịch.org/ 3. Jamieson, W. (2006) Quản lý các điểm du lịch cộng đồng trong các nền kinh tế đang phát triển, Haworth. 4. Press. Jamieson, W., (2003) Xóa đói giảm nghèo thông qua phát triển du lịch bền vững, ESCAP Liên Hiệp Quốc, ST/ESCAP/2265. 5. Ricardo, F. (2005) Nghèo, Phát triển vì người nghèo và đẩy mạnh việc giảm sự bất bình đẳng. Báo cáo phát triển nhân lực của Liên Hiệp quốc, tài liệu đặc biệt, 2005/11.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdulich_6_3471.pdf
Tài liệu liên quan