Mục lục
Trang
Lời nói đầu 3
Chương I: Lí luận chung về bảo hộ và kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan của một số nước trên thế giới”
I/ Xu hướng toàn cầu hóa 5
II/ Sự cần thiết của các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước 7
III/ Kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan của một số nước trên thế giới 24
Chương II: Đánh giá các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian qua (1996 – 2000)
I/ Thực trạng thương mại và khả năng cạnh tranh của Việt Nam thời kỳ 1996 – 2000 38
II/ Các biện pháp phi thuế quan liên quan đến nhập khẩu Việt Nam đã sử dụng 50
III/ Đánh giá tác động của các biện pháp phi thuế quan Việt Nam đã sử dụng 63
Chương III: Đề xuất các biện pháp phi thuế quan Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian tới
I/ Cơ sở khoa học để duy trì các biện pháp phi thuế quan trong việc bảo hộ sản xuất. 69
II/ Một số đề xuất về các NTM Việt Nam sẽ sử dụng để bảo hộ 71
Kết luận 91
Tài liệu tham khảo 92
LỜI NÓI ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hoá hiện đang được các quốc gia trên thế giới coi là giải pháp tất yếu để đẩy mạnh và tháo gỡ những khó khăn của vấn đề tăng trưởng kinh tế. Cũng như các nước khác trên thế giới, việc Việt Nam không ngừng tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế không nằm ngoài mục tiêu khai thác những ưu thế sẵn có trong nước cũng như tận dụng những yếu tố bên ngoài về thị trường, vốn, công nghệ, phương pháp quản lí tiên tiến. Tuy nhiên trước bối cảnh kinh tế thế giới với nhiều biến động phức tạp và nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế lạc hậu, có xuất phát điểm thấp so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới như hiện nay thì việc phải đối mặt với những bất lợi và tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập là điều không thể tránh khỏi. Để hạn chế những bất lợi và tác động tiêu cực đó đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp nhất định và một trong số đó là việc bảo hộ tích cực nền kinh tế.
Bên cạnh thuế quan là công cụ bảo hộ đã được các định chế thương mại quốc tế thừa nhận thì các biện pháp phi thuế quan cũng được rất nhiều quốc gia sử dụng trong thời gian qua bởi những ưu điểm như khả năng tác động nhanh, mạnh, phong phú và có thể đáp ứng nhiều mục tiêu trong cùng một thời điểm. Tuy nhiên mặt trái của các biện pháp phi thuế quan vốn gây ra nhiều tranh cãi là chúng bao gồm nhiều biện pháp chưa được thừa nhận bởi các tổ chức thương mại quốc tế và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế của một quốc gia, một khu vực cũng như toàn bộ nền kinh tế thế giới. Vì vậy, có thể khẳng định việc nghiên cứu các biện pháp phi thuế quan là điều hết sức cần thiết với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Đối với một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam, công tác nghiên cưú về các biện pháp phi thuế con có vai trò quan trọng hơn rất nhiều bởi nó giúp cho chúng ta hiểu thêm về môi trường pháp lí của các quốc gia khác từ đó có thể tìm ra hướng tiếp cận tối ưu thị trường khu vực và quốc tế. Ngoài ra kinh nghiệm rút ra trong quá trình nghiên cứu cũng có giá trị không nhỏ đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các công cụ bảo hộ phi thuế để chúng thực sự hữu ích và phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Với đề tài này ngoài việc thống kê, phân loại những biện pháp phi quan thuế đã được sử dụng trên thế giới, kinh nghiệm áp dụng của một số nước như Mĩ, Thái Lan và thực tiễn áp dụng của Việt Nam tôi cũng xin đưa ra một vài ý kiến cá nhân mang tính chất tham khảo đối với vấn đề xác định các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian tới.
Do lần đầu tiên thực hiện một công việc nghiên cứu quy mô, đề tài này không thể tránh khỏi những hạn chế. Kính mong các thầy cô và các bạn góp ý để cho đề tài được toàn vẹn hơn.
94 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1932 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tinh luyện.
- Yêu cầu xuất khẩu ít nhất 30% sản phẩm trừ những dự án nằm ở vùng khó khăn.
- Giá mua mía tối thiểu của nông dân
- Giá bán đường tối đa
- Trị giá tính thuế tối thiểu
1.2. Tác động:
Từ khi triển khai chương trình mía đường năm 1995 tới cuối năm 1999 cả nước đã có 44 nhà máy đường đi vào hoạt động trong đó có 5 nhà máy được mở rộng công suất và đầu tư chiều sâu. Tổng công suất của toàn ngành mía đường đã đạt tới 78.200 tấn/ngày tăng gấp 8 lần so với năm 1994. Theo số liệu thống kê của ngân hàng đầu tư và phát triển thì riêng tổng số vốn đầu tư của ngân hàng này vào ngành mía đường đã là 929 tỷ đồng trong đó 685 tỷ là vốn cho vay trung hạn và dài hạn, 101 tỷ đồng cho vay ngắn hạn và bảo lãnh nhập thiết bị 11 triệu USD. Tính đến năm 1999 tổng số vốn xây dựng các nhà máy đường là 725 triệu USD tương đương 82% tổng vốn xây lắp dự kiến cho trương trình một triệu tấn đường vào năm 2000.
Nhờ có sự bảo hộ của nhà nước cho đến nay ngành công nghiệp mía đường đã có nhiều bước tiến bộ đáng kể, không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu (năm 2000 đã xuất khẩu được 100.000 tấn). Các giống mía cũng được cải tạo bằng những giống cho năng suất và chất lượng cao hơn.
1.3. Tiềm năng:
Theo đánh giá chung ngành mía đường có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển do thị trường nội địa lớn, tốc độ tăng trưởng cao, có lực lượng lao động dồi dào, có quĩ đất lớn và thích hợp cho việc trồng mía và trên hết được sự hỗ trợ rất lớn từ chính phủ. Do đó trong thời gian tới chắc chắn ngành mía đường còn có thể thu được nhiều thành tựu cao hơn nếu được đầu tư hợp lí của nhà nước
1.4. Khả năng cắt giảm các NTM:
Việc chính phủ qui định giá mua tối thiểu của nông dân và giá bán tối đa trong thời gian qua có vẻ như không cần thiết. Mặc dù mức giá sàn qui định đối với mía thu mua của nông dân tăng từ 180 đồng lên 220đồng/1 kg thì mức giá các doanh nghiệp trả cho nông dân vẫn cao hơn rất nhiều. Tương tự như vậy mức giá bán ra của đường tinh luyện cũng chưa bao giờ cao hơn mức giá trần nhà nưóc qui định.
Yêu cầu các doanh nghiệp phải xuất khẩu ít nhất 30% sản phẩm cũng là một yêu cầu chỉ có thể nằm trên lí thuyết . Trong thời điểm hiện tại giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp mía đường Việt Nam còn quá cao so với mức giá thế giới (giá đường trên thị trường thế giới từ 97-2000 dao động trong khoảng 200-315 usd/tấn trong khi giá thành sản xuất của Việt Nam chưa bao giờ thấp hơn 350 usd/tấn) do đó các doanh nghiệp mía đường Việt Nam khó có thể xuất khẩu mặt hàng này ra nước ngoài.
Việc cấp phép nhập khẩu được chính phủ giao cho hai cơ quan là bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và bộ thương mại trong đó bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ định doanh nghiệp được phép nhập khẩu đường thô, bộ thương mại chỉ định doanh nghiệp dược phép nhập khẩu đường trắng. Hiện tại các doanh nghiệp trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu đường tinh luyện trong nước nên chính phủ nên loại bỏ giấy phép nhập khẩu sản phẩm này. Trong khi đó nhu cầu về đường thô còn rất cao do các vùng nguyên liệu trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các nhà máy đường, nhiều nhà máy chỉ hoạt động với vài % công suất như Trị An 6,5%;Linh Cẩm 6,7%,Bình Thuận 8%), giá đầu vào của nguyên liệu cũng quá cao-cao hơn cả giá nhập khẩu dường thô đã bao gồm thuế nhập khẩu từ Nga. Do vậy trước mắt chính phủ nên tiếp tục cho phép nhập khẩu đường thô để giảm bớt gánh nặng cho các nhà máy sản xuất đường. Gần đây bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã kiến nghị với chính phủ yêu cầu các tỉnh,thành phố địa bàn của các nhà máy đường xây dựng lại qui hoạch vùng nguyên liệu của các địa phương. Bên cạnh đó cũng có đề nghị chính phủ thực hiện một số biện pháp trợ cấp như cho nông vay ưu đãi đối với những diện tích trồng mới lần đầu mà không cần thế cháp, miễn thuế đối với các sản phẩm từ phụ phẩm đường trong vòng 1-3năm; hỗ trợ xây dựng hạ tầng cơ sở vùng mía như giao thông ,thuỷ lợi...Những giải pháp này có thể coi là những giải pháp tích cực nhất tại thời điểm này để duy trì mức bảo hộ tương đương đối với ngành mía đường.
2.Thép:
2.1.Các NTMs được sử dụng trong ngành thép:
- Cấm nhập khẩu
Năm 1997: với một số thép xây dựng loại tròn trơn phi 6 đến phi 60 mm; thép xây dựng tròn gai (đốt, vằn, xoắn, gân) phi 10 đến phi 36 mm; các loại thép góc đều (chữ V) từ 20 đến 75 mm; các loại thép hình I (H), U (C) từ 60 - 120 mm... và một số loại thép lá;
Năm 1998: với một số thép xây dựng loại tròn trơn phi 6 đến phi 40 mm; thép xây dựng tròn gai (đốt, vằn, xoắn, gân) phi 10 đến phi 40 mm; thép góc đều (V), góc lệch (L) từ 20 đến 100 mm; các loại thép hình dạng C (U), L, I, H từ 120 mm trở xuống ... và một số loại thép lá.
- Hạn ngạch nhập khẩu
Năm 1996 và 1997: với một số loại thép xây dựng (trừ các loại thuộc danh mục cấm nhập).
- Cấp giấy phép nhập khẩu
Năm 1996 và 1997: với số loại thép xây dựng (trừ các loại thuộc danh mục cấm nhập);
Năm 1998: với thép phế liệu và thép phá dỡ tầu cũ;
Năm 1999 và 2000: với chủng loại thép xây dựng loại tròn trơn phi 6 đến phi 40 mm; thép xây dựng tròn gai phi 10 đến phi 40 mm; thép góc đều (V), góc lệch (L) từ 20 đến 125 mm; các loại thép hình dạng C (U), L, H từ 160 mm trở xuống... và một số loại thép lá.
- Giá tối thiểu để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu;
- Phụ thu nhập khẩu (1996 và 1997)
- Giá bán tối đa trong nước (giá trần).
2.2.Tác động:
Nhờ có sự bảo hộ khá vững chắc của nhà nước trong thời gian qua mà đầu tư vào ngành thép tăng rất nhanh, hiện nay Việt Nam đã có 6 công ty thép nội địa và 13 liên doanh với vốn đầu tư lên tới 299 triệu USD. Ngoài ra một số dự án liên doanh đang được nhanh chóng triển khai như liên doanh sản xuất phôi thép từ lò điện có công suất 50 vạn tấn một năm ở Quảng Ninh giữa tổng công ty thép Việt Nam(VSC) và công ty NKK của Nhật, liên doanh sản xuất sắt xốp ở Vũng Tàu với công suất trên 1 triệu tấn một năm giữa VSC và 5 công ty khác của Mĩ Nhật, Đức, Singapore. Với nỗ lực nhằm đa dạng hoá chủng loại thép sản xuất trong nước VSC cũng thương thảo với 2 công ty Daewoo và Posco của Hàn Quốc về các điều kiện để xây dựng dự án sản xuất thép tấm cán ở Quảng Ninh với công suất 2 triệu tấn một năm nhằm cung cấp đầu vào cho các nhà máy sản xuất ống thép, đóng tầu, cơ khí.
2.3.Tiềm năng phát triển:
Tiềm lực thực sự của ngành thép Việt Nam là trung bình so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Nguồn nguyên liệu của Việt Nam bị đánh giá là quá nghèo nàn; trữ lượng quặng sắt ở mức tương đối thấp và chất lượng không phù hợp cho khai thác công nghiệp. Khả năng khai thác của các nhà máy cũng còn rất hạn chế - hiện các nhà máy khai thác quặng trong nước chỉ đáp ứng được 30% nguyên liệu phôi cho sản xuất thép cán 70% còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài với giá khá cao (khoảng 270 usd/tấn. Sản phẩm của ngành cũng chỉ dừng lại ở mức đáp ứng nhu cầu phục vụ dân dụng, các loại thép chất lượng cao như thép tấm, thép lá ,thép kết cấu, thép đặc chủng dùng làm nguyên liệu cho các ngành cơ khí chế tạo và các ngành công nghiệp khác còn phải nhập khẩu hoàn toàn.
Thuận lợi có thể nói là duy nhất của ngành thép Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là nhu cầu thép nội địa xây dựng hạ tầng cơ sở tương đối lớn và sự dễ dãi của khách hàng. Chính vì vậy cần đặt ra một câu hỏi sự ưu đãi rất lớn của chính phủ cho một ngành công nghiệp ít tiềm năng như vậy có là cần thiết?.
2.4.Khả năng cắt giảm các NTM:
Trong thời gian qua các NTM đã tạo ra được những tác động khá tích cực. Việc cấm nhập khẩu thép xây dựng và cơ chế nhập khẩu phôi thép thông thoáng đã tạo cơ hội cho các nhà máy cán thép có sức cạnh tranh thấp và trung bình tạm thời tồn tại được trước khi thu hút được đủ vốn để cải tiến công nghệ - do đó biện pháp cấm nhập khẩu khó có thể loại bỏ ngay lập tức ít nhất là ở thơì điểm này. Tương tự như vậy việc cấp phép không tự động với những tiêu chí không rõ ràng đối với các loại thép hình, thép góc, thép lá,.. cũng hỗ trợ đáng kể cho các doanh nghiệp ngành thép gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ. Tuy nhiên để tạo thuận lợi cho công tác quản lí có thể chính phủ sẽ thay thế phương thức này bằng phương thức đấu thầu hạn ngạch. Đối với biện pháp phụ thu việc loại bỏ chỉ còn là vấn đề thời gian bởi đã tồn tại quá nhiều biện pháp bảo hộ khác có tác dụng tương tự như biện pháp cấp phép không tự động và qui định mức thuế suất cao với các loại thép nhập khẩu.
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN VIỆT NAM CÓ THỂ ÁP DỤNG TRONG THỜI GIAN TỚI
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ DUY TRÌ CÁC NTM BẢO HỘ SẢN XUẤT:
Trong thời gian qua đã tồn tại khá nhiều các NTM ở Việt Nam, trong đó tồn tại những biện pháp được duy trì một cách có chủ định và có cả những biện pháp không được chủ định bởi bất cứ một mục tiêu chính sách nào. Một số biện pháp đã phát huy được tiềm năng sản xuất của các ngành được bảo hộ tuy nhiên bên cạnh đó nhiều biện pháp tạo ra những tác động xấu cần được xem xét loại bỏ. Trong quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế Việt Nam cũng cần loại bỏ những biện pháp được coi là trái nguyên tắc của các tổ chức này song cần tiếp tục duy trì những NTM đã được thừa nhận nhằm bảo hộ những lĩnh vực sản xuất có chọn lọc. Cơ sở khoa học của việc tiếp tục áp dụng các NTM được dựa trên những căn cứ sau:
1. Các NTM có tính phổ biến:
Mặc dù đã được coi là những biện pháp tiêu cực gây tác động xấu đến thương mại toàn cầu các NTM vẫn là những biện pháp phổ cập nhất ở bất cứ một quốc gia nào trên thế giới từ những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới cho tới những quốc gia đang và chậm phát triển. Các nghiên cứu thực tế cũng cho thấy các biện pháp phi thuế được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất dù là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đơn giản như sản xuất lúa gạo ở Philippin cho đến những lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như sản xuất máy bay ở Pháp...
2. Các NTM có tính khách quan:
Có thể khẳng định rằng không một quốc gia nào trên thế giới không gặp phải những khó khăn trong vấn đề thương mại quốc tế như thâm hụt cán cân thanh toán, hay thị trường bị bóp méo bởi hàng nhập khẩu phá giá. Hơn nữa mỗi quốc gia đều xác định cho mình những mục tiêu nhất định để ưu tiên phát triển một vài lĩnh vực kinh tế. Trong những trường hợp này các biện pháp phi thuế quan tỏ ra là những giải pháp hữu hiệu hơn cả bởi khả năng gây tác động mạnh mẽ và nhanh chóng đốivới việc tạo ra sự nâng đỡ đối với các lĩnh vực này.
3. Tính dài hạn của các biện pháp phi thuế:
Điều này có thể dễ dàng nhận thấy khi so sánh các biện pháp này với thuế quan. Do tính chất không minh bạch các biện pháp phi thuế là yếu tố ít được quan tâm hơn trong các cuộc đàm phán song phương cũng như đa phương để gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế vì vậy chúng có thể được duy trì lâu hơn. Bên cạnh đó các biện pháp này đã ngày càng trở lên tinh vi và mang tính sáng tạo hơn kể từ khi xuất hiện các qui định của WTO hay APEC mà minh hoạ cho nghịch lí này là những NTM liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và sức khoẻ con người như kiểm dịch động thực vật và các qui định kĩ thuật.
4.Vấn đề chọn lọc các NTM sử dụng và lĩnh vực bảo hộ :
Như đã đề cập tới ở các phần trước trong giai đoạn vừa qua đã tồn tại rất nhiều những NTM không rõ ràng gây ảnh hưởng xấu đến thương mại cũng như khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề thứ hai là có quá nhiều NTM được sử dụng cho một mục đích, một mặt hàng nhưng hiệu quả lại không đạt được như mong muốn của các nhà hoạch định chính sách. Ngoài ra với mong muốn được gia nhập WTO và thực hiện triệt để những cam kết khi gia nhập APEC và ASEAN Việt Nam cần loại bỏ những NTM lạc hậu, thay vào đó là những NTM mới phù hợp với thông lệ quốc tế mà vẫn có tác động bảo hộ tích cực.
II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CÁC NTM VIỆT NAM SẼ SỬ DỤNG ĐỂ BẢO HỘ:
1.Quan điểm chung về việc sử dụng các NTM :
1.1.Các NTM phải phù hợp với thực trạng kinh tế xã hội trong nước và hội nhập quốc tế:
Cơ sở chính để hoạch định chính sách thương mại của mỗi nước dựa trên những yếu tố kinh tế như ổn định hay không ổn định, đang phát triển hay chậm phát triển, điều kiện chính trị (mức độ dân chủ, chính sách kinh tế xã hội), điều kiện tự nhiên (vị trí địa lí, nguồn tài nguyên thiên nhiên). Do đó mọi qui định về hạn chế nhập khẩu phi thuế đều phải xuất phát từ thực trạng kinh tế trong nước và mang những mục tiêu cụ thể nhất định như khuyến khích phát triển những ngành có tiềm năng, bảo vệ quyền lợi của một số nhóm có lợi ích chung, hạn chế tiêu dùng một số loại hàng hoá...
WTO và các tổ chức thương mại khác đều thừa nhận một phương thức bảo hộ sản xuất duy nhất đó là thuế quan song cũng chấp nhận những ngoại lệ cho phép các thành viên được duy trì một số biện pháp phi thuế nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, môi trường. Ngoài ra các tổ chức này cũng có những qui định linh hoạt cho để các thành viên đang và chậm phát triển duy trì các biện pháp phi thuế không phù hợp trong một thời gian nhất định. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam cần xem xét đầy đủ những thoả thuận quốc tế và những tác động của các biện pháp phi thuế, tránh trường hợp có quá nhiều biện pháp phi thuế áp dụng cho một mục đích như thời gian qua đồng thời cũng cần khéo léo xác định các biện pháp phi thuế sao cho phù hợp với thông lệ của những tổ chức này mà vẫn tạo lập được hàng rào bảo hộ với các ngành sản xuất nhất định.
1.2.Chỉ áp dụng NTM trong các lĩnh vực có chọn lọc:
Việt Nam là một trong số các quốc gia đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường do đó các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh còn mang nặng tư tưởng trông chờ ỷ lại.Tình trạng vận động hành lang, gây sức ép để được nhà nước bảo hộ còn diễn ra khá phổ biến. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chúng ta cần ràng buộc mức độ bảo hộ cả về qui mô và thời gian đối với các ngành, các doanh nghiệp. Việc xây dựng các NTM do đó xuất phát từ những nhận thức sau:
1.2.1.Bảo hộ thông qua các NTM là một hình thức di chuyển nguồn lực:
Điều này là khá rõ ràng bởi thực chất của bảo hộ là mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư và làm thiệt hại người tiêu dùng trong nước. Đối với các ngành sản xuất hướng xuất khẩu việc qui định các NTM còn vô hình chung mang lại lợi ích cho người tiêu dùng nước ngoài trong khi phần lớn những hỗ trợ đó như trợ cấp xuất khẩu,xoá nợ, miễn nộp thuế đều xuất phát từ nguồn ngân sách trong nước
Việc áp dụng các NTM trong một số ngành nhất định tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đầu tư vốn công nghệ, nguồn nhân lực vào những lĩnh vực nhất định điều này đồng nghĩa với việc cơ cấu nền kinh tế thay đổi, đầu tư vào các ngành khác sẽ sút giảm.Ví dụ như việc tập trung vào sản xuất cây công nghiệp như mía, bông, đay sẽ thu hút nhiều lao động, vốn của các ngành trồng trọt khác.
Không những thế việc bảo hộ một ngành có thể xâm hại đến sự phát triển của những ngành khác.Ví dụ minh hoạ thực tế là việc bảo hộ ngành công nghiệp thép có thể dẫn tới tình trạng giá thép trong nước cao hơn giá thép trên thị trường thế giới. Các ngành sử dụng thép như nguyên liệu đầu vào để sản xuất một mặt hàng khác sẽ gặp khó khăn bởi chi phí cao, dẫn đến thu hẹp đầu tư,giảm sút sản lượng và năng lực cạnh tranh ...
1.2.2.Áp dụng các NTM nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hỗ trợ các lĩnh vực định hướng xuất khẩu:
Thực tế đã cho thấy rằng việc áp dụng các NTM có thể gây ra tác động đi ngược lại mục tiêu của chính sách bảo hộ đó là không những không làm tăng khả năng của doanh nghiệp, ngành mà vô hình chung tạo cho doanh nghiệp ,ngành thói quen dựa dẫm.Vì vậy khi đề xuất bất cứ một NTM nào các nhà hoạch định cần quan tâm đến thời hạn, mức độ áp dụng để khi dỡ bỏ chúng các ngành được bảo hộ sẽ nâng cao được sức mạnh cạnh tranh, có thể đứng vững trong thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Phương hướng của Đảng và nhà nước ta trong thời gian tới là vẫn tiếp tục phát triển các lĩnh vực hướng xuất khẩu do đó cần lựa chọn những lĩnh vực thực sự có tiềm năng xuất khẩu, tránh đầu tư lãng phí nguồn lực vào các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu kém hiệu quả.
1.3.Các NTM cần nhất quán và rõ ràng:
Thứ nhất việc qui định các NTM rõ ràng và nhất quán là một trong những yêu cầu bắt buộc của các tổ chức kinh tế quốc tế và Việt Nam với mong muốn được tham gia các tổ chức này chắn chắn sẽ phải tìm ra phương sách thích hợp để giản lược hoá các biện pháp phi thuế.
Thứ hai việc qui định các NTM nhất quán và rõ ràng, không phân biệt đối xử sẽ có tác động tích cực không nhỏ trong quá trình xây dựng một môi trường pháp lí ổn định và hấp dẫn. Các doanh nghiệp sẽ dễ dàng nhận biết lĩnh vực đầu tư có hiệu quả hơn trong một môi trường đầu tư có bảo đảm từ đó đưa ra những quyết định đầu tư hợp lí và có hiệu quả.
1.4. Loại bỏ một số NTM không phù hợp và áp dụng một số NTM mới:
Các NTM không phù hợp ở đây có thể chia thành hai loại. Loại thứ nhất là các NTM tồn tại ngoài mục tiêu chính sách bảo hộ của nhà nước có thể kể tới như thủ tục hải quan phức tạp, tham nhũng, sự yếu kém trong quản lí... Loại thứ hai là các NTM vi phạm những nguyên tắc chủ yếu của WTO, ASEAN, APEC như các biện pháp quản lí định lượng, các biện pháp quản lí giá... Việc loại bỏ các biện pháp này là bắt buộc tuy nhiên các nhà hoạch định cũng cần tạo ra những biện pháp thay thế để duy trì bảo hộ cho một số ngành kinh tế. Các biện pháp này nhất thiết là các biện pháp phù hợp với thông lệ quốc tế và quan trọng phải là những biện pháp tinh vi và hiệu quả hơn (trên thực tế hoặc về mặt danh nghĩa) để tránh xảy ra tình trạng tranh chấp, xung đột thương mại với các quốc gia khác
2.Đề xuất cải cách các NTM cũ và áp dụng một số NTM mới trong thời gian tới:
2.1.Cải cách các NTM cũ:
2.1.1.Các biện pháp quản lí định lượng:
a.Nên thay thế qui định cấm nhập khẩu một số mặt hàng (thuốc lá, hàng đã qua sử dụng) bằng các biện pháp khác:
Việc áp dụng các biện pháp cấm nhập khẩu tiềm ẩn trong nó những yếu tố có thể gây ra vi phạm các qui định của các tổ chức thương mại quốc tế. Ví dụ như việc Việt nam cho phép sản xuất thuốc lá trong khi cấm nhập khẩu thuốc lá điếu, hay cấm nhập khẩu một số mặt hàng đã qua sử dụng trong khi vẫn cho lưu hành trong nước có thể vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia của WTO. Có thể thay thế biện pháp cấm nhập khẩu bằng các biện khác có tác dụng gần như vậy nhưng lại hợp pháp, ví dụ như sử dụng hạn ngạch thuế quan với mặt hàng thuốc lá, hay tạo ra thủ tục thông quan phức tạp với hàng đã qua sử dụng. Việc bãi bỏ những biện pháp cấm như vậy có thể đem lại cho Việt nam một số lợi ích sau:
Làm cho hệ thống chính sách phù hợp với WTO và do đó giảm sức ép khi đàm phán với một số đối tác chính của tổ chức này;
Giảm buôn lậu những mặt hàng bị cấm nhập khẩu;
Có thể đánh thuế nhập khẩu cao đối với các mặt hàng này và nhờ đó tăng thu cho ngân sách.
b.Không sử dụng biện pháp "tạm thời không nhập khẩu"
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong năm 1999, Việt nam đã áp dụng biện pháp "tạm thời không nhập khẩu" đối với các mặt hàng như phân NPK, một số loại kính xây dựng, một số chủng loại sắt thép v.v... Việc áp dụng các biện pháp này thể hiện tính thiếu minh bạch và nhất quán của hệ thống chính sách thương mại. Một số biện pháp trên được áp dụng với mục đích bảo hộ cho một số ngành hàng gặp khó khăn khi cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước có đồng tiền bị phá giá. Trong một số trường hợp khác thì việc áp dụng chủ yếu do mối quan ngại của Chính phủ về tình hình cán cân thanh toán của Việt nam. Tuy nhiên, các mối quan ngại trên vẫn có thể được giải quyết một cách thoả đáng mà không cần phải áp dụng các biện pháp "tạm thời không nhập khẩu" thay vào đó có thể áp dụng các biện pháp mang tính khẩn cấp như tự vệ và các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán như đã nêu ở phần trên.
c.Công bố công khai hạn ngạch và mức tăng trưởng
Ngoài một số trường hợp cá biệt, việc áp dụng hạn ngạch là hết sức khó khăn trong bối cảnh Việt nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế quốc tế và khu vực. Trong thời gian gần đây, có xu hướng muốn thuế hoá các biện pháp hạn chế nhập khẩu nói chung và quota nói riêng. Tuy nhiên, khả năng áp dụng là rất nhỏ (khi đàm phán gia nhập WTO, chỉ có thể thuế hoá được các NTBs với một số ít nông sản). Do đó có thể cải cách biện pháp hạn ngạch theo hướng sau:
Công bố công khai mức hạn ngạch và mức tăng trưởng là một tín hiệu rõ ràng để các doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc đưa ra các quyết định đầu tư cũng như tạo ra áp lực cạnh tranh tăng dần với họ.
Đồng thời, trong khi vẫn duy trì một số hạn ngạch cần mở rộng việc đấu thầu hạn ngạch, cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tham gia đấu thầu khi thoả mãn những tiêu chuẩn chung mang tính khách quan. Việc đấu thầu hạn ngạch sẽ làm tăng tính cạnh tranh, tăng thu ngân sách cũng như làm giảm giảm tham nhũng hoặc lợi dụng quota của một số doanh nghiệp .
2.1.2.Các biện pháp quản lý giá
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là nhân tố được coi là quan trọng nhất quyết định đến ứng xử của các doanh nghiệp. Các biện pháp quản lý hành chính đối với giá đã làm lệch lạc tín hiệu giá và do đó làm bóp méo cạnh tranh. Vì vậy, ngoài quản lý giá đối với các mặt hàng độc quyền tự nhiên như điện, nước v.v... cần loại bỏ tất cả các biện pháp quản lý giá mang tính hành chính khác.
Các biện pháp phụ thu đã được áp dụng đối với nhiều mặt hàng xuất, nhập khẩu ở những giai đoạn khác nhau chủ yếu để ổn định giá, nhưng đôi khi cũng để bảo hộ sản xuất trong nước hay tăng thu ngân sách. Các phụ thu này cũng hay thay đổi và do đó không thể dự đoán trước được và gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. Các biện pháp phụ thu nhìn chung cũng nằm trong diện cần loại bỏ theo các nghĩa vụ Việt nam đã cam kết đối với AFTA và sẽ phải thực hiện trong khuôn khổ WTO. Chính vì vậy cần rà soát lại hệ thống phụ thu hiện đang được áp dụng theo hướng:
Xây dựng và công bố công khai lịch trình cắt giảm phụ thu với mục đích ngân sách hay bảo hộ.
Trong trường hợp thích hợp, có thể thay thế một số phụ thu bằng thuế trong nước (ví dụ đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với xăng dầu).
Trong những trường hợp mất cân bằng cán cân thương mại: có thể áp dụng phụ thu với tất cả mặt hàng trong một giai đoạn nhất định (đây là biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán phù hợp với các qui định của các định chế quốc tế và đã từng được nhiều nước như Hungary, Bulgaria áp dụng thành công).
2.1.3. Rà soát lại các doanh nghiệp thương mại nhà nước
Hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước mang tính độc quyền có ảnh hưởng không nhỏ đến cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Hơn nữa, hoạt động của một số doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng có tác động hạn chế nhập khẩu. Trong tiến trình đổi mới quản lý doanh nghiệp và cải tổ chính sách thương mại thì rà soát và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước là một bộ phận không thể thiếu, trong đó cần tập trung đổi mới theo hướng:
Bỏ bớt các đặc quyền về nhập khẩu;
Mở rộng quyền kinh doanh dịch vụ phân phối.
2.1.4.Chính sách nội địa hoá
Mặc dù Việt nam thường nhắc đến định hướng xuất khẩu như là một phương hướng chính của nền kinh tế, tuy nhiên thực tế chính sách trong thời gian qua không thực sự diễn biến như vậy. Xu hướng nhấn mạnh đến chiến lược “nội địa hoá” đã xuất hiện ở nhiều ngành như ô tô, xe máy, điện tử, động cơ, v.v... Ngoài việc xu hướng trên đi ngược lại định hướng “hướng về xuất khẩu”, còn có một nguy cơ tiềm ẩn nữa là các chính sách trên trong nhiều trường hợp đã vi phạm một số định chế quốc tế, mà điển hình là Hiệp định các biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs) của WTO. Việc loại bỏ các biện pháp TRIMs là một nghĩa vụ không thể tránh khỏi trong đàm phán thương mại quốc tế với WTO cũng như một số cuộc đàm phán song phương. Chính vì vậy, Việt Nam cần:
Xác định rõ và công bố các biện pháp đầu tư không phù hợp với Hiệp định TRIMs;
Xây dựng chương trình loại bỏ các biện pháp trên và công bố công khai chương trình này.
Không phải mọi biện pháp TRIMs không phù hợp với WTO đều có ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế (ví dụ một số biện pháp TRIMs được áp dụng để khuyến khích xuất khẩu). Một số nước như Malaysia đã áp dụng các biện pháp này một cách khéo léo và do vậy đã định hướng được luồng đầu tư nước nước ngoài vào những ngành mà họ thực sự cần thiết. Chính vì vậy, lịch trình loại bỏ TRIMs cần hết sức thận trọng, tránh ảnh hưởng đột ngột đến các doanh nghiệp đang hoạt động. Song song với việc loại bỏ TRIMs cũng có thể nghiên cứu áp dụng một số biện pháp khác có tác động tương tự nhưng không trái với các qui định hiện hành của các tổ chức quốc tế.
2.1.5. Chính sách về ngoại hối
Một trong những quan ngại thường trực đối với các nhà hoạch định chính sách thương mại của Việt nam là cán cân thanh toán và nhu cầu về ngoại tệ của đất nước. Quả thực trong thời gian qua hầu như chưa bao giờ cán cân thương mại của Việt nam cân bằng hoặc nghiêng về xuất khẩu. Chính vì vậy, một số biện pháp hạn chế nhập khẩu đã được áp dụng nhằm mục tiêu trên chứ không phải là nhằm mục đích bảo hộ (ví dụ điển hình là việc buộc các doanh nghiệp phải tự cân đối ngoại tệ trong một khoảng thời gian trước đây hoặc hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng không vượt quá 20% kim ngạch xuất khẩu).
Đặc điểm của các biện pháp về ngoại hối là chúng thường thiếu rõ ràng, khó dự đoán trước và trong nhiều trường hợp rất khó quản lý. Chính vì vậy, cần đưa ra được một số cơ chế khác cũng nhằm mục tiêu tương tự nhưng mang tính minh bạch cao hơn, ít gây ảnh hưởng đột ngột đối với các doanh nghiệp hơn. Các biện pháp tự vệ để bảo vệ cán cân thanh toán được qui định trong Hiệp định GATT (Điều XII) của WTO là ví dụ có thể tham khảo.
2.1.6.Cải tiến thủ tục hành chính
Hệ thống quản lý chuyên ngành hiện nay đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết cần sớm khắc phục. Những nhược điểm đó là: có quá nhiều cơ quan quản lý, thủ tục trong nhiều trường hợp còn quá phức tạp và đôi khi mang tính tuỳ tiện, hiệu quả kiểm soát cán cân thương mại nói chung thấp v.v...Chính vì vậy trong thời gian tới cần khắc phục bằng cách:
Giảm bớt các mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành;
Nâng cao hơn nữa tính rõ ràng trong cấp phép;
Thông báo công khai theo các qui định của Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO (tiến tới tuân thủ hoàn toàn Hiệp định này).
2.2.Đề xuất một số NTM mới:
2.2.1.Hạn ngạch thuế quan:
Nội dung: Hạn ngạch thuế quan thực ra là một biến tướng của biện pháp hạn chế định lượng theo đó cho phép duy trì mức thuế suất thấp đối với hàng nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch và mức thuế suất cao hơn đối với hàng nhập khẩu nằm ngoài hạn ngạch. Có thể nói hạn ngạch thuế quan là một đặc trưng của thương mại nông sản. Hạn ngạch thuế quan liên quan trực tiếp đến tiếp cận hiện tại và tiếp cận tối thiểu. Đối với các sản phẩm đã được thuế hoá các nước thành viên WTO cam kết đưa ra mức tiếp cận thị trường hiện tại. Nghĩa là mức tiếp cận thị trường ít nhất phải tương đương với lượng nhập khẩu trung bình của giai đoạn 86-89 tại mức thuế trước khi thuế hoá. Đối với các nước gia nhập sau thì giai đoạn cơ sở có thể là 3 năm gần nhất. đối với các sản phẩm đã được thuế hoá nhưng trước đó vì một lí do nào đó chưa có nhập khẩu thì áp dụng tiếp cận tối thiểu. Nghĩa là mức tiếp cận cho hàng nhập khẩu ít nhất là 3% lượng tiêu dùng nội địa và mức tiếp cận này được mở rộng lên 5% trong một thời gian nhất định (5 năm).
ý nghĩa: Hạn ngạch thuế quan có thể coi là một biện pháp phi thuế khá hiện đại bởi những lí do sau:
- phù hợp với những qui định của các tổ chức thương mại quốc tế
- bảo hộ tích cực nền kinh tế bởi thông qua hạn ngạch thuế quan có thể hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu song vẫn đảm bảo cung cầu của thị trường trong nước.
Đây có thể coi là một biện pháp hạn chế nhập khẩu khá đối với Việt Nam, cần có thêm nhiều nghiên cứu về những kinh nghiệm áp dụng của các nước khác để trong thời gian tới chúng ta có thể đưa vào sử dụng một cách hiệu quả.
2.2.2.Thuế thời vụ:
Nội dung: Thuế thời vụ là hình thức qui định mức thuế khác nhau cho cùng một loại sản phẩm tuỳ thuộc vào thời điểm chịu thuế của sản phẩm. Ví dụ tại thời điểm vụ mùa của một loại sản phẩm, khi sản phẩm này trở lên bão hoà ở thị trường nội địa, để khuyến khích tiêu dùng mặt hàng này trong nước, chúng ta có thể đánh một mức thuế cao đối với hàng nhập khẩu do đó ngăn chặn sản phẩm đồng loại ở nước ngoài tràn vào. Ngoài thời điểm này nhu cầu tiêu thụ mặt hàng ở trong nước vẫn lớn trong khi cung trong nước không đáp ứng đủ cầu chúng ta có thể qui định mức thuế suất thấp thậm chí tới 0% để kích cung.
ý nghĩa:
Thuế thời vụ cũng như các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời khác được sự thừa nhận rộng rãi của các tổ chức thương mại quốc tế.
Thuế thời vụ có ưu điểm rất lớn là tính chất linh hoạt. Có thể áp dụng thuế thời vụ trong bất cứ thời điểm nào khi có sự biến động mất cân đối giữa cung và cầuvà khắc phục được nhược điểm bóp méo thị trường của các biện pháp khác.
2.2.3 Tự vệ và tự vệ đặc biệt:
Nội dung: Theo điều II Hiệp định tự vệ của WTO các thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ đối với một sản phẩm không phân biệt xuất xứ khi thành viên này đã xác định theo những qui định chặt chẽ rằng số lượng nhập khẩu đang tăng lên một cách tuyệt đối hoặc tương đối của sản phẩm này đang gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nhập khẩu đó. Nước có qui định về biện pháp tự vệ được quyền áp dụng các biện pháp khẩn thiết trong trường hợp hàng hoá nhập khẩu đe doạ đến nền kinh tế của quốc gia này.
Tương tự như vậy điều khoản tự vệ đặc biệt được qui định trong điều V Hiệp định nông nghiệp của WTO như sau: nếu sản phẩm nông nghiệp của một quốc gia thành viên đã được thuế hoá và bảo lưu điều khoản tự vệ đặc biệt trong biểu cam kết quốc gia thì được quốc gia này được phép áp dụng các biện pháp tương tự như biện pháp tự vệ khi lượng nhập khẩu vượt quá số lượng giới hạn nhập khẩu hoặc khi giá nhập khẩu xuống thấp hơn mức giá giới hạn. Biện pháp này được phép áp dụng mà không cần bất cứ một sự chứng minh nào về việc các lĩnh vực có liên quan trong nước bị tổn thương hay bị đe doạ tổn thương.
ý nghĩa: Biện pháp này có tầm quan trọng rất lớn bởi khả năng phát huy tác động nhanh chóng và mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên một nhược điểm không thể phủ nhận của biện pháp này là nó không thể được duy trì trong một thời gian dài và dễ gây ra các hành động trả đũa.
Trong thời gian qua Việt Nam đã áp dụng các biện pháp này để bảo vệ một số ngành sản xuất trong nước đặc biệt là các mặt hàng nông sản. Tuy vậy cho tới nay Việt Nam vẫn chưa có các văn bản luật qui định cụ thể để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp này. Đây có thể coi là một khiếm khuyết lớn của các nhà hoạch định chính sách bởi biện pháp này không những phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn có tác động bảo hộ rất nhanh chóng và kịp thời.
2.2.4. Trợ cấp:
Nội dung: Trợ cấp là việc một lợi ích được chuyển giao nhờ có sự hỗ trợ của chính phủ về giá hay thu nhập, hay có sự đóng góp tài chính của chính phủ hay các tổ chức nhà nước, chẳng hạn như chuyển giao trực tiếp các khoản tiền hay bảo lãnh tín dụng; hoặc bỏ qua các khoản tiền lẽ ra phải thu cho ngân sách nhà nước, chẳng hạn như các ưu đãi về thuế (trừ thuế gián thu); hoặc chính phủ cung cấp các hàng hoá và dịch vụ không thuộc nhóm cơ sở hạ tầng, hay thông qua việc mua hàng hoá.
ý nghĩa: Trợ cấp một biện pháp rất có lợi cho Việt Nam vào thời điểm này với những lí do chính sau đây:
Trợ cấp là phổ biến và tất yếu.
Trợ cấp là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở tất cả các nước. Trong bối cảnh thị trường không hoàn hảo, chính phủ các nước đều muốn ngăn cản các công ty nước khác tham gia cạnh tranh để giành thị trường béo bở cho công ty nước mình. Do đó, chính phủ phải chủ động tiến hành trợ cấp cho công ty, sản phẩm trong nước. Xuất phát từ lý thuyết chiến lược này, mọi quốc gia đều nhận thấy trợ cấp là cần thiết và đều tiến hành trợ cấp dưới hình thức này hay hình thức khác.
Trợ cấp được WTO cho phép.
Điều XVI:1 của GATT 1994 và Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO cho phép các nước duy trì các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Điều 27 của Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển và quy định dành đãi ngộ đặc biệt và khác biệt liên quan đến trợ cấp cho các thành viên này.
Trợ cấp góp phần phát triển kinh tế - xã hội tổng thể.
a.Trợ cấp góp phần phát triển công nghiệp nội địa: Mọi quốc gia đều mong muốn xây dựng và phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn hoặc ngành có tầm quan trọng chiến lược đối với lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng, v.v... Để đạt mục tiêu này, chính phủ các nước có thể trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho ngành đó. Nhờ vậy, lợi thế cạnh tranh của những ngành được trợ cấp sẽ tăng lên, do đó mở rộng tiềm năng xuất khẩu và tham gia mạnh mẽ hơn vào thị trường thế giới.
Trợ cấp cho các ngành sản xuất trong nước có tác dụng hạn chế nhập khẩu sản phẩm cạnh tranh vào trong nước, đồng thời có thể làm giảm tác dụng của cam kết ràng buộc hoặc cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ WTO. Trợ cấp xuất khẩu có thể làm vô hiệu hóa thuế nhập khẩu mà nước khác đánh lên sản phẩm xuất khẩu của nước trợ cấp, làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu của nước trợ cấp so với hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường thứ ba.
Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô, yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành. Đối với những công ty mới gia nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi phí rất cao trong thời gian đầu, khó cạnh tranh nổi với những công ty lớn đã trụ vững trên thị trường thì hỗ trợ của chính phủ có thể bù đắp cho những khoản thua lỗ phát sinh trong những năm đầu, đưa công ty vào quỹ đạo phát triển ổn định.
b.Trợ cấp góp phần phát triển vùng .
Chính sách hỗ trợ vùng khó khăn giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch thu nhập cũng như trình độ và quy mô phát triển giữa các vùng trong cùng một nước. Nhờ trợ cấp của chính phủ, các nhà đầu tư được bù đắp phần nào chi phí đầu tư cao hơn mức bình thường khi quyết định lập cơ sở sản xuất kinh doanh tại một địa bàn khó khăn hoặc đang cần được phát triển.
c.Trợ cấp góp phần điều chỉnh cơ cấu.
Trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản. Sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường thương mại quốc tế tạo ra.
Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích nhập khẩu sản phẩm cạnh tranh từ bên ngoài thay vì tự cố gắng sản xuất và cung cấp những sản phẩm kém cạnh tranh với chi phí đầu tư tốn kém.
d.Trợ cấp đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Trợ cấp giúp nhà sản xuất trong nước cung cấp nhiều hàng hóa hơn trong điều kiện chi phí sản xuất không thay đổi. Do đó người tiêu dùng sẽ được lợi do mua được nhiều hàng hóa với giá rẻ hơn. Mặc dù mang tính chất bảo hộ sản xuất trong nước nhưng trong trường hợp này trợ cấp lại đem lại lợi ích cho người tiêu dùng vì giá sản phẩm liên quan được giảm xuống.
e.Trợ cấp kích thích sự lan truyền của hiệu ứng tích cực và khắc phục hiệu ứng tiêu cực.
Theo nguyên lý sự lan truyền của hiệu ứng tích cực (external benefit), trợ cấp còn có khả năng tạo ra hiệu ứng tích cực theo dây chuyền. Ví dụ, việc chính phủ hỗ trợ ngành viễn thông sẽ góp phần phát triển cơ sở hạ tầng thông tin của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các ngành khác hạ giá thành sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh. Như vậy, lợi ích của trợ cấp có thể lan rộng sang các ngành khác ngoài chính bản thân ngành được trợ cấp trực tiếp.
Bên cạnh tác dụng kích thích sự lan truyền của hiệu ứng tích cực, trợ cấp còn có thể khắc phục các thất bại của thị trường một cách có hiệu quả. Ví dụ, một công ty bỏ công sức đào tạo nhân công, đầu tư vào nghiên cứu công nghệ mới nhưng rồi công nghệ mới bị sao chép hoặc nhân công đã được đào tạo lại bị lôi kéo và sử dụng bởi đối thủ cạnh tranh không phải tốn công sức và chi phí ban đầu để đầu tư cho đào tạo hoặc nghiên cứu. Chi phí đối thủ phải bỏ ra rất nhỏ (trả lương cao hơn một chút cho người lao động đã được đào tạo so với mức lương cũ của họ, ...) trong khi lợi ích thu về lại rất lớn. Còn công ty ban đầu khó duy trì được khả năng cạnh tranh như trước trên thương trường vì chi phí sản phẩm bao hàm cả chi phí đào tạo kiến thức cho công nhân, v.v... Do tác động ngoại ứng này, nếu không có sự hỗ trợ từ phía chính phủ, không công ty nào muốn đầu tư vào đào tạo nghề nghiệp chuyên môn cho nhân viên hoặc đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển, cải tiến công nghệ trong khi những hoạt động này lại rất cần thiết cho sự phát triển ngành và xã hội trên tổng thể.
4.Trợ cấp có thể được sử dụng như một công cụ để mặc cả.
Nếu một nước không duy trì trợ cấp thì vị thế mặc cả của nước đó trong đàm phán thương mại có thể kém hơn một nước duy trì trợ cấp. Chẳng hạn, nước duy trì trợ cấp có thể chấp nhận loại bỏ một số biện pháp trợ cấp hoặc cắt giảm mức trợ cấp nhất định để đánh đổi lấy nhân nhượng giảm thuế của nước khác.
2.2.5. Các biện pháp chống bán phá giá.
Nội dung: Việc bán phá giá một sản phẩm là việc sản phẩm này được đưa vào hoạt động thương mại của một nước khác với mức giá trị thấp hơn thông thường. Bán phá giá xảy ra nếu giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước đến một nước khác thấp hơn giá so sánh của các sản phẩm tương tự dùng để tiêu thụ tại nước xuất khẩu trong những điều kiện thương mại thông thường. Biện pháp chống bán phá giá là biện pháp đặt ra mức thuế suất cao đối với hàng bán phá giá để ngăn chăn không cho các mặt hàng này thâm nhập thị trường trong nước.
ý nghĩa:
1.Đối phó với hành vi thương mại không lành mạnh của nước khác.
Khi một nước trợ cấp cho ngành công nghiệp nội địa hoặc ngành sản xuất xuất khẩu, lợi thế cạnh tranh tự nhiên của các đối tượng tham gia thị trường sẽ bị bóp méo. Hàng xuất khẩu của các nước không trợ cấp khó xâm nhập vào thị trường nước trợ cấp cho dù có lợi thế cạnh tranh cao hơn trong thị trường cạnh tranh tự do. Hàng nhập khẩu được trợ cấp tràn vào gây thiệt hại cho sản xuất nội địa của các nước nhập khẩu.
Để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó, các nước bị ảnh hưởng có thể sử dụng thuế đối kháng đánh vào hàng nhập khẩu được trợ cấp nhằm triệt tiêu tác động tiêu cực của trợ cấp hoặc nhằm khắc phục, bù đắp những tổn thất bị mất do hành động trợ cấp của nước khác gây ra.
Trong trường hợp ngoại lệ đặc biệt, điều VI.6 GATT 1994 còn cho phép nước nhập khẩu được phép đánh thuế đối kháng lên hàng nhập khẩu được trợ cấp của một nước xuất khẩu khi trợ cấp của nước xuất khẩu này gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho ngành sản xuất của nước khác cùng cạnh tranh xuất khẩu sang thị trường nước nhập khẩu.
2.Các biện pháp chống phá giá có thể đem lại nguồn thu cho ngân sách
Thay vì áp dụng các biện pháp có thể gây tốn kém nguồn lực xã hội để hạn chế nhập khẩu hàng hóa được trợ cấp như trị giá tính thuế tối thiểu, hạn ngạch..., nước bị ảnh hưởng có thể sử dụng biện pháp thuế đối kháng. Thuế đối kháng là một khoản thuế có giá trị tương đương với giá trị trợ cấp,trong trường hợp nhất định do tính chất không rõ ràng của nó nước nhập khẩu có thể đặt ra mức thuế cao hơn mức trợ cấp của nước xuất khẩu từ đó làm tăng thu ngân sách.
3.Tác dụng mang tính chất cản trở thương mại của thuế đối kháng.
Nhiều khi tác động về mặt tài chính của bản thân thuế đối kháng đối với nhà xuất khẩu của nước tiến hành trợ cấp là không đáng kể, nhưng sự không chắc chắn, bất ổn định, chi phí về pháp luật và các chậm trễ liên quan đến quá trình thủ tục điều tra về trợ cấp lại có tác động tiêu cực rất lớn gây cản trở đáng kể đến hoạt động xuất nhập khẩu và có thể được sử dụng một cách tinh vi làm một rào cản thương mại được ngụy trang khéo léo.
Trong thời gian qua Việt Nam chưa áp dụng biện pháp này dù số lượng các mặt hàng nhập khẩu bán phá giá trên thị trường của ta không nhỏ đặc biệt là hàng hoá từ Trung Quốc Biện pháp này rất cần thiết đối với Việt Nam trong quá trình mở cửa thị trường và trong tương lai gần một văn bản chính thức ra đời qui định chi tiết về vấn đề này là điều đã được tiên liệu trước. Tuy vậy do tính chất nhạy cảm của biện pháp (những qui định chặt chẽ của WTO và những tác động tiêu cực tới quan các quan hệ kinh tế quốc tế) Việt Nam cần có sự nghiên cứu kĩ lưỡng trước khi áp dụng vào thực tế.
2.2.6.Các biện pháp kĩ thuật, kiểm dịch động thực vật và các biện pháp liên quan đến môi trường khác.
Nội dung:
- Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn:
Theo Phụ lục 1 của Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, các yêu cầu này có thể liên quan tới kích thước, hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm. Các yêu cầu này cũng có thể quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản phẩm và mở rộng tới các quy trình và phương pháp sản xuất liên quan tới sản phẩm.
Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật là ở chỗ sự tuân thủ các tiêu chuẩn là mang tính tự nguyện trong khi sự tuân thủ với các quy định kỹ thuật là bắt buộc. Trên thực tế, nếu một sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng các yêu cầu của quy định kỹ thuật thì nó sẽ không được phép bán ra thị trường. Còn đối với tiêu chuẩn, nếu hàng nhập khẩu không tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn được phép bán ra thị trường, mặc dù có thể bị người tiêu dùng tẩy chay.
Mục đích của các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn là bảo vệ an toàn, sức khoẻ của con người, bảo vệ sức khoẻ, đời sống động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn chặn các hành vi lừa dối.
- Các thủ tục đánh giá sự phù hợp:
Các thủ tục đánh giá sự phù hợp bao gồm xét nghiệm, thẩm tra xác thực, kiểm định, chứng nhận được sử dụng để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật do các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn đặt ra.
- Biện pháp kiểm dịch động vật và thực vật: bao gồm tất cả các luật, nghị định, qui định, yêu cầu và thủ tục liên quan như các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng; các phương pháp sản xuất và chế biến; các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp thuận; những xử lý cách ly bao gồm các yêu cầu liên quan gắn với vận chuyển cây trồng và vật nuôi, hay các chất nuôi dưỡng chúng trong quá trình vận chuyển; những qui định về các phương pháp thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp đánh giá rủi ro liên quan; các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác liên quan trực tiếp tới an toàn thực phẩm.
ý nghĩa:
Các biện pháp qui định chất lượng, kiểm tra sự phù hợp, kiểm dịch động thực vật giúp hạn chế những mặt hàng kém chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Ngăn chặn sự thâm nhập thái quá của hàng hoá nước ngoài, cân bằng cung cầu trong nước.
Các biện pháp này cũng có tác dụng nâng cao trình độ kĩ thuật công nghệ của các ngành đặc biệt là các ngành công nghiệp hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay nhu cầu tiêu thụ nông sản của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam không còn chịu chi phối nhiều bởi yếu tố giá cả như trước kia mà bởi nhiều yếu tố khác như môi trường, sức khoẻ con người. Tương tự như vậy các mặt hàng có chất lượng kĩ thuật cao, đặc biệt là các mặt hàng máy móc thiết bị hiện đại phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được quan tâm nhiều hơn về vấn đề chất lượng. Thời gian qua Việt nam đã có qui định về vấn đề kiểm dịch động thực vật các biện pháp kĩ thuật cũng đã được ban hành tuy nhiên công tác quản lí còn nhiều hạn chế. Trong khi đó Hiệp định về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại (hiệp định TBT), Hiệp định về vệ sinh kiểm dịch động thực vật (hiệp định SPS) của WTO đã cho phép các nước thành viên được sử dụng các biện pháp kĩ thuật các biện pháp vệ sinh kiểm dịch được coi là thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ con người, đời sống con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và quyền lợi của người tiêu dùng, với điều kiện là các biện pháp đó không tạo ra sự phân biệt đối sử tuỳ tiện hay hạn chế vô lí đôí với thương mại quốc tế. Nếu biết khéo léo vận dụng trên cơ sở tính "thích hợp" và "cần thiết" thì Việt Nam không những lựa chọn được cho mình các mặt hàng có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn có thể lợi dụng biện pháp này để cản trở hàng hoá nước ngoài mà vẫn biện minh được là không trái với qui định của WTO. Để hợp thức hoá hai biện pháp này Tổng cục đo lường và chất lượng Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện danh mục các mặt hàng có yêu cầu qui định chất lượng tiêu chuẩn Việt Nam, xây dựng danh mục các mặt hàng phải kiểm tra SPS bắt buộc.
Ngoài các biện pháp qui định về vấn đề kiểm dịch động thực vật và tiêu chuẩn kĩ thuật còn có rất nhiều qui định mà Việt Nam có thể viên dẫn đến vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ các sinh vật quí hiếm mà mục đích là ngăn chặn các mặt hàng nhập khẩu của nước ngoài. Tại thời điểm hiện tại chúng ta khó có thể đưa ra một khung pháp lí cho các biên pháp này song việc nghiên cứu các biện pháp liên quan đến môi trường ít nhất cũng giúp cho chúng ta có căn cứ xác đáng để buộc các đối tác loại bỏ những biện pháp cản trở hàng hoá Việt Nam với lí do bảo vệ môi trường.
2.2.7.Hạn chế xuất khẩu tự nguyện:
Nội dung:
Trước 1995 do GATT cấm sử dụng hạn ngạch nhập khẩu, nên một số nước đã sử dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu "tình nguyện". Hạn chế xuất khẩu tình nguyện là một thoả thuận song phương giữa hai chính phủ. Khi ngành công nghiệp của nước nhập khẩu đang phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu tương tự nước này sẽ gây áp lực với nước xuất khẩu để đàm phán về số lượng xuất khẩu. Thông thường kết quả của sự đàm phán là nước xuất khẩu sẽ giới hạn xuất khẩu một số sản phẩm nhất định tới nước nhập khẩu từ đó giảm bớt áp lực cạnh tranh cho các ngành hàng tương tự của nước nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu bị "bắt buộc" chấp nhận số lượng đó và bị đe doạ nhận được các hành động khắc nghiệt hơn nếu không chấp nhận thoả thuận tự nguyện hạn chế số lượng xuất khẩu. Chính phủ xuất khẩu hoặc chính các nhà xuất khẩu quản lý thoả thuận này. Hạn chế xuất khẩu tình nguyện từng là một công cụ quan trọng hạn chế thương mại và đã được sử dụng khá rộng rãi.
ý nghĩa:
Trong khi hạn ngạch được áp dụng chung thì hạn chế xuất khẩu tình nguyện chỉ áp dụng với một số nước xuất khẩu chủ yếu, do đó nếu áp dụng biện pháp này kín đáo thì không ảnh hưởng đến những cam kết trong quá trình gia nhập các định chế thương mại
Hạn chế xuất khẩu tình nguyện mang tính chất linh hoạt hơn bởi nước nhập khẩu có khả năng lựa chọn các thành viên kí kết thoả thuận.
Có một số nước trên thế giới đã sử dụng biện pháp này trong đó nước sử dụng nhiều nhất biện pháp này phải kể đến Mĩ. Để bảo hộ ngành công nghiệp thép Mĩ đã ép Nhật và Liên Xô phải hạn chế xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường của mình thông qua những nhân nhượng mang tính chất chính trị. Về lí thuyết cũng như thực tiễn có thể nói biện pháp này chỉ mang tính chất tham khảo đối với Việt Nam bởi chúng ta không thể gây sức ép đối với các nước khác. với một địa vị kinh tế và chính trị như hiện tại.
KẾT LUẬN
Khoá luận đã trình bày khái quát về các biện pháp phi thuế được sử dụng trên thế giới trong thời gian qua, các qui định của WTO - tổ chức thương mại mà Việt Nam đang xúc tiến đàm phán để được kết nạp. Khoá luận cũng đã đi sâu vào phân tích các biện pháp phi thuế Việt Nam đã áp dụng trong thời gian từ 1996 tới 2000, ảnh hưởng của các biện pháp phi thuế, và khả năng cắt giảm các biện pháp này trong một số ngành. Nhưng trên hết thông qua khoá luận này người trình bày đã đưa ra những ý kiến riêng dựa trên quá trình nghiên cứu khá kĩ lưỡng dưới hình thức đề xuất một số biện pháp phi thuế Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian tới.
Có thể nói các biện pháp phi thuế đã là những biện pháp khá quen thuộc với các nhà hoạch định chính sách trong thời gian qua. Mặc dù vậy như đã khẳng định đây là những công cụ quản lí thương mại hết sức nhạy cảm, khó định lượng và vẫn cần đầu tư nhiều thời gian để đi sâu vào nghiên cứu. Hơn nữa các biện pháp phi thuế mà chúng ta đã áp dụng trong thời gian qua chưa hẳn là những biện pháp thích hợp và tối ưu đối với nền kinh tế Việt Nam cũng như phù hợp với các thông lệ quốc tế..
Chính vì vậy, tôi hi vọng luận văn này dù chưa hoàn chỉnh, sẽ đóng góp phần nào vào quá trình nghiên cứu các biện pháp phi thuế và những đề xuất đưa ra là thiết thực và hữu ích. Hi vọng rằng các biện pháp phi thuế sẽ là một trong những công cụ hữu ích để nền kinh tế Việt Nam gặt hái được nhiều thành quả hơn trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. CIE 1998, Vietnam's Trade Policies 1998.
2. CIE 1999, Non-tariff barriers in Vietnam, September 1999.
3. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam, Bộ Công nghiệp 1998
4. Đề tài " Nghiên cứu tổng quan các biện pháp phi thuế của Việt Nam", Vụ chính sách đa biên, bộ Thương mại 1999
5. Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - Nhà xuất bản giáo dục 1997
6. Hội nhập Việt Nam với ASEAN: Nghiên cứu các biện pháp phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại- Nhà xuất bản công an nhân dân Hà Nội-1999
7. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kì
8. Kinh tế Việt Nam 1999-200, 2000-2001- Thời báo kinh tế Việt Nam
9. Thoả thuận Trung Quốc- Hoa Kì về việc Trung Quốc gia nhập WTO, 1999
10. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, UNIDO và viện chiến lược phát triển, 1998
11. Văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX- Nhà xuất bản chính trị quốc gia- Hà Nội 2001
12. WTO Secretariat 1999, US Trade Policies Review.
13. WTO Secretariat 1997, Thailand Trade Review
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv39_2017.doc