Xây dựng nhà nước kiến tạo nhằm dỡ bỏ các rào cản phát triển doanh nghiệp tư nhân ở việt nam

KẾT LUẬN Chính phủ kiến tạo là Chính phủ sẵn sàng, năng động trong cung ứng dịch vụ công đối với phát triển doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp là người thụ hưởng dịch vụ, cung là người “cầu” dịch vụ này. Muốn dỡ bỏ rào cản phát triển doanh nghiệp tư nhân, Chính phủ trung ương cũng như chính quyền địa phương phải cung cấp một dịch vụ công tích cực, thuận tiện, nhiều trợ lực giúp doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận các nguồn lực phát triển. Chất lượng dịch vụ thường được đánh giá qua sự hài lòng của khách hàng đối với tổ chức. Sự hài lòng là cảm giác vui thích hoặc thất vọng của một người bắt nguồn từ sự so sánh cảm nhận với mong đợi về chất lượng một sản phẩm hoặc một dịch vụ nào đó. Sự hài lòng là mức độ của trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh nhận thức về một sản phẩm so với mong đợi của người đó. Tầm quan trọng của việc nâng cao sự hài lòng của người dân/doanh nghiệp đối với dịch vụ hành chính của một cơ quan, tổ chức công quyền là nền tảng, động lực để khu vực công tiến hành các hoạt động thường xuyên của mình, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước. Cải thiện môi trường, thủ tục hành chính, nâng cao sự hài lòng của các doanh nghiệp về dịch vụ công,. là những vấn đề của Nhà nước kiến tạo giúp các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Với vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, doanh nghiệp tư nhân đang từng bước phát triển trên cơ sở hỗ trợ của Nhà nước kiến tạo. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Sigapore,. có thể giúp Việt Nam có những bước đột phá trong việc xây dựng Nhà nước kiến tạo, Chính phủ liêm chính nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp tư nhân.

pdf23 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng nhà nước kiến tạo nhằm dỡ bỏ các rào cản phát triển doanh nghiệp tư nhân ở việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông hiệu quả của Nhà nước vào thị trường và các hoạt động kinh doanh (Pincus, 2015). 260 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Thực tế, tuy chưa có một khung nội hàm sáng tỏ mạch lạc về Chính phủ kiến tạo, nhưng từ 1986, chúng ta đã và đang vận hành Chính phủ theo chức năng kiến tạo và phát triển. Xây dựng Chính phủ kiến tạo trong điều kiện hiện nay, bên cạnh thời cơ còn nhiều thách thức cần đối mặt như: Sự thách thức trong toàn cầu hóa, khu vực hóa; Sự thách thức về lỗ hổng trong hệ thống hành lang pháp lý của Việt Nam trong hệ thống pháp luật của khu vực và quốc tế; Sự áp lực phải thay đổi tư duy trong quản lý điều hành hoạt động của Chính phủ từ phía nhân dân, phía doanh nghiệp tư nhân và cộng đồng xã hội. Gắn với yêu cầu phải tạo điều kiện cho phát triển doanh nghiệp tư nhân, giúp doanh nghiệp tư nhân phát huy được vai trò to lớn của khối, thì áp lực xây dựng Nhà nước kiến tạo nhằm tháo gỡ các rào cản phát triển trở thành một nhu cầu thiết yếu. Đặc biệt, hiện nay, hàng loạt các rào cản cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân có cả tầm vi mô lẫn vĩ mô được tổng hợp gồm các rào cản cấp độ vi mô và rào cản cấp độ vĩ mô. Các rào cản đã và đang gây cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân trong kỷ nguyên hội nhập quốc tế, trong đó có rào cản vĩ mô chủ yếu xuất phát từ phía Nhà nước và Chính phủ. Xuất phát từ những thách thức đó, Chính phủ Việt Nam buộc phải thay đổi từ tư duy đến hành động nhằm kiến tạo hành lang pháp lý thuận lợi tạo động lực cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển, từ “sông bơi ra biển lớn”, nhằm tận dụng được lợi thế so sánh của quốc gia trong hội nhập toàn cầu. Xây dựng Nhà nước kiến tạo nhằm dỡ bỏ các rào cản phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam có ý nghĩa cao cho thực tiễn hiện nay. Bài viết sẽ xác định được các rào cản chủ yếu của Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân và đề xuất một số giải pháp cải tiến giúp Nhà nước xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm hạn chế các rào cản phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam. 2. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ́ - XÃ HỘI Mặc dù trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước có đề cập tới kinh tế tư nhân, nhưng cho đến hiện nay vẫn chưa có một văn bản nào định nghĩa rõ ràng về kinh tế tư nhân. Khái niệm về kinh tế tư nhân hiện nay còn có nhiều ý kiến chưa đồng nhất, được hiểu dựa theo nhiều cách khác nhau và tiêu chí phân loại cũng chưa nhất quán. Theo Nguyễn Thị Liên Hương (2018), về cơ bản, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể. Theo Ngô Thị Ngọc (2018), khu vực kinh tế tư nhân hiểu theo nghĩa rộng là khu 261 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng vực dân doanh bao gồm các doanh nghiệp của tư nhân trong nước, kể cả các hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp phi nông nghiệp và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn. Cách hiểu trên sẽ đánh giá tương đối chính xác tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân, tuy nhiên thường gặp khó khăn trong thống kê, khi không phân biệt được phần vốn góp của Nhà nước trong các liên doanh cũng như các công ty cổ phần mà Nhà nước góp vốn. Theo nghĩa hẹp, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng không bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (thực tế ở Việt Nam, số liệu thống kê thường theo cách phân loại này khi phân chia nền kinh tế thành 3 khu vực: kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân là kinh tế ngoài quốc doanh nhưng không bao gồm kinh tế tập thể. Từ những cách hiểu trên đi đến một nhận thức về kinh tế tư nhân như sau: kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân và doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đã có nhiều biến chuyển trong quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII (2016), Đảng ta chính thức xác nhận vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Gần đây nhất, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII, tháng 6/2017) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, một lần nữa khẳng định: “Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu, khu vực kinh tế tư nhân đã được công nhận về sự tồn tại cũng như vai trò của khu vực này. Khu vực kinh tế tư nhân đã phải trải qua một chặng đường đầy thăng trầm, biến động. Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, lần đầu tiên có nêu: nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các thành phần đó bao gồm (5 thành phần): Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố mở rộng, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Đặc biệt, từ hội nghị Trung ương 2 khóa VII có nêu: bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo cho kinh tế tư nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định. Tiếp đến là Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã được đưa ra thảo luận trong một chuyên 262 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA đề riêng và ra Nghị quyết tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật để tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân là cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của kinh tế tư nhân lại tiếp tục được nâng thêm một bước tại các kỳ Đại hội Đảng lần thứ X (2006) - “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Đại hội Đảng XI (2011) xác định “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế” và tiếp tục nhấn mạnh việc cần phải hoàn thiện chính sách pháp luật để khu vực tư nhân có môi trường thông thoáng lành mạnh để phát triển “theo quy hoạch và quy định của pháp luật”. Cũng từ Đại hội Đảng XI, các tập đoàn kinh tế tư nhân được chú trọng phát triển, Nhà nước cũng khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế Nhà nước. Mới đây nhất, Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) xác định “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế” và “tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”. Như vậy, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân từ chỗ được thừa nhận nhưng vị trí vẫn xếp sau khu vực nhà nước, thì nay, khu vực này giữ vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến dài trong phát triển tư duy nhận thức của Đảng, là yêu cầu khách quan của thực tiễn 30 năm Đổi mới, tuy nhiên, 30 năm để nhận ra vấn đề này là một khoảng thời gian khá dài. Cùng với sự thay đổi trong chủ trương, đường lối và quan điểm chỉ đạo của Đảng, các chính sách pháp luật của Nhà nước cũng được điều chỉnh, bổ sung hoặc thay đổi theo. Luật Doanh nghiệp cùng các đạo luật có liên quan như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Thương mại... cũng được sửa đổi, bổ sung theo hướng nhất thể hóa về mặt pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế. Các Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các luật liên quan được sửa đổi bổ sung vào năm 2014 và có hiệu lực từ năm 2015 về cơ bản đã gỡ bỏ hết các rào cản phân biệt theo thành phần kinh tế (Trần Kim Chung, 2017). Trải qua 30 năm Đổi mới và cải cách, khu vực kinh tế tư nhân đã đang khẳng định vai trò “động lực” cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Sự phát triển kinh tế tư nhân mới giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình (Nguyễn Ngọc Sơn, 2016) và thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Nguyễn Văn Thắng, 2016). Trong nghiên cứu của mình, Nguyễn Kế Tuấn (2018) đã chỉ ra một số đóng góp chính của kinh tế tư nhân như: Quy mô vốn đầu tư của kinh tế tư nhân ngày càng tăng và đến nay đã trở thành bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư xã hội; thành phần kinh tế tư nhân trong nước là lực lượng có đóng góp lớn nhất vào GDP (58% GDP); Các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc kinh tế tư nhân, bao gồm các loại 263 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng hình doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và các cơ sở cá thể phi nông nghiệp, tạo việc làm cho khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế; Đồng thời khu vực kinh tế tư nhân cũng là khu vực đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước, vượt qua cả khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ tính riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân thì từ đầu năm 2000 đến 2003 có 72.600 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký trên 9,5 tỷ USD, gấp 1,7 lần về doanh nghiệp và gấp hơn 4 lần về vốn đăng ký so với giai đoạn 1991 - 1999 (Hà Thị Minh Hiền, 2017). Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập giai đoạn 2011 - 2016 Nguồn: VCCI (2017) Báo cáo Thường niên doanh nghiệp 2016 Theo Báo cáo Thường niên doanh nghiệp Việt Nam (VCCI) thì giai đoạn 2003 - 2015 tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp là 10,2%. Số doanh nghiệp tính đến 12/2015 là 442,4 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế thì doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm đến 96%. Năm 2016, sau thành công của đại hội Đảng lần thứ XII với chủ trương phát triển kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân, số doanh nghiệp thành lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,2% so với năm 2015; Năm 2017, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đã lên tới 126.859 doanh nghiệp - cao nhất từ trước tới nay. Bên cạnh đó, có 26.448 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động1. 1 https://dangkykinhdoanh.gov.vn 264 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Với sự tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế, kinh tế Việt Nam ghi nhận những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trên hai phương diện: (1) Vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; (2) Vai trò kiến tạo lao động, việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của khu vực tư nhân Giai đoạn 2011 - 2016, do tác động suy thoái của nền kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn trong hai năm 2011 - 2012, tăng trưởng kinh tế liên tiếp sụt giảm, từ mức 6,42% năm 2010 xuống còn 6,24% trong năm 2011 và 5,25% trong năm 2012. Từ năm 2013 cho đến nay, với nỗ lực điều hành chính sách, tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, đồng thời nhờ những tác động tích cực của sự phục hồi kinh tế thế giới, kinh tế trong nước bắt đầu có sự cải thiện đặc biệt ghi nhận mức tăng trưởng đột phá trong năm 2015, ước đạt 6,68%, vượt 0,48 điểm phần trăm so với kế hoạch đề ra. Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP theo giá so sánh 2010 phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 2011 - 2016 (năm trước = 100) (Đơn vị tính: %) Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Tổng số 106,24 105,25 105,42 105,98 106,68 106,21 Kinh tế nhà nước 104,79 105,80 104,76 104,05 105,37 105,20 Kinh tế tư nhân 108,44 108,02 106,05 106,75 108,42 111,41 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 107,69 107,42 107,86 108,45 110,71 109,55 Nguồn: Tổng cục Thống kê Đóng góp vào tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn 2011 - 2016 có sự chuyển biến tích cực. Mức tăng trưởng GDP trong khu vực kinh tế tư nhân luôn đạt tốc độ cao nhất so với các khu vực còn lại. Năm 2011, tốc độ này đạt được là 108,44% cao hơn khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 2016, tốc độ tăng trưởng GDP trong khu vực tư nhân đạt được 111,41%, tăng 2,99% so với năm 2015 và vẫn luôn dẫn đầu so với các khu vực khác trong nền kinh tế. Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân đang đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. 265 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng Vai trò thu hút lao động của các doanh nghiệp tư nhân Số lượng các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân tăng lên làm cho nhu cầu sử dụng lao động tăng. Bảng 2: Tỷ trọng doanh nghiệp và tỷ trọng lao động theo hình thức sở hữu Loại hình doanh nghiệp Tỷ trọng doanh nghiệp Tỷ trọng lao động (%) 2007 2015 2007 2015 DN Nhà nước 2.34 0.64 24.38 10.67 DN ngoài Nhà nước 94.33 96.66 52.31 59.99 DN FDI 3.33 2.7 23.31 29.34 Tổng 100 100 100 100 Nguồn: Báo cáo Thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2016, VCCI Về hình thức sở hữu, các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng về số lượng và tỷ trọng. Doanh nghiệp ngoài nhà nước năm 2007 chỉ có khoảng 140.627 doanh nghiệp, chiếm 94,33% tổng số doanh nghiệp cả nước, thì đến năm 2015, theo Tổng cục Thống kê, đã có khoảng 427.709 doanh nghiệp ngoài nhà nước, tăng 3 lần và chiếm 96,66%. Đối với các doanh nghiệp FDI số lượng doanh nghiệp tăng lên từ gần 5.000 doanh nghiệp năm 2007 lên gần 12.000 doanh nghiệp năm 2015, nhưng tỷ trọng loại hình doanh nghiệp này luôn có xu hướng giảm dần, từ 3,33% năm 2007 xuống chỉ còn 2,70% năm 2015. Về doanh nghiệp nhà nước, đã giảm mạnh cả về số lượng và tỷ trọng trong nền kinh tế, từ 3.494 doanh nghiệp, chiếm 2,34% năm 2007 xuống còn khoảng 2.835 doanh nghiệp, chiếm 0,64% năm 2015. Cùng với sự thay đổi về số lượng doanh nghiệp, trong giai đoạn 2007 - 2015, lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước không chỉ giảm về tỷ trọng (từ 24,38% xuống 10,67%) mà số lượng tuyệt đối cũng giảm (từ 1,76 triệu xuống 1,37 triệu), trong khi lao động khu vực ngoài nhà nước tăng mạnh cả về số lượng tuyệt đối (từ 3,78 triệu lên 7,71 triệu) và tỷ trọng (từ 52,31% lên 59,99%). Như vậy, doanh nghiệp tư nhân ngày càng trở thành một lực lượng quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển, thậm chí đây là lực lượng có thể tạo ra những bước nhảy vọt của nền kinh tế bởi lực lượng này tiên tiến nhất, hiện đại nhất, cập nhật nhất với kinh tế thế giới và khu vực. 266 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 3. RÀO CẢN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN, DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM Trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân cũng còn nhiều yếu kém, bất cập. Tuy số lượng các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc kinh tế tư nhân ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng áp đảo trong hệ thống các loại hình tổ chức kinh doanh, nhưng đại bộ phận các cơ sở này có quy mô nhỏ bé, các nguồn lực sản xuất - kinh doanh và năng lực quản trị còn thấp kém, trình độ trang bị công nghệ lạc hậu và năng lực đổi mới công nghệ còn chưa đảm bảo. Tình trạng doanh nghiệp tư nhân thành công dựa vào quan hệ không lành mạnh với giới hoạch định chính sách, khai thác lợi thế tài nguyên đất đai sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế và chính doanh nghiệp... Hệ lụy tất yếu của tình trạng này là năng lực cạnh tranh của các cơ sở kinh tế tư nhân còn thấp kém. Điều đó làm hạn chế việc phát huy vai trò của kinh tế tư nhân trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và trở thành một thách thức lớn với chính các chủ thể kinh tế này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng (Nguyễn Kế Tuấn, 2018; Trần Kim Chung và Tô Ngọc Phan, 2018). Nguyễn Hồng Sơn (2017) trong nghiên cứu của mình còn chỉ ra rằng, khu vực kinh tế tư nhân có số lượng doanh nghiệp lớn, đa dạng về loại hình, tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ phá sản và ngưng hoạt động cao. Lĩnh vực kinh doanh đa dạng nhưng chủ yếu về kinh doanh dịch vụ, và có xu hướng tháo lui khỏi khu vực sản xuất công nghiệp. Nhìn chung khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân đang ngày càng phát triển nhưng vẫn chưa phát huy được tiềm năng và vai trò động lực của mình bởi khu vực này chịu khá nhiều rào cản phát triển. Hiện nay, các doanh nghiệp tư nhân đang phải đối mặt với nhiều rào cản phát triển. Các nghiên cứu của Nguyễn Hồng Sơn (2017), Phạm Tiến Đạt (2017), Trần Kim Chung (2018) hay một nghiên cứu chuyên đề của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2017) và đặc biệt là Báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của VCCI và USAID chỉ ra các rào cản mà doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn đang phải đối mặt, bao gồm: - Thứ nhất, rào cản về nhận thức, tư duy lý luận về kinh tế tư nhân và phát triển khu vực kinh tế này. Quan điểm về kinh tế tư nhân chưa thống nhất, chưa có định nghĩa rõ ràng về doanh nghiệp tư nhân gây khó khăn cho công tác thống kê, nghiên cứu đánh giá. - Thứ hai, các yếu tố khách quan từ thể chế, chính sách còn tồn tại cũng cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân: 267 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng ü Thủ tục hành chính còn phức tạp; liên thông giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp còn bất cập; còn những điểm không thống nhất giữa Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu... hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, làm chậm quá trình đầu tư phát triển của kinh tế tư nhân; ü Tồn tại nhiều rào cản điều kiện đầu tư kinh doanh... Điều này tạo ra rào cản gia nhập thị trường, hạn chế cạnh tranh và tác động bất lợi đến doanh nghiệp nhỏ và vừa; ü Thị trường, cơ hội đầu tư chưa có cơ chế để khai thác triệt để; ü Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ hành chính còn yếu,... Những bất cập này khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian và chi phí không chính thức cho các thủ tục hành chính. Trong Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2017 cho thấy, có đến 59% doanh nghiệp trả lời khảo sát phải chi trả các khoản chi phí không chính thức, trong đó 9,8% doanh nghiệp phải trả trên 10% doanh thu. - Thứ ba, việc tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp tư nhân còn nhiều khó khăn. Chỉ có 40% trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động có khả năng tiếp cận vốn vay từ ngân hàng (Cục Phát triển doanh nghiệp, 2017). Nhiều DNTN khó đáp ứng quy định cho vay của các tổ chức tín dụng do chưa minh bạch, rõ ràng về tình hình tài chính của mình. - Thứ tư, doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận đất đai, mở rộng mặt bằng kinh doanh cũng như độ rủi ro bị thu hồi đất cao. - Thứ năm, chi phí kinh doanh cao làm giảm khả năng cạnh tranh, ví dụ như chi phí vận tải, chi phí nhân sự. - Thứ sáu, môi trường kinh doanh không bình đẳng, doanh nghiệp tư nhân bị đối xử thiếu công bằng so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI ngay chính sân nhà. - Thứ bảy, sự phát triển một số thị trường còn chậm, nhất là thị trường các yếu tố đầu vào (CIEM, 2017). Bên cạnh những rào cản khách quan lớn kể trên, theo Phạm Tiến Đạt (2017), những thách thức nội tại của khu vực kinh tế tư nhân cũng là nguyên nhân khiến khu vực này chưa phát huy được tiềm năng của mình. Những khó khăn, rào cản đối với doanh nghiệp tư nhân Việt Nam còn được đưa ra thảo luận trong các hội thảo của chính các doanh nghiệp. Trong một báo cáo Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (2014) đã chỉ ra những trở ngại mới phát sinh cho khối doanh nghiệp tư nhân trong nước khi gia nhập thị trường như: vấn đề tiếp cận đất đai (quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, do đó lại ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn ngân hàng liên quan đến các hợp đồng thế chấp đất đai); doanh nghiệp đối mặt với khả năng thiếu điện sản xuất, giá thành điện 268 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA tăng và thị trường điện vẫn mang tính độc quyền cao; chi phí nhân công đang tăng để cải thiện điều kiện sống của lao động ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và một số vướng mắc về thể chế (ví dụ điều kiện miễn thuế đất) làm cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp phụ trợ nhất là khi các doanh nghiệp này đặt vị trí ngoài các khu công nghiệp. Bên cạnh đó, báo cáo cũng chỉ ra những tồn tại cần tiếp tục được xem xét giải quyết để khơi thông thủ tục cho doanh nghiệp tư nhân hoạt động như thuế GTGT, giấy phép lao động và quy định trình độ đại học và kinh nghiệm đối với chuyên gia trong Hồ sơ Cấp giấy phép lao động, một số quy định hành chính liên quan đến công chứng, chứng thực gây khó khăn cho doanh nghiệp, thủ tục giải thể doanh nghiệp còn quá nhiều “nhiêu khê”. Có thể tổng hợp các loại rào cản phát triển doanh nghiệp tư nhân trên 2 góc độ: (i) Các rào cản cấp độ vi mô - Hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính/tín dụng. - Áp lực cạnh tranh theo cơ chế thị trường. - Nguồn yếu tố đầu vào. - Thiếu vắng niềm tin của nhân viên. - Thiếu vắng sự hợp tác, năng lực quản trị. - Thiếu vắng niềm tin vào các nhà khởi nghiệp và văn hóa khởi nghiệp. - Thiếu đồng bộ trong cơ cấu tổ chức doanh nghiệp. (ii) Các rào cản cấp độ vĩ mô - Rào cả về môi trường kinh doanh. - Rào cản về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. - Rào cản về thể chế, chính trị và hệ thống pháp luật. - Rào cản về cơ sở hạ tầng. - Rào cản về hệ thống thuế. - Rào cản về chính sách thu nhập (tiền công, tiền lương tối thiểu). - Rào cản về chi phí điện nước. - Rào cản về các cú sốc kinh tế vĩ mô và chính sách. - Rào cản về năng lực của chính quyền địa phương. Các rào cản này đã và đang gây cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân trong kỷ nguyên hội nhập quốc tế, trong đó có rào cản vĩ mô chủ yếu xuất phát từ phía Nhà nước và Chính phủ. Xuất phát từ những thách thức đó, Chính phủ Việt Nam buộc 269 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng phải thay đổi từ tư duy đến hành động nhằm kiến tạo hành lang pháp lý thuận lợi tạo động lực cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển, từ “sông bơi ra biển lớn”, nhằm tận dụng được lợi thế so sánh của quốc gia trong hội nhập toàn cầu. 4. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ̀ NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO, CHÍNH PHỦ LIÊM CHÍNH VÀ PHỤC VỤ 4.1. Khái niệm Nhà nước kiến tạo, Chính phủ liêm chính Trong một nghiên cứu, World Bank (1992) đã đưa ra khái niệm về Nhà nước quản trị tốt hay Nhà nước kiến tạo theo thuật ngữ mã Thủ tướng sử dụng là Nhà nước giúp tạo lập “kiểu Nhà nước mà ở đó quyền lực được sử dụng để quản trị các nguồn lực kinh tế và xã hội của đất nước cho sự phát triển của quốc gia”. OECD (1995) cho rằng, Nhà nước kiến tạo bao gồm vai trò của các nhà cầm quyền trong việc thiết lập được một môi trường cho các chủ thể kinh tế vận hành và quyết định việc phân phối những lợi ích cũng như mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và dân chúng. Ủng hộ cách tiếp cận của WB, IMF nhấn mạnh Nhà nước kiến tạo là Nhà nước thúc đẩy sự minh bạch (transparency), tính giải trình (accountability), tính hiệu quả (efficiency), sự công bằng (fairness), sự tham gia (participation) và quyền sở hữu (ownership). Những giá trị này trở thành những mục tiêu mà Nhà nước hướng tới: tính trách nhiệm chính trị (hay tính giải trình), sự tham gia, hiệu lực của luật pháp, minh bạch và các dòng thông tin giữa chính quyền và người dân. Ở Việt Nam, Chính phủ kiến tạo phát triển là khái niệm còn mới mẻ, đang có những cách tiếp cận khác nhau. Đặc biệt cụm từ “Nhà nước kiến tạo”, “Chính phủ kiến tạo”, “Chính phủ hành động”, “Chính phủ phục vụ”, “Chính phủ liêm chính” được đề cập đến thường xuyên trên các diễn đàn chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Các nhà nghiên cứu, các chuyên gia kinh tế và các nhà lãnh đạo đã đưa ra một số quan niệm khác nhau về Chính phủ kiến tạo. Tại phiên họp Quốc hội ngày 18/11/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đã đưa ra định nghĩa của Nhà nước kiến tạo, gồm các nội dung sau đây: - Thứ nhất, đó phải là một Nhà nước chủ động thiết kế ra một hệ thống pháp luật tốt, những chính sách tốt, thể chế tốt để nuôi dưỡng nền kinh tế phát triển, chứ không phải bị động đối phó với những diễn biến trên thực tế. - Thứ hai, là Nhà nước không làm thay thị trường, những khu vực nào thị trường có thể làm được, doanh nghiệp tư nhân có thể làm được thì Nhà nước không can thiệp, mà thay vào đó là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm. Nhà nước sẽ chỉ đầu tư vào những khu vực các doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư. 270 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA - Thứ ba, Chính phủ phải kiến thiết được môi trường kinh doanh thuận lợi, không chỉ đứng đầu trong nhóm các nước ASEAN, mà còn phấn đấu vươn lên tiêu chí của nhóm OECD. - Thứ tư, Nhà nước cũng phải nói đi đôi với làm, siết chặt kỷ cương, đặc biệt phải thay ngay cán bộ không đáp ứng yêu cầu công việc. Cần xây dựng chính quyền điện tử, thương mại điện tử đến tòa án điện tử. Đây là yếu tố quan trọng để xây dựng Nhà nước kiến tạo. “Nhà nước kiến tạo” chính là gạch nối của hai nhiệm kỳ Chính phủ, còn “Chính phủ kiến tạo” được nhắc lại dồn dập như là thông điệp quan trọng nhất của Chính phủ mới. “Nhà nước kiến tạo” và “Chính phủ kiến tạo” chỉ là cách nói khác nhau, tuy hai mà một. Thực tế cho thấy, kiến tạo không phải là của riêng Chính phủ mà phải bao gồm cả ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyễn Sỹ Dũng (2017) cho rằng, “Chính phủ kiến tạo phát triển là Chính phủ tạo mọi điều kiện để sự phát triển có thể xảy ra. Chính phủ kiến tạo phát triển thì không làm thay cá nhân công dân hay doanh nghiệp, mà tạo khuôn khổ thể chế và mọi điều kiện cần thiết có thể để cá nhân, doanh nghiệp thuận lợi tham gia phát triển kinh tế, có thể thực hiện ước mơ khởi nghiệp của mình. Khi người dân có điều kiện mưu cầu hạnh phúc, vươn lên thực hiện mọi ước mơ, cũng như có năng lực làm chủ cuộc sống, phát triển kinh tế, có năng lực xây dựng cuộc sống tốt đẹp thì đó là sự phát triển. Sự phát triển đó là quan trọng nhất, thực chất và bền vững nhất”. Đây là mô hình nhà nước kết hợp được ưu điểm, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình nhà nước điều chỉnh và nhà nước kế hoạch hóa tập trung. Đinh Minh Tuấn và Phạm Thế Anh (2016), “Nhà nước kiến tạo phát triển là cách thức vận hành của Nhà nước trong mối tương quan với thị trường, xã hội (cơ chế quản trị công) nhằm đảm bảo vai trò kiến tạo phát triển của Nhà nước trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội; nghĩa là Nhà nước chủ động, tích cực tham gia, dẫn dắt, tạo lập, thúc đẩy, khuyến khích thị trường phát triển, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.” Ngô Huy Đức và Nguyễn Thị Thanh Dung (2016) đã tổng hợp và chỉ ra Nhà nước kiến tạo phát triển gồm các nội dung như sau: - “Nhà nước kiến tạo phát triển” phải là một mô hình nhà nước pháp quyền, dân chủ. Đây là Nhà nước với vai trò chủ động và tích cực trong phát triển kinh tế. - Các cơ quan nhà nước hoạt động công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình; đội ngũ công chức viên chức được tuyển chọn cạnh tranh, công bằng, đủ năng lực, tầm nhìn và tài năng để hoạch định chính sách phát triển, xây dựng các thể chế phát triển, phục vụ phát triển. 271 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng - Nhà nước không can thiệp sâu vào đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Theo Nguyễn Kế Tuấn (2017), Nhà nước kiến tạo phát triển là Nhà nước không làm thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội. Việc phát huy dân chủ trong quản lý nhà nước thể hiện đồng thời trên ba mặt. Thứ nhất, người dân được quyền tự do kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực mà Nhà nước không cấm. Thứ hai, người dân và các tổ chức có quyền tham gia vào quá trình hình thành hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, đặc biệt là các quy định liên quan trực tiếp đến họ. Thứ ba, đề cao trách nhiệm giải trình của Nhà nước, bảo đảm người dân và các tổ chức thực hiện quyền giám sát hoạt động của Nhà nước bằng các hình thức thích hợp. Như vậy, có thể hiểu một cách tổng quát: “Nhà nước kiến tạo là Nhà nước không quản lý theo kiểu ra lệnh, can thiệp, áp đặt mà quản lý theo kiểu chú trọng tới chức năng xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách, kiện toàn tổ chức bộ máy, phát triển nhân lực và sử dụng phương thức quản lý thích hợp để kiến tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân phát huy mọi tiềm năng phát triển. Đó là Nhà nước luôn đổi mới, hoàn thiện và tiến đến hiện đại, phục vụ người dân và doanh nghiệp phát triển ngày một tốt hơn”. 4.2. Một số nội dung cơ bản về Nhà nước kiến tạo, Chính phủ liêm chính Cho đến nay cũng có nhiều cách tiếp cận về các đặc trưng của Nhà nước kiến tạo, Chính phủ liêm chính. Đáng chú ý là cách tiếp cận của World Bank và Uỷ ban châu Âu (CEC). Theo World Bank, xây dựng Nhà nước kiến tạo cần tập trung vào ba điểm sau (WB, 1997), (WB, 2000): - Thứ nhất, hệ thống luật pháp và quy định trong khu vực công, trong đó bao gồm sự chia sẻ quyền lực, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, các quy định về chi tiêu ngân sách trong các tổ chức thuộc khu vực công, các nguyên tắc và sự giám sát nội bộ và văn hóa của các tổ chức chính quyền. - Thứ hai, cơ chế khuyến khích tiếng nói và sự tham gia của người dân dưới nhiều hình thức khác nhau của cơ chế biểu quyết đại diện cũng như sự tham gia trực tiếp của người dân và xã hội dân sự. - Thứ ba, các cơ chế khuyến khích cạnh tranh, bao gồm cạnh tranh về mặt chính trị (ví dụ như giữa các vùng, các đảng phái), cạnh tranh giữa các cơ quan thuộc khu vực công và giữa khu vực công với khu vực tư nhân trong cung cấp hàng hóa, dịch vụ và 272 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA thông tin, thậm chí là cạnh tranh trong nội bộ từng cơ quan thuộc khu vực công. CEC (2001) đưa ra cách tiếp cận khá gần gũi với định nghĩa mà các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhưng tập trung chủ yếu vào khía cạnh quản trị hành chính nhà nước (một trong ba hướng tiếp cận của UNDP). Theo đó, một Nhà nước kiến tạo được định hình dựa trên 5 đặc điểm: Tính mở (Openness), sự tham gia (participation), tính giải trình (accountability), tính hiệu quả (effectiveness) và sự nhất quán (coherence). Cụ thể: - Thứ nhất, “tính mở”: các tổ chức nên làm việc dưới một hệ thống mở và sử dụng ngôn ngữ một cách dễ hiểu, dễ tiếp cận đối với đại bộ phận công chúng. - Thứ hai, “tính tham gia”: các chính sách của Chính phủ chỉ có thể có hiệu quả, có chất lượng và phản ánh nhu cầu của người dân khi nó đảm bảo sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp công chúng xuyên suốt quy trình chính sách. - Thứ ba, “tính giải trình” hay tính trách nhiệm chính trị: vai trò của các cơ quan lập pháp cũng như hành pháp cần phải rõ ràng hơn. Mỗi cơ quan nhà nước cần phải giải thích và nhận trách nhiệm trước công chúng với những gì mà họ làm. - Thứ tư “tính hiệu quả”: các chính sách cần đảm bảo sự hiệu quả và kịp thời, được đưa ra và thực thi đáp ứng được nhu cầu của người dân, có mục tiêu rõ ràng, có đánh giá về những tác động trong tương lai cũng như xem xét và học hỏi được từ những kinh nghiệm đã có. - Thứ năm “tính nhất quán”: giữa chính sách và hành động phải có sự gắn kết chặt chẽ, nhất quán với nhau. Một Nhà nước kiến tạo đòi hỏi sự “tham gia” của tất cả cộng đồng và xã hội. Sự tham gia ở đây hàm ý, tất cả những bên có liên quan về mặt lợi ích và chịu tác động của chính sách đều phải có sự tham gia một cách chủ động vào quy trình chính sách. Sự đồng thuận hàm ý tất cả các cá nhân phải đạt được sự đồng thuận để thông qua quyết định chính sách phục vụ tốt nhất cho lợi ích của toàn xã hội. Xã hội phải điều hành trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật, trong đó công chúng bao gồm cả chính quyền đều phải tuân thủ luật pháp, trong đó các quyền hạn của chính quyền phải được quy định trong luật pháp và phải nằm trong một giới hạn nhất định. Như vậy, có thể thấy rằng trải qua quá trình tranh luận và phát triển, quan niệm về Nhà nước kiến tạo đã không ngừng được mở rộng và hoàn thiện theo thời gian, trong đó xem xét một cách toàn diện các yếu tố của một Nhà nước quản trị tốt trên cả ba chiều hướng, về kinh tế, về chính trị và quản trị hành chính nhà nước. 273 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng 5. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG LUẬT PHÁP HỖ TRỢ CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN PHÁT TRIỂN Môi trường thể chế chính trị là một trong những nguyên tố vĩ mô tạo nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, thể chế chính sách thuận lợi góp phần quan trọng trong thành công của mỗi doanh nghiệp. Chính phủ kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp là việc làm cần thiết. Ngược lại, vai trò của các thành phần kinh tế cũng hết sức quan trọng trong việc xây dựng, ban hành và thực thi chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Do đó, vai trò và tiếng nói của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân cần phải được nhìn nhận rõ nét và cụ thể trong xây dựng và phát triển Chính phủ kiến tạo. Bởi lẽ một khi hai nội dung trên được thiết lập, duy trì và môi trường kinh doanh được cải thiện thì khu vực KTTN là thành phần đầu tiên và trực tiếp hưởng lợi từ những thay đổi trong môi trường thể chế chính sách. Suy cho cùng mối quan hệ giữa doanh nghiệp, môi trường kinh doanh và Chính phủ kiến tạo là mối quan hệ đa chiều. Theo Trần Nguyễn Tuyên (2018), sau gần 5 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp (năm 2005), cả nước có gần 108.300 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên khoảng 150.000, tăng gấp gần 2 lần so với 9 năm trước đây (1991 - 1999); tổng số vốn đăng ký đạt hơn 302.250 tỷ đồng (tương đương 18 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ). Đặc biệt làn sóng khởi nghiệp mới đã hình thành sau thực thi Luật Doanh nghiệp mới (năm 2014), và Luật Đầu tư (năm 2014), đặc biệt trong năm 2016 và 2017 cùng với cam kết của Thủ tướng Chính phủ quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển và hành động quyết liệt đã tạo xung lực mới cho kinh tế tư nhân phát triển. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng ở mức ấn tượng, riêng năm 2016 là hơn 110.000 doanh nghiệp. Trong năm 2017, số liệu thống kê cho thấy có 127.000 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB - 2016) đánh giá Việt Nam là một trong những quốc gia đang thực hiện cuộc cải cách cho hoạt động các doanh nghiệp, vì đã có những cải cách trong đăng ký kinh doanh, có Luật Phá sản mới và Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp thống nhất trên cơ sở Luật Doanh nghiệp nhà nước và Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư chung trên cơ sở thống nhất giữa Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Đầu tư nước ngoài. Tính tổng thể, khu vực kinh tế tư nhân thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, đóng góp khoảng 39 - 40% GDP của cả nước, trong đó theo thống kê phần lớn đóng góp này từ khu vực kinh tế cá thể (30%) và chỉ khoảng 9 - 10% GDP từ các doanh nghiệp tư nhân. 274 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Biểu đồ 2: Đóng góp của các khu vực kinh tế vào tăng trưởng GDP năm 2017 Nguồn: Tổng cục Thống kê Những thông tin đăng tải trên Tạp chí Thời báo kinh tế Việt Nam (2018)2, lần thứ ba liên tiếp trong vòng một năm, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ra Chỉ thị Hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp với các yêu cầu ngày càng cụ thể hơn, quyết liệt hơn và cũng là sự thể hiện rõ công việc này, nói như Thủ tướng, là “cuộc đua đường trường”. Theo đó, Chỉ thị vừa được ban hành về tiếp tục đẩy mạnh triển khai, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35 và Chị thị số 26 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Theo ông Nguyễn Văn Phụng (2017), chính sách thuế hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân được thể hiện trên các mặt sau đây: - Thứ nhất, ngay từ khi các văn bản pháp luật thuế lần đầu tiên được ban hành vào những năm 1990, các quy định về thuế của Việt Nam đã được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Cùng một hoạt động kinh doanh, cùng một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đều được áp dụng thống nhất một mức thuế suất và cơ sở tính thuế. - Thứ hai, khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành, các chính sách ưu đãi thuế được mở rộng áp dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân và được quy định ngay trong Luật. - Thứ ba, chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí được thiết kế, xây dựng và áp dụng trong thực tiễn ở mức hợp lý, phù hợp với khả năng đóng góp của người dân và các doanh nghiệp. - Thứ tư, trong quá trình thực hiện, hệ thống chính sách thuế, phí và lệ phí được 2 Cuộc đua đường trường vì doanh nghiệp, Thời báo Kinh tế Việt Nam số 58, ngày 8/3/2018. 275 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng sửa đổi bổ sung phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; góp phần chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia; Khuyến khích thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; Thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn đối với sản phẩm, hàng hóa được sản xuất trong nước phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế. - Thứ năm, Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế tạo nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp giảm bớt được nhiều thủ tục, giảm thời gian khai thuế từ gần 1.000 giờ đến cuối năm 2016 giảm xuống chỉ còn 110 giờ, trong đó khu vực kinh tế tư nhân được hưởng lợi nhiều nhất. Việc bãi bỏ quy định về đăng ký tài khoản của người bán trong việc doanh nghiệp kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào (tại Thông tư số 173/2016/TT-BTC ngày 28/10/2016); bỏ quy định đăng ký mẫu 06/GTGT đối với các doanh nghiệp mới thành lập sau 01 năm có nhu cầu tiếp tục nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (Thông tư số 93/2017/TT-BTC ngày 19/9/2017) được cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp khởi nghiệp phấn khởi, đánh giá cao. - Thứ sáu, triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định các chính sách cụ thể cần hỗ trợ, đồng thời phân công trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc thực thi các chính sách, giải pháp. Trong khung khổ của pháp luật hiện hành, doanh nghiệp loại này được ưu đãi, tạo thuận lợi tối đa trong việc giảm nhẹ các thủ tục về đăng ký thuế, khai thuế và thực hiện chế độ kế toán cùng với việc được trợ giúp miễn phí trong việc đào tạo, tư vấn, hỗ trợ về lệ phí môn bài trong giai đoạn khởi sự đến 3 năm. Trong thời gian qua, Bộ Tài chính đang triển khai công tác chủ trì nghiên cứu, soạn thảo, tham vấn ý kiến rộng rãi của các cơ quan, ban ngành, cộng đồng doanh nghiệp. Chính phủ cũng đang “quyết liệt” gỡ khó cho doanh nghiệp tư nhân cụ thể như Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng khẳng định, giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, cả chi phí chính thức và không chính thức. Trong đó có các giải pháp giảm chi phí đường bộ qua trạm BOT, giảm phí hạ tầng công cộng, khu vực cảng, giảm tỷ lệ lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành khi thông quan từ 30 - 35% xuống còn 15% khi xuất nhập khẩu. Bộ Công Thương quyết định cắt giảm hơn 50% điều kiện kinh doanh của Bộ là bước đi cụ thể của việc giảm chi phí cho doanh nghiệp. Việc cắt giảm thủ tục tạo thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, qua đó đầu tư vào sản xuất kinh doanh. 276 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 6. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO DỠ BỎ RÀO CẢN PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Doanh nghiệp tư nhân là một trong những thành phần quan trọng trong phát triển của một quốc gia. Trong mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã thực hiện thành công cũng thể hiện các chính sách phát triển của các doanh nghiệp tư nhân. Các Chính phủ đều quan tâm định hướng phát triển khu vực tư nhân trong mối quan hệ chặt chẽ với vai trò của Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước. Các chính sách hỗ trợ phát triển đối với doanh nghiệp tư nhân được các quốc gia thực hiện thông qua các chính sách về tài chính và nguồn nhân lực. Theo Wang (2016), đối với các nước đang phát triển, một trong những trở ngại lớn nhất đối với phát triển của doanh nghiệp tư nhân chính là tiếp cận nguồn vốn. Hơn nữa, vấn đề này được quan tâm giải quyết ở các nước có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,... Do đó, đây cũng là bài học để các nước đang phát triển có thể vận dụng và phát triển mô hình Nhà nước kiến tạo nhằm tháo gỡ được rào cản phát triển cho các doanh nghiệp tư nhân. Singapore đã xây dựng được một Chính phủ kiến tạo mạnh. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế nhưng không can thiệp vào các hoạt động cụ thể; đề cao tinh thần trách nhiệm của cả Nhà nước và doanh nghiệp, hạn chế đến mức tối đa nạn quan liêu, tham nhũng và lũng đoạn của tư bản nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước cũng được quản lý chặt chẽ theo các nguyên tắc thị trường. Singapore là mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển có nét khác biệt với sự kết hợp hiệu quả thương mại và đầu tư tự do với khu vực doanh nghiệp nhà nước lớn. Ngoài ra, các cải cách trợ cấp năng lượng táo bạo đã được ban hành để mang lại giá năng lượng gần với mức hồi phục chi phí và giảm bớt sự biến dạng của sản xuất kết cấu. Các biện pháp cải cách cũng đã được giới thiệu để tăng cường môi trường kinh doanh, bao gồm cơ chế giải quyết tranh chấp, cải thiện Luật Cạnh tranh, Luật mới về Tài chính vi mô, Tài nguyên khoáng sản và cam kết về tài sản di động, mở cửa thị trường gas và điện cho những người mới tham gia, điều tiết các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro tập trung nhất định trong hệ thống ngân hàng và cải cách lập pháp trong lĩnh vực phi ngân hàng. Ngoài ra, có một số sáng kiến gần đây đã được giới thiệu để cải thiện khả năng tiếp cận tài chính; cải tiến lớn đối với cơ sở hạ tầng, sẽ cung cấp cải thiện điều kiện đầu tư của khu vực tư nhân trong các ngành công nghiệp liên quan đến thương mại (European Bank for Restructional Development, 2017). Nhận diện một số vai trò của Nhà nước/Chính phủ kiến tạo phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam được thể hiện thông qua việc: 277 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng (i) Cải cách bộ máy Chính phủ tạo bước phát triển kinh tế; (ii) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực trình độ đáp ứng yêu cầu chính phủ kiến tạo; (iii) Nâng cao chất lượng thể chế, coi đó là một trong những yếu tố nền móng căn bản cho toàn bộ công cuộc phát triển; (iv) Thiết kế chính sách cần phải có tầm nhìn trên cơ sở nhìn xa, trông rộng; (v) Cải cách thủ tục hành chính tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế bền vững; (vi) Tái cấu trúc nền kinh tế, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhằm mục đích đảm bảo chuyên sâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả; (vii) Phân cấp cho chính quyền địa phương để giải quyết các công việc trật tự an ninh, phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu của nhân dân địa phương. 7. KẾT LUẬN Chính phủ kiến tạo là Chính phủ sẵn sàng, năng động trong cung ứng dịch vụ công đối với phát triển doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp là người thụ hưởng dịch vụ, cung là người “cầu” dịch vụ này. Muốn dỡ bỏ rào cản phát triển doanh nghiệp tư nhân, Chính phủ trung ương cũng như chính quyền địa phương phải cung cấp một dịch vụ công tích cực, thuận tiện, nhiều trợ lực giúp doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận các nguồn lực phát triển. Chất lượng dịch vụ thường được đánh giá qua sự hài lòng của khách hàng đối với tổ chức. Sự hài lòng là cảm giác vui thích hoặc thất vọng của một người bắt nguồn từ sự so sánh cảm nhận với mong đợi về chất lượng một sản phẩm hoặc một dịch vụ nào đó. Sự hài lòng là mức độ của trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh nhận thức về một sản phẩm so với mong đợi của người đó. Tầm quan trọng của việc nâng cao sự hài lòng của người dân/doanh nghiệp đối với dịch vụ hành chính của một cơ quan, tổ chức công quyền là nền tảng, động lực để khu vực công tiến hành các hoạt động thường xuyên của mình, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước. Cải thiện môi trường, thủ tục hành chính, nâng cao sự hài lòng của các doanh nghiệp về dịch vụ công,... là những vấn đề của Nhà nước kiến tạo giúp các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Với vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, doanh nghiệp tư nhân đang từng bước phát triển trên cơ sở hỗ trợ của Nhà nước kiến tạo. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Sigapore,... có thể giúp Việt Nam có những bước đột phá trong việc xây dựng Nhà nước kiến tạo, Chính phủ liêm chính nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp tư nhân. 278 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2017), Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, truy cập ngày 30.9.2018, từ https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/16850/ nghi-quyet-trung-uong-5-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan 2. CEC. (2001). Promoting a European framework for Corporate Social Responsibility. Commission of the european communities. 3. Chang, H.-J. (2010). How to’do’a developmental state: political, organisational and human resource requirements for the developmental state. Constructing a democratic developmental state in South Africa: Potentials and challenges, 82-96. 4. Chính phủ (2017, Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 3/10/2017 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990-2016), Văn kiện các Đại hội lần thứ VI, X và XII. Nxb Chính trị Quốc gia. 6. Đinh Minh Tuấn và Phạm Thế Anh (2016), Từ Nhà nước điều hành sang Nhà nước kiến tạo phát triển, Nxb. Tri thức, Hà Nội 7. European Bank for Restructional Development. (2017). Egypt Private Sector Diagnostic 8. European commission. (2017). Investment in the EU Member States, An Analysis of Drivers and Barriers. European commission. 9. Hà Thị Minh Hiền, Nguyễn Thanh Toán (2017), “Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay’’, tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, 6/2017, trang 66-68. 10. Ngô Thị Ngọc (2018), “Kinh tế tư nhân - yếu tố nòng cốt cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam?’’, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Kinh tế Việt Nam năm 2017 và triển vọng năm 2018 với chủ đề tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển doanh nghiệp, Hà Nội, 2018. 11. Nguyễn Hồng Sơn (2017), “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: những rào cản và giải pháp khắc phục’’, bài viết được thực hiện dựa trên Đề án: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, Nhóm nghiên cứu của trường ĐH Kinh tế - ĐH Quốc Gia Hà Nội thực hiện vào tháng 3/2017. 12. Nguyễn Kế Tuấn (2018), “Phát huy vai trò động lực quan trọng của kinh tế tư nhân trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội’’, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Kinh tế Việt Nam năm 2017 và triển vọng năm 2018 với chủ đề tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển doanh nghiệp, Hà Nội, 2018. 279 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019 Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng 13. Nguyễn Ngọc Sơn (2016), “Động lực để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình’’, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Động lực phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2035, Hà Nội, 2016. 14. Nguyễn Thị Liên Hương (2018), “Kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2015 - 2017’’, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Kinh tế Việt Nam năm 2017 và triển vọng năm 2018 với chủ đề tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển doanh nghiệp, Hà Nội. 15. Nguyễn Văn Thắng (2016), “Khu vực kinh tế tư nhân - động lực quan trọng của quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Động lực phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2035, Hà Nội. 16. OECD (1995). Participatory Development and Good Governance. The Organization of Economic Cooperation and Development. 17. Trần Kim Chung (2017), “Vai trò của khu vực KTTN trong mô hình phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn 2035’’, Tạp chí Quản lý Kinh tế số 80, trang 4 - 13. 18. Trần Kim Chung, Tô Ngọc Phan (2018), Vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế Việt Nam, truy cập tại tai-chinh-doanh-nghiep/vai-tro-dong-luc-cua-kinh-te-tu-nhan-trong-phat-trien-kinh-te- viet-nam-134872.html ngày 30/9/2018. 19. UNDP (1997). Governance for Sustainable Human Development. United Nations Development’s Program. 20. Wang, Y. (2016). What are the biggest obstacles to growth of SMEs in developing countries? e An empirical evidence from an enterprise survey. Borsa Istanbul Review, 16(3), 167 - 176. 21. World Bank. (1997). The state in a changing world. World Bank. 22. World Bank. (1992). Governance and development. World Bank. 23. World Bank. (2000). Reforming Public Institutions and Strengthening Governance.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxay_dung_nha_nuoc_kien_tao_nham_do_bo_cac_rao_can_phat_trien.pdf
Tài liệu liên quan