Dù định hướng của Đề án đã có từ 7
năm trước nhưng vẫn sát đúng với tình hình
hiện nay. Đó là, về cơ bản (gần 75%) trong
số 5,5 triệu lao động nông thôn học nghề là
để chuyển sang việc làm phi nông nghiệp;
chỉ có 25% lao động học nghề là để tiếp tục
làm nghề nông nghiệp nhưng ở những trình
độ cao hơn. Cơ quan chức năng về dạy nghề
cần cụ thể hóa thành kế hoạch từng năm,
từng vùng, miền, từng ngành nghề và từng
hình thức đào tạo tương thích để đạt được
hiệu quả như định hướng của Đề án.
- Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành:
Như đã nói, trước hết, cần xem xét
điều chỉnh Bộ tiêu chí quốc gia cho giai
đoạn 2016 - 2020 phù hợp hơn với điều kiện
của các vùng, miền. Trong chỉ đạo, điều
hành thực hiện phải gắn chặt các tiêu chí với
nhau, đặc biệt là phải gắn các tiêu chí thuộc
lĩnh vực lao động và xã hội (tiêu chí 10: Thu
nhập; tiêu chí 11: Hộ nghèo và tiêu chí 12:
Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên)
với các tiêu chí có tính chất sản xuất (tiêu
chí 13: Hình thức tổ chức sản xuất, tiêu chí
1: Quy hoạch, tiêu chí 2: Giao thông, tiêu
chí 3: Thủy lợi.) vì tổ chức sản xuất và tổ
chức lao động bao giờ cũng diễn ra đồng
thời và gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong một
mức độ nhất định, phải coi các tiêu chí lao
động và xã hội là “đích đến” của Chương
trình xây dựng nông thôn mới, bởi vì mục
tiêu tối thượng của xây dựng nông thôn mới
được xác định là “.đời sống vật chất và tinh
thần của người dân (nông thôn) ngày càng
được nâng cao”. Người lao động được đào
tạo, có việc làm ổn định và có thu nhập ngày
càng cao, trở thành khá giả, đó là điều kiện,
là cốt cách vật chất của một nông thôn mới
ấm no, hạnh phúc.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: 
Chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới thực chất là một 
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tổng thể, toàn diện và lâu dài; 
là Chương trình thực hiện các nội dung cụ thể công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa nông nghiệp, nông thôn; là việc tổ chức lại sản xuất, tổ chức 
và phân công lại lao động nông thôn. Đi liền theo đó là xóa nghèo bền 
vững, nâng cao mức sống nhân dân. Bài viết dưới đây bước đầu đánh 
giá những thành công và chỉ ra những hạn chế cần khắc phục, đồng 
thời đề xuất một số kiến nghị trong việc xây dựng nông thôn mới gắn 
với tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020.
Nguyễn Thị Thục Nguyên*
Abstract: 
The targeted Programme for new rural construction is essentially a 
comprehensive, long-term program of socio-economic development 
programme; is also a program on the implementation of specific 
contents of industrialization and modernization of agriculture and 
rural areas; which is the reorganization of production, arrangment and 
re-allocation of rural labors. It is followed by the sustainable poverty 
reduction, the improvement of people's living standards. This article 
provides initial assessments of the successes and also addresses the 
shortcomings that need to be overcome, and provides suggestions 
and recommendations for new rural construction in connection with 
agricultural restructuring in the 2016-2020 period.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: nông nghiệp, nông dân, 
nông thôn; nông thôn mới; tái cơ 
cấu nông nghiệp; tích tụ ruộng đất.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 27/09/2017
Biên tập: 27/10/2017
Duyệt bài: 07/11/2017
Article Infomation:
Keywords: agriculture, farmers, 
rural areas; new rural; agriculture 
restructure; land accumulation.
Article History:
Received: 27 Sep. 2017
Edited: 27 Oct. 2017
Appproved: 07 Nov. 2017
* Văn phòng Quốc hội
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GẮN VỚI TÁI CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP
Ngày 5/8/2008, Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã ban hành Nghị quyết 26-NQ/TW 
về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đây 
là một Nghị quyết có tầm chiến lược hết sức 
quan trọng. Nghị quyết khẳng định, “Nông 
nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến 
lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ 
sở và lực lượng quan trọng để phát triển 
kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định 
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ 
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo 
vệ môi trường sinh thái của đất nước”. 
CHÑNH SAÁCH
47Số 22(350) T11/2017
Để thực hiện Nghị quyết, Chính phủ 
đã xây dựng Chương trình mục tiêu quốc 
gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 
2010-2015) gắn với tái cơ cấu ngành nông 
nghiệp. 
Sau 5 năm thực hiện Chương trình, 
Chính phủ đã hình thành bộ máy chỉ đạo và 
tham mưu giúp việc từ trung ương đến cơ 
sở hoạt động rất hiệu quả. Trong thời gian 
đó, Chính phủ đã ban hành được 18 Quyết 
định, 03 chỉ thị và văn bản chỉ đạo; các Bộ, 
ngành đã ban hành 35 Quyết định, 34 Thông 
tư, văn bản hướng dẫn thực hiện các cơ chế 
chính sách, nội dung chương trình, đồng 
thời chủ động rà soát và điều chỉnh các quy 
định, văn bản hướng dẫn chuyên ngành cho 
phù hợp với thực tế1 Cũng trong 5 năm, 
Chương trình khoa học và công nghệ phục 
vụ xây dựng nông thôn mới đã triển khai 
được 40 nhiệm vụ, gồm 26 đề tài và 14 dự 
án, góp phần bổ sung, hoàn thiện cơ sở lý 
luận của mô hình nông thôn mới ở nước ta, 
làm rõ thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở 
nước ta, chuyển giao được 105 công nghệ 
vào sản xuất Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, 
chính sách đã được ban hành như: chính 
sách về quản lý đất lúa, hỗ trợ chuyển đổi từ 
lúa sang đất trồng hoa màu, tái canh cà phê, 
hỗ trợ phát triển chăn nuôi nông hộ, thủy 
sản, chính sách tín dụng, thuế với nhiều ưu 
đãi cho nông nghiệp, nông thôn Đặc biệt, 
có nhiều tỉnh, thành phố, địa phương đã chủ 
động ban hành các chính sách hỗ trợ đặc thù, 
tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện 
xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Đáng 
chú ý là chính sách cấp xi măng, ống cống 
để người dân tự làm đường; chính sách hỗ 
trợ dồn điền, mua máy móc công nghiệp; 
chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư phát 
triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công 
nghệ cao
1 Các số liệu trong bài được lấy từ Báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng 
nông thôn mới (giai đoạn 2010-2015) gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp” của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại kỳ 
họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV ngày 31/10/2016.
1. Một số kết quả chủ yếu
1.1 Kết quả chung 
Tính đến tháng 3 năm 2016, cả nước đã 
có 1.761 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 
19,7% tổng số xã của cả nước. Có 1.223 
xã đạt từ 15 đến 18 tiêu chí, chiếm 13,7% 
tổng số xã (đây là những xã có triển vọng 
đạt chuẩn trong các năm tới). Có 27 đơn vị 
cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ quyết 
định công nhận chuẩn nông thôn mới2. Nếu 
xét theo từng tiêu chí thì có nhiều tiêu chí 
đạt kết quả khá cao như Quy hoạch có đến 
98,74% tổng số xã trong cả nước đã đạt tiêu 
chí này, Điện 82,38%, Bưu điện 90,90%, lao 
động có việc làm thường xuyên 85,48%, An 
ninh trật tự xã hội 93,70%... Các xã đã đạt 
chuẩn nông thôn mới thu nhập bình quân 
đầu người đã tăng từ 16,0 triệu đồng năm 
2011 lên 28,4 triệu đồng năm 2015... Nguồn 
vốn để thực hiện Chương trình này trong 5 
năm là 851.380 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách 
nhà nước (bao gồm cả các chương trình, dự 
án khác phục vụ xây dựng nông thôn mới) 
là 266.785 tỷ đồng (chiếm 31,34%), vốn 
tín dụng là 434.950 tỷ đồng (chiếm 51%), 
huy động từ doanh nghiệp là 42.198 tỷ đồng 
(chiếm 4,9%), người dân và cộng đồng đóng 
góp là 107.447 tỷ đồng (chiếm 12, 62%). 
Riêng ngân sách nhà nước hỗ trợ trực tiếp 
cho Chương trình là 98.664 tỷ đồng (chiếm 
11,59%), trong đó ngân sách trung ương 
là 16.400 tỷ đồng, ngân sách địa phương 
các cấp là 82.264 tỷ đồng. Quốc hội cũng 
đã phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ cho 
Chương trình giai đoạn 2014-2016 15.000 
tỷ đồng. Như vậy, đầu tư công cho Chương 
trình xây dựng nông thôn mới là khá lớn 
(khoảng 1/3 tổng đầu tư).
Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành 
nông nghiệp (được ban hành từ tháng 6 năm 
CHÑNH SAÁCH
48 Số 22(350) T11/2017
2013) ngành nông nghiệp đã duy trì được 
tốc độ tăng trưởng khá (giá trị ngành trồng 
trọt năm 2013 tăng 3,0%, năm 2014 tăng 
3,2%). Năng suất, chất lượng và giá cả nhiều 
loại sản phẩm đã được nâng cao. Chăn nuôi 
đã từng bước chuyển dần từ hình thức nhỏ 
lẻ, phân tán sang hình thức tập trung gia trại, 
trang trại. Thủy sản cũng đã được cơ cấu 
lại hợp lý hơn giữa đánh bắt với nuôi trồng 
và chế biến, tăng tỷ trọng nuôi trồng những 
sản phẩm chủ lực; tổ chức lại dịch vụ hậu 
cần nghề cá, nâng cao hiệu quả khai thác và 
giảm tổn thất sau thu hoạch., Giá trị sản xuất 
lâm nghiệp tăng mạnh (các năm 2013-2014 
tăng 6,57%/năm, năm 2015 tăng 7,9%). Giá 
trị xuất khẩu lâm sản các năm 2013-2014 đạt 
gần 6,3 tỷ USD/năm, năm 2015 đạt 7,1 tỷ 
USD. Về cơ giới hóa sản xuất, năm 2015 
so với năm 2011 số lượng máy móc, thiết bị 
phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng cao (máy 
cấy lúa tăng 10 lần, máy kéo các loại tăng 
1,1 lần, máy phun thuốc trừ sâu có động 
cơ tăng 1,24 lần, máy gặt đập lúa liên hợp 
tăng 1,54 lần...). Sau khi đăng ký lại theo 
Luật Hợp tác xã năm 2012, nhiều hợp tác 
xã hoạt động có hiệu quả hơn, tổ chức sản 
xuất, tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng 
liên doanh, liên kết, tham gia vào chuỗi giá 
trị nông nghiệp mang lại hiệu quả tích cực.
1.2 Kết quả nhìn từ góc độ lao động 
Ngoài thành tựu 85,48% tổng số xã 
đạt tiêu chí “Lao động có việc làm thường 
xuyên” thì một số kết quả sau đây rất đáng 
khích lệ:
- Hộ nghèo khu vực nông thôn đã giảm 
từ 17,4% năm 2011 xuống 8,2% năm 2015 
(bình quân giảm 1,84%/năm). Tỷ lệ hộ nghèo 
ở các huyện nghèo giảm từ 50,07% năm 2011 
xuống dưới 28% năm 2015. Đáng lưu ý là, 
có khoảng 60.000 hộ nghèo có người tham 
gia học nghề và có việc làm ổn định nên đã 
2 Nguồn: Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm 2011-2015; Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2016, tr. 105.
3 Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm 2011-2015; tlđd.
4 Nguồn: Năng suất lao động Việt Nam: Thực trạng và giải pháp; Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2016, tr.15.
thoát nghèo; gần 100.000 hộ có người tham 
gia học nghề và có việc làm với mức thu nhập 
cao hơn mức trung bình tại địa phương, trở 
thành hộ khá. Riêng các xã đạt chuẩn nông 
thôn mới, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 11,6% năm 
2011 xuống còn 3,6% năm 2015.
- Do chuyển đổi ngành nghề, từng 
bước phân công lại lao động; do ứng dụng 
cơ giới hóa nông nghiệp mà nhu cầu học 
nghề trong nông thôn đã tăng nhanh chóng. 
Trong các năm 2010-2015, đã có 4,1 triệu 
lao động nông thôn được đào tạo nghề, số 
có việc làm sau đào tạo đạt tới 78%, đưa tỷ 
lệ lao động xã hội đã qua đào tạo từng bước 
được nâng cao. Từ năm 2011 đến năm 2015, 
tỷ lệ lần lượt qua các năm là 43,0%, 45,2%, 
47,4%, 49,0% và 51,6%. Trong đó, số lao 
động có chứng chỉ, có bằng cấp qua các năm 
nói trên là 15,4%, 16,6%, 17,9%, 18,2% và 
19,9%2. 
- Việc chuyển đổi ngành nghề, phân 
công lại lao động, thay đổi “địa chỉ” làm 
việc của đông đảo lao động nông nghiệp đã 
thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu lao 
động giữa các khu vực theo xu hướng tiến 
bộ (chuyển dần lao động nông nghiệp sang 
các khu vực xây dựng, công nghiệp và dịch 
vụ). Năm 2010, lao động công nghiệp, xây 
dựng từ 21% đã tăng lên 22,8% và lao động 
dịch vụ từ 22,95% tăng lên 33,2%3. 
- Năng suất lao động các lĩnh vực kinh 
tế (tính chung toàn xã hội) tăng lên rõ rệt: 
nông, lâm, thủy sản năm 2010 mới đạt 16,8 
triệu đồng/lao động (theo giá hiện hành) 
thì năm 2015 đã đạt tới 31,1 triệu đồng/lao 
động (tăng 85,1%). Tương tự như vậy, công 
nghiệp và xây dựng từ 83,3 triệu đồng tăng 
lên 133,6 triệu đồng/lao động (tăng 63,6%). 
Dịch vụ từ 63,8 triệu đồng tăng lên 106,6 
triệu đồng/lao động (tăng 67,0%)4... 
CHÑNH SAÁCH
49Số 22(350) T11/2017
2. Những hạn chế cần khắc phục
- Cả nước được chia ra 6 vùng kinh tế, 
cũng là 6 vùng địa lý có thời tiết, khí hậu, 
điều kiện tự nhiên, đất đai, thổ nhưỡng khác 
nhau; khó khăn, thuận lợi, mặt bằng kinh 
tế cũng rất khác nhau, nhưng lại cùng thực 
hiện chung một “Bộ 19 tiêu chí” như nhau 
(chưa nói đến các yếu tố chỉ đạo, tổ chức 
thực hiện, mức độ hỗ trợ vốn) nên tất yếu 
dẫn đến kết quả đạt được cũng chênh lệch, 
rất khác nhau. Trong khi số xã đạt chuẩn 
nông thôn mới thuộc đồng bằng sông Hồng 
là 42,8%, Đông Nam bộ đạt 46,4% thì đồng 
bằng sông Cửu Long chỉ đạt 16,7%, Tây 
Nguyên đạt 13,2%, miền núi phía Bắc chỉ 
đạt 8,2%. Tình hình này đặt ra vấn đề là phải 
tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh Bộ tiêu chí 
sao cho hợp lý, khách quan, thực tế nhất. 
- Vẫn còn không ít địa phương quá 
thiên về xây dựng cơ sở hạ tầng (cả hạ tầng 
sản xuất và hạ tầng xã hội) như giao thông, 
thủy lợi, chợ, nhà văn hóa, trụ sở... nên đã 
huy động vốn quá sức dân, dẫn đến tình 
trạng một số xã được công nhận là xã nông 
thôn mới nhưng dân tình không mấy phấn 
khởi. Tình trạng nợ đọng vốn xây dựng cơ 
bản rất phổ biến. Hiện có 53/63 tỉnh, thành 
phố trong cả nước nợ đọng với số tiền lên 
đến 15.277 tỷ đồng, cá biệt có địa phương 
mất khả năng thanh toán, gây dư luận không 
tốt trong nhân dân các địa phương đó. Ngay 
các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới thì số 
nợ đọng cũng chiếm tới 46,9% tổng số tiền 
nợ đọng trong cả nước. Việc huy động quá 
sức dân, việc nợ đọng vốn ít nhiều đã ảnh 
hưởng đến việc thực hiện các tiêu chí tăng 
thu nhập của người dân, tạo nên khó khăn 
cho việc giảm nghèo bền vững.
- Việc tổ chức sản xuất theo mô hình 
tập thể, hợp tác xã đóng vai trò rất quan 
trọng trong công cuộc xây dựng nông thôn 
mới. Điều đó thể hiện rõ nét trong việc thực 
hiện các hoạt động dịch vụ, tạo điều kiện cho 
các thành viên, hộ nông dân chuyển dịch cơ 
cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ kỹ 
thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất 
lượng sản phẩm. Mặt khác, phương thức tổ 
chức đó còn đóng vai trò quan trọng trong 
liên kết theo chuỗi giá trị, là cầu nối hiệu quả 
giữa doanh nghiệp với nông dân. Song việc 
chuyển đổi và đăng ký lại hợp tác xã theo quy 
định của Luật Hợp tác xã năm 2012 diễn ra 
còn chậm chạp (đến 01/7/2016 mới có 9.189 
hợp tác xã tiến hành chuyển đổi, bằng 64% 
tổng số hợp tác xã cần chuyển đổi, đăng ký 
lại). Bởi vậy, lao động nông thôn về cơ bản 
vẫn trong tình trạng làm ăn nhỏ lẻ, phân tán; 
rất khó phân bố lại lao động, rất khó chuyển 
đổi nghề nghiệp, rất khó chuyển dịch cơ cấu 
lao động với tốc độ và cấp độ cao hơn như 
mong muốn...
Các khiếm khuyết nói trên nhất thiết 
phải nhanh chóng được khắc phục trong thời 
gian tiếp theo.
3. Một số kiến nghị trong việc xây dựng 
nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành 
nông nghiệp giai đoạn 2016-2020
Chương trình mục tiêu xây dựng nông 
thôn mới thực chất là một Chương trình phát 
triển kinh tế - xã hội tổng thể, toàn diện và 
lâu dài; là Chương trình thực hiện các nội 
dung cụ thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
nông nghiệp, nông thôn; là việc tổ chức lại 
sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động 
nông thôn. Đi liền theo đó là xóa nghèo bền 
vững, nâng cao mức sống nhân dân. Chính 
vì vậy mà trong giai đoạn tới (2016-2020), 
công tác lao động và xã hội càng phải gắn 
bó chặt chẽ hơn với Chương trình mục tiêu 
quốc gia xây dựng nông thôn mới. 
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết 
26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân và 
nông thôn của Đảng, xây dựng nông thôn 
mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, 
ngày 16/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký 
quyết định số 1600/QĐ-TTg, Ban hành kèm 
theo Quyết định này Chương trình mục tiêu 
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 
2016-2020.
Phát huy các thành tựu đã đạt được 
trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc 
CHÑNH SAÁCH
50 Số 22(350) T11/2017
gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 
2010-2015) gắn với tái cơ cấu ngành nông 
nghiệp, thực hiện tốt Chương trình mục tiêu 
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 
2016-2020, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
- Thực hiện giải pháp “tổng thể”: 
Đầu tiên là phải tổ chức lại sản xuất 
nông nghiệp, xây dựng một nền sản xuất 
lớn, đẩy nhanh quá trình phát triển các gia 
trại, trang trại, các hợp tác xã kiểu mới, các 
doanh nghiệp nông nghiệp. Sớm loại bỏ “mô 
hình” sản xuất nông hộ riêng lẻ mỗi lao động 
tự cày xới trên một, hai sào đất; mỗi nhà 
nuôi dăm ba con gà, ba bốn con lợn với vốn 
liếng không có bao nhiêu (đây là một nền 
sản xuất đầy mâu thuẫn, đâu tư thì thấp mà 
rủi ro thì cao; sản xuất thì nhỏ mà điều kiện 
thị trường thì lớn...). Muốn xây dựng một 
nền nông nghiệp sản xuất lớn thì phải tháo 
gỡ ngay các “điểm nghẽn”, các “nút thắt”, 
mà một trong những điểm nghẽn, nút thắt có 
tính chất bao trùm, đó là “hạn điền”. Theo 
Điều 129 Luật Đất đai năm 2013 thì hạn 
mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi 
trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia 
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất không quá 
03 héc ta cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành 
phố trực thuộc trung ương thuộc khu vực 
Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông 
Cửu Long; không quá 02 héc ta cho mỗi loại 
đất đối với tỉnh, thành phố khác. Nội dung 
điều luật này đã nhanh chóng lạc hậu vì quy 
định đó chỉ cho phép tiếp tục duy trì một 
nền sản xuất nông hộ, manh mún không còn 
động lực phát triển sau ba thập niên thực thi 
công cuộc đổi mới (tính đến thời điểm ban 
hành Luật Đất đai tháng 11/2013). Mặc dù 
khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai có cho phép, 
“hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất 
nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không 
quá mười lần hạn mức giao đất nông nghiệp 
của hộ gia đình, cá nhân đối với mỗi loại đất 
5 Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trước Quốc hội ngày 02/11/2016 thì hiện nay, đã 
có gia trại sản xuất lúa gạo xuất khẩu trên diện tích 120 héc ta ngay ở đồng bằng sông Hồng.
quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 129 
Luật này” thì quy định đó (dù gấp 10 lần 
hạn điền) cũng không còn phù hợp với chủ 
trương “dồn điền liền thửa” ở phạm vi quy 
mô lớn, không còn phù hợp với tích tụ ruộng 
đất để phát triển các trang trại, các doanh 
nghiệp nông nghiệp lớn5... khi tất cả các 
công đoạn từ làm đất, gieo mạ, nhổ mạ, cấy 
lúa, chăm bón cho tới thu hoạch, sấy khô, 
xay gạo, đóng bao, dán nhãn, giao hàng xuất 
đi đều đã được cơ giới hóa hoàn toàn. Ngay 
cả một số trang trại sản xuất chuối xuất khẩu 
canh tác trên 100 héc ta đất cũng hoạt động 
tương tự như vậy. Lao động ở các cơ sở sản 
xuất này được đào tạo, huấn luyện và được 
phân công, bố trí vào từng công đoạn khá 
hợp lý. Như vậy việc tích tụ ruộng đất (vượt 
hạn điền) đang là một yêu cầu cấp bách và 
hoàn toàn phù hợp với việc xây dựng một 
nền nông nghiệp sản xuất lớn; hoàn toàn phù 
hợp với yêu cầu tổ chức, phân công lại lao 
động nông nghiệp, nông thôn. Bởi vậy rất 
cần sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai nói chung 
và hạn điền nói riêng theo hướng không nhất 
thiết phải quy định hạn điền.
Cũng cần nói thêm là, trong quá trình 
tích tụ ruộng đất với mức vượt hạn điền, đã 
bắt đầu xuất hiện những tâm tư, những luồng 
ý kiến khác nhau. Đáng quan tâm nhất là hai 
loại ý kiến sau đây: Một là, đất đai nghìn đời 
nay là tài sản, là sinh kế của nông dân. Dù 
không có nhu cầu sử dụng nữa, họ vẫn “giữ 
đất phòng cơ” nên rất khó tích tụ. Để giải 
quyết vấn đề này, chúng ta phải thực hiện 
nhiều hình thức tích tụ như cho thuê đất; góp 
vốn kinh doanh bằng ruộng đất; mua bán, 
chuộc lại quyền sử dụng đất... Lao động 
trong độ tuổi ở những nơi đó, trước hết phải 
được thu hút làm công nhân nông nghiệp 
(thực tế, nhiều gia trại sản xuất lúa gạo xuất 
khẩu đã sử dụng từ 4 đến 6 lao động trên 
một héc ta với mức lương từ 3 đến 5 triệu 
đồng/tháng). Tiếp đến là bố trí lao động vào 
CHÑNH SAÁCH
51Số 22(350) T11/2017
các ngành nghề dịch vụ nông nghiệp, nông 
thôn và các ngành nghề phi nông nghiệp 
trên địa bàn. Đó cũng là biện pháp làm 
thông tư tưởng “giữ đất phòng cơ” của nông 
dân. Hai là, sẽ có nhiều người “cao tay” lợi 
dụng chính sách, thu gom hết đất đai rồi trở 
thành chủ đất. Thực ra, đã có nhiều chế tài 
để bảo đảm đất sản xuất nhất thiết phải được 
sử dụng vào sản xuất khi chưa được phép 
chuyển đổi mục đích sử dụng. Nếu là gia trại 
hay doanh nhân nông nghiệp, khi tiến hành 
kinh doanh bao giờ người ta cũng phải tính 
toán lỗ lãi, ít ai dám vượt ra ngoài khả năng 
điều hành, quản lý của mình để rồi thua lỗ. 
Thông thường người ta đi từ thấp đến cao và 
ổn định ở trình độ, năng lực, nguồn lực và 
khả năng quản lý của mình. Bởi vậy khó xảy 
ra tình trạng gom đất, tập trung đồng ruộng 
lại mà lại không sản xuất như một số dự án 
bất động sản hiện đang bị thu hồi.
- Thực hiện và nâng cao hiệu quả của 
Đề án 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 “Đào 
tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 
2020”: 
Ở giai đoạn 2016 - 2020 (giai đoạn 
cuối của Đề án cũng trùng khớp thời gian 
với Chương trình xây dựng nông thôn mới 
giai đoạn 2016-2020), chỉ tiêu mà Đề án đào 
tạo nghề cho lao động nông thôn xác định là 
sẽ đào tạo 6 triệu lao động nông thôn. Trong 
đó có 5,5 triệu lao động học nghề, gồm 1,4 
triệu lao động học nghề nông nghiệp, 4,1 
triệu lao động học nghề phi nông nghiệp và 
500.000 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng 
làm cán bộ, viên chức cấp xã. 
Dù định hướng của Đề án đã có từ 7 
năm trước nhưng vẫn sát đúng với tình hình 
hiện nay. Đó là, về cơ bản (gần 75%) trong 
số 5,5 triệu lao động nông thôn học nghề là 
để chuyển sang việc làm phi nông nghiệp; 
chỉ có 25% lao động học nghề là để tiếp tục 
làm nghề nông nghiệp nhưng ở những trình 
độ cao hơn. Cơ quan chức năng về dạy nghề 
cần cụ thể hóa thành kế hoạch từng năm, 
từng vùng, miền, từng ngành nghề và từng 
hình thức đào tạo tương thích để đạt được 
hiệu quả như định hướng của Đề án.
- Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành: 
Như đã nói, trước hết, cần xem xét 
điều chỉnh Bộ tiêu chí quốc gia cho giai 
đoạn 2016 - 2020 phù hợp hơn với điều kiện 
của các vùng, miền. Trong chỉ đạo, điều 
hành thực hiện phải gắn chặt các tiêu chí với 
nhau, đặc biệt là phải gắn các tiêu chí thuộc 
lĩnh vực lao động và xã hội (tiêu chí 10: Thu 
nhập; tiêu chí 11: Hộ nghèo và tiêu chí 12: 
Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên) 
với các tiêu chí có tính chất sản xuất (tiêu 
chí 13: Hình thức tổ chức sản xuất, tiêu chí 
1: Quy hoạch, tiêu chí 2: Giao thông, tiêu 
chí 3: Thủy lợi...) vì tổ chức sản xuất và tổ 
chức lao động bao giờ cũng diễn ra đồng 
thời và gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong một 
mức độ nhất định, phải coi các tiêu chí lao 
động và xã hội là “đích đến” của Chương 
trình xây dựng nông thôn mới, bởi vì mục 
tiêu tối thượng của xây dựng nông thôn mới 
được xác định là “...đời sống vật chất và tinh 
thần của người dân (nông thôn) ngày càng 
được nâng cao”. Người lao động được đào 
tạo, có việc làm ổn định và có thu nhập ngày 
càng cao, trở thành khá giả, đó là điều kiện, 
là cốt cách vật chất của một nông thôn mới 
ấm no, hạnh phúc.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận 
động cán bộ, nhân dân: 
Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, 
vận động, nâng cao nhận thức đối với cán bộ 
thôn, xã và người dân về xây dựng nông thôn 
mới, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về 
nhận thức và hành động (chủ động, sáng tạo 
trong điều kiện cụ thể của mỗi địa phương). 
Thường xuyên đưa tin, phổ biến những cách 
làm hay, các mô hình đem lại hiệu quả cao, 
những gương điển hình tiên tiến về xây dựng 
nông thôn mới để rút kinh nghiệm chung. 
Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan 
trung ương với các địa phương và giữa các 
địa phương với nhau trong tuyên truyền, vận 
động, tạo sự nhất quán trong nhận thức và 
trong thực thi nhiệm vụ
CHÑNH SAÁCH
52 Số 22(350) T11/2017
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
xay_dung_nong_thon_moi_gan_voi_tai_co_cau_nong_nghiep.pdf