Xây dựng sản phẩm du lịch gắn với việc xây
dựng và nâng cấp chuỗi giá trị du lịch địa
phương
Có thể hiểu chuỗi giá trị du lịch tại Đắk Nông là tập
hợp của các chuỗi giá trị cung ứng vận chuyển, lưu trú,
ẩm thực, tổ chức tham quan và các dịch vụ bổ sung
khác. Chuỗi giá trị du lịch chỉ phát huy hết tiềm lực
khi được liên kết một cách chặt chẽ và có tính “hữu cơ
hóa” cao. Hiện nay, các thành tố cấu thành nên chuỗi
giá trị du lịch tại Đắk Nông còn rời rạc và còn mang
tính cơ học. Để giảm tính cơ học và gia tăng tính hữu
cơ trong liên kết chuỗi giá trị du lịch, Đắk Nông cần
xác định một số sản phẩm du lịch chủ lực và tạo điều
kiện về chính sách, cơ chế, nguồn lực vận hành khai
thác sản phẩm để hình thành nên các doanh nghiệp
đóng vai trò là đầu chuỗi, duy trì sức sống cho chuỗi
và tạo điều kiện phát huy giá trị cho chuỗi.
Cụ thể tại Đắk Nông, lực lượng doanh nghiệp lữ hành
tại chỗ còn ít về số lượng và còn hạn chế về tiềm lực.
Việc huy động nguồn khách tại thị trường gửi khách
trọng điểm vẫn là thành phố Hồ Chí Minh và thị
trường kết nối khách là Đắk Lắk. Các doanh nghiệp
du lịch bên ngoài địa phương đóng vai trò rất quan
trọng đối với thị trường nhận khách Đắk Nông. Do
vậy, Đắk Nông cần chú ý đến việc đẩy mạnh kích cầu
du lịch tại thành phố Hồ Chí Minh, tăng cường liên
kết với các doanh nghiệp lân cận trong đó nổi bật là
Đắk Lắk. Phạm vi chuỗi du lịch Đắk Nông không
chỉ gói gọn trong ranh giới hành chính của tỉnh mà
cần vươn rộng với hai vùng ưu tiên lân cận là Đông
Nam Bộ (chủ lực là thành phố Hồ Chí Minh) và Tây
Nguyên (chủ lực là Đắk Lắk).
Như vậy, việc tăng cường mạng lưới du lịch, “tạo
chuỗi và duy trì chuỗi du lịch” phải vượt qua ranh giới
Đắk Nông và tạo thế liên kết phải hướng đến yếu tố
liên vùng cụ thể là liên kết với các doanh nghiệp du
lịch tại thành phố Hồ Chí Minh và Đắk Lắk. Hiện nay,
Đắk Nông đang tập trung nhiều hoạt động liên kết
tại thành phố Hồ Chí Minh nhưng còn thực hiện khá
hạn chế tại Đắk Lắk. Do vậy, Đắk Nông cần triển khai
các hợp tác đồng bộ và triệt để hơn nữa với Đắk Lắk.
Để thực hiện các liên kết này, Đắk Nông phải thực
hiện chiến lược kết hợp trong thiết kế tuyến đường và
thị trường gửi khách, bao gồm mô hình kinh doanh
nhằm thiết lập và cải thiện cơ chế tương tác thông tin
và cơ chế trao đổi và hợp tác tài nguyên du lịch giữa
các điểm du lịch trong tỉnh và các địa phương lân cận
như Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Việc liên kết để xây dựng các chương trình du lịch
chuyên đề cần được xây dựng trên cơ sở nền tảng giá
trị tài nguyên du lịch Tây Nguyên trên cơ sở liên kết
vùng là cần thiết. Cụ thể danh mục các chương trình
du lịch chuyên đề cần được kiến tạo và thực thi như
sau: (1) Phát huy tinh thần của tuyến du lịch chuyên
đề “Con Đường Xanh Tây Nguyên” vốn dĩ đã được
triển khai nghiên cứu và xây dựng từ năm 2007 của
Tổng cục Du lịch (2) Nhấn mạnh các chương trình
du lịch chuyên đề kết nối không gian cao nguyên và
vùng biển với tên gọi “Hành trình kết nối từ sông ra
biển” (nhấn mạnh quy luật diễn thế, sự khác biệt về
sinh thái văn hóa giữa Tây Nguyên và Nam Trung Bộ
với các điểm kết nối chính Buôn MaThuột- Gia Nghĩa
– Đà Lạt – Nha Trang hay Buôn Ma Thuột - Gia Nghĩa
– Bảo Lộc – Phan Thiết)
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng sản phẩm du lịch Đắk Nông theo định hướng liên kết vùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQG-HCM
Liên hệ
Ngô Thị Phương Lan, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM
Email: ngophuonglan@hcmussh.edu.vn
Lịch sử
Ngày nhận: 18/8/2019
Ngày chấp nhận: 9/10/2019
Ngày đăng: 10/11/2019
DOI : 10.32508/stdjssh.v3i3.527
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Xây dựng sản phẩm du lịch Đắk Nông theo định hướng liên kết
vùng
Ngô Thị Phương Lan*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Tây Nguyên là vùng du lịch với giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa có nét đặc trưng riêng
và đã hình thành nên các trung tâm du lịch đặc sắc của Việt Nam như Đà Lạt và Buôn Ma Thuột.
Bên cạnh các cực trọng điểm này, hiện nay một trong những địa phương của vùng đang có nhiều
tiềm năng về lõi giá trị tài nguyên có khả năng hình thành nên không gian cung ứng dịch vụ du
lịch mới gắn liền với các cảnh quan sinh thái tự nhiên tiêu biểu và giá trị văn hóa tộc người đặc
sắc là tỉnh Đắk Nông. Với lợi thế tài nguyên đặc trưng sẵn có cùng với vị trí địa lý có khả năng kết
nối cao với thị trường gửi khách thành phố Hồ Chí Minh và các trung tâm lân cận của địa bàn Tây
Nguyên và Nam Trung Bộ, Đắk Nông có đủ điều kiện để phát triển thành điểm đến du lịch mới tạo
nên thế đối trọng và góp phần kích thích sản xuất, đa dạng hóa dịch vụ du lịch cho Tây Nguyên
nói riêng và Việt Nam nói chung.
Dựa trên kết quả nghiên cứu khảo sát thực địa vào tháng 7 năm 2018 và tháng 1 năm 2019, bài viết
đề xuất các hướng xây dựng sản phẩm du lịch tổng thể Đắk Nông theo định hướng liên kết vùng.
Quan điểm của bài viết cho rằng xây dựng sản phẩm du lịch là điều cần thiết để phát triển du lịch
và phải theo định hướng liên kết vùng. Xây dựng sản phẩm du lịch Đắk Nông theo định hướng
liên kết vùng cần phải được phát triển dựa trên lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm của từng địa
phương. Và khác với các liên kết vùng kinh tế trong đó nhà nước đóng vai trò quan trọng, nắm vai
trò chính trong các chuỗi giá trị liên kết du lịch này phải là các doanh nghiệp du lịch và Nhà nước
giữ vị trí chủ đạo trong việc tạo môi trường cho các chuỗi này hoạt động.
Từ khoá: sản phẩm du lịch, liên kết vùng, Đăk Nông, chuỗi giá trị du lịch
DẪN NHẬP
Đắk Nông là tỉnh mới được thành lập tại Tây Nguyên
vào năm 2004. Vì vậy, vấn đề phát triển kinh tế
nói chung và du lịch nói riêng tại địa bàn này đang
được tái định hướng đến mục tiêu nâng cao vị thế và
xây dựng hình ảnh nhận diện cho Đắk Nông. Trong
những nămgần đây, hàng loạt chính sách, định hướng
của tỉnh nói riêng cũng như vùng du lịch Tây Nguyên
nói chung và tinh thần Nghị quyết Trung ương 08
(2017) của Bộ Chính Trị về phát triển du lịch đã tạo
động lực mạnh mẽ cho việc khai thác và phát triển
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Kỳ vọng của địa phương
là xây dựng được sản phẩm du lịch và dần định hình
một điểm đến Đắk Nông có tính bản sắc, độc đáo,
ngày càng hấp dẫn với sự đầu tư đồng bộ về cơ sở vật
chất kĩ thuật hạ tầng nhằm nâng cao hiệu quả ngành
kinh tế du lịch của địa phương cũng như kết nối tốt
với các trung tâm du lịch lân cận.
Với định hướng phát triển du lịch mang bản sắc của
ĐắkNông, trong chiến lược phát triển du lịch của tỉnh
Đắk Nông đến năm 2020, định hướng đến năm 2030,
tỉnh đã lấy công viên địa chất núi lửa Krông Nô – Đắk
Nông làm điểm nhấn.a Bên cạnh đó, trên cơ sở phân
tích đặc trưng là tỉnh nằm trong vùng văn hóa Tây
Nguyên có đặc trưng sinh thái và văn hóa riêng biệt,
và với vị thế riêng biệt trong bản đồ phát triển của
vùng du lịch TâyNguyên, bài viết sẽ đưa ra các đề xuất
xây dựng sản phẩm du lịch cho tỉnh Đắk Nông theo
định hướng liên kết vùng.
Trong bài viết này chúng tôi tập trung thảo luận
những vấn đề liên quan đến thực trạng khai thác du
lịch, tiềm năng phát triển du lịch tại Đắk Nông. Bên
cạnh đó, chúng tôi đề xuất việc xây dựng sản phẩm
du lịch ĐắkNông theo định hướng liên kết vùng bằng
việc mạnh đến yếu tố kiến tạo sản phẩm du lịch theo
hướng gia tăng giá trị tài nguyên tự nhiên, tài nguyên
nhân văn, dựa vào lợi thế cạnh tranh và nhận diện thị
trường ngách. Đẩy mạnh việc phát huy vai trò của
doanh nghiệp trong việc phát triển du lịch, nâng cao
chất lượng quản lý có hiệu quả của Nhà nước nhằm
đưa du lịch tỉnh Đắk Nông phát triển tương xứng với
tiềm năng vốn có của nó.
a Phỏng vấn lãnh đạo UBND tỉnh Đăk Nông tháng 7 năm 2019
Trích dẫn bài báo này: Phương Lan N T. Xây dựng sản phẩm du lịch Đắk Nông theo định hướng liên
kết vùng. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 3(3):162-172.
162
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thu thập tư liệu phục vụ cho việc nhận diện và
phân tích tình hình khai thác và phát triển du lịch tại
địa bànĐắkNông, chúng tôi tiến hành thu thập tư liệu
thứ cấp là các văn bản báo cáo và định hướng chiến
lược phát triển du lịch tại địa phương bên cạnh các
công trình khoa học và ứng dụng có liên quan. Đồng
thời, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa tại địa
bàn vào tháng 7 năm 2018 và tháng 1 năm 2019. Hai
thời điểm khảo sát ứng với hai thời điểm mùa mưa
và mùa khô để có được bức tranh tổng thể về tiềm
năng và thực trạng khai thác du lịch của địa phương
vào cácmùa du lịch thấp điểm và cao điểm. Trong các
đợt khảo sát thực địa, bên cạnh việc đi quan sát và trải
nghiệm các tài nguyên và sản phẩmdu lịch đang có tại
địa phương, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu đại
diện các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh
vực du lịch, đại diện các đơn vị kinh doanh du lịch,
phỏng vấn sâu và khảo sát bằng phiếu hỏi dành cho
du khách.b Tổng cộng chúng tôi đã phỏng vấn được
123 người trong đó có 8 cán bộ quản lý các cấp, 25
người thuộc các công ty lữ hành, cơ sở lưu trú, cán
bộ quản lý các khu du lịch trong và ngoài tỉnh Đắk
Nông, 50 khách du lịch, và 20 người dân của các dân
tộc Mnông và Ê Đê ở các buôn làng ở tỉnh Đắk Nông.
Thông qua các dữ liệu thứ cấp và sơ cấp thu thập được
tác giả tiến hành phân tích thực trạng khai thác du lịch
và đề xuất cách thức xây dựng sản phẩm du lịch địa
phương theo định hướng liên kết vùng.
CÁC HƯỚNG TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU
VỀ XÂY DỰNG SẢN PHẨMDU LỊCH
THEOĐỊNHHƯỚNG LIÊN KẾT VÙNG
Xây dựng sản phẩm du lịch
Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2017, sản phẩm du
lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị
tài nguyên du lịch để thỏa mãn nhu cầu cho khách
du lịch. Bên cạnh cách hiểu này, còn có nhiều quan
điểm khác nhau về sản phẩm du lịch tùy theo cấp độ
nhìn nhận ví dụ một món hàng cụ thể (món ăn, đồ
lưu niệm) hay món hàng không cụ thể (chất lượng
dịch vụ, điểm đến, cảnh quan, không khí). Trong
giới hạn bài viết này, chúng tôi theo quan điểm của Si-
mon Hudson (2007), sản phẩm du lịch là một “nhóm
các thành tố hoặc thành phần được chọn lọc tập hợp
b Đây là các du khách Việt Nam từ thành phố Hồ Chí Minh đi
tham quan các điểm du lịch tại ĐăkNông theo chương trình doCông
ty du lịch Văn Khoa thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh thiết kế. Tour du lịch này
được thiết kế dựa trên kết quả khảo sát và tư vấn của đề tài về các
tuyến điểm tại Đăk Nông. Các phiếu khảo sát dành cho du khách để
hỏi về đánh giá của du khách về thực trạng, tiềm năng và kỳ vọng của
du khách đối với du lịch của Đăk Nông.
thành một “gói” để thỏa mãn các nhu cầu và mong
muốn” ( 1, Tr.147). Sản phẩm du lịch có thể được xác
định là một gói các thành tố hữu hình và vô hình, dựa
vào hoạt động tại điểm đến.
Xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch địa phương
là vấn đề được quan tâm nghiên cứu sâu rộng trên
cả nước. Một trong các hướng nghiên cứu mạnh xây
dựng sản phẩm du lịch thu hút nhiều sự quan tâm
hiện nay là xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù cho
các địa phương. Quanđiểm chung của các nghiên cứu
này đó là dựa trên lợi thế cạnh tranh của địa phương
về tài nguyên du lịch đó chính là độ hiếm để từ đó
làm nên bản sắc của sản phẩm du lịch. Có thể kể đến
các công trình nhưĐỗCẩmThơ (2009) với công trình
Nghiên cứu Xây dựng Sản phẩmDu lịch Việt Nam có
tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế. Công trình
này bao gồm các nội dung cơ bản sau: hệ thống chọn
lọc những vấn đề lý luận về cạnh tranh sản phẩm du
lịch; tiếp cận trên quan điểm quản lý Nhà nước và
kinh tế vĩ mô; phân tích và đánh giá thực trạng hệ
thống sản phẩm du lịch Việt Nam: rà soát và đánh
giá thực trạng sản phẩm du lịch Việt Nam hiện tại
theo hai tiêu chí, cấu thành sản phẩm chung của điểm
đến và sản phẩm theo các loại hình du lịch; nghiên
cứu cạnh tranh và định vị sản phẩm du lịch Việt Nam
trong thị trường du lịch khu vực và quốc tế: phân tích
và đánh giá hệ thống sản phẩm du lịch của các nước
cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan, Malaysia,
Singapore, Trung Quốc, Indonesia; nghiên cứu điều
tra tính cạnh tranh từ góc độ tiêu dùng; tìm ra định vị
hiện tại của sản phẩm du lịch Việt Nam; phân tích đặc
thù và thếmạnh cho sảnphẩmdu lịchViệtNam: đánh
giá một cách có hệ thống các sản phẩm du lịch Việt
Nam, so sánh, xác định sản phẩm du lịch Việt Nam
với các sản phẩm cạnh tranh, tập trung 3 nhóm sản
phẩm du lịch (sản phẩm du lịch biển đảo, sản phẩm
du lịch văn hoá, sản phẩmdu lịch sinh thái); phân tích
kết quả nghiên cứu cạnh tranh với các đối thủ quốc tế;
phân tích khả năng cạnh tranh của sản phẩm từ phía
cung - cầu của thị trường du lịch Việt Nam; tìm hiểu
một số đặc điểm và nhu cầu thị trường khách quốc
tế đối với sản phẩm du lịch Việt Nam; đề xuất biện
pháp chủ yếu góp phần tăng cường tính cạnh tranh
của sản phẩm du lịch Việt Nam2. Hay như Hoàng
Thị Thu Thảo (2012) với công trình nghiên cứu Phát
triển Sản phẩmDu lịch tạiThành phốĐàNẵng đã nêu
lên được thực trạng về phát triển sản phẩm du lịch và
loại hình du lịch trong giai đoạn 2006 đến 2011 thông
qua việc tìm hiểu tiềm năng tài nguyên du lịch, định
hướng phát triển sản phẩm du lịch Đà Nẵng. Tác giả
đã thống kê các tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch
của Đà Nẵng, nêu lên được những thuận lợi, tồn tại,
nguyên nhân trong quá trình phát triển sản phẩm du
163
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
lịch. Từ những đánh giá thực trạng trong việc phát
triển sản phẩm du lịch tại thành phố Đà Nẵng, tác giả
xác định sản phẩm du lịch biển là sản phẩm du lịch
đặc thù củaĐàNẵng và đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm góp phần nâng cao chất lượng của sản phẩm du
lịch3. Nằm trong xu hướng nghiên cứu xây dựng sản
phẩm du lịch còn có Võ Thị Bích Phương (2015) với
công trình Nghiên cứu Phát triển Sản phẩm Du lịch
Văn hoáQuảngBình. Tác giả đã hệ thống và phân tích
và nhấn mạnh việc tập trung khai thác vào sản phẩm
du lịch văn hóa tại Quảng Bình. Quan điểm chính của
tác giả là cùng với sản phẩm du lịch gắn với biển và
hang động, sản phẩm du lịch văn hóa sẽ nâng cao tính
hấp dẫn, đa dạng cho du lịch Quảng Bình, góp phần
đa dạng hóa sản phẩm du lịch và nâng cao nguồn thu
cho địa phương4. Phan Đông Nhựt (2015) với đề tài
Nghiên cứu Sản phẩm Du lịch Biển đảo Quảng Nam
tập trung phân tích tính nổi bật về mặt tài nguyên du
lịch gắn liền với biển, đảo tại Quảng Nam. Từ đó, tác
giả đề xuất các giải pháp gópphầnnâng cao chất lượng
và đa dạng hóa sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của
khách du lịch, thu hút cộng đồng tham gia vào hoạt
động du lịch, góp phần nâng cao đời sống người dân
vùng biển đảo. Hay nói cách khác đóng góp lớn nhất
của đề tài là đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng sản các sản phẩm du lịch biển đảo Quảng
Nam5.
Trong các ấn phẩm liên quan đến việc xây dựng sản
phẩm du lịch còn có Đề án Phát triển sản phẩm du
lịch đặc thù vùng đồng bằng sông Cửu Long do Tổng
cục Du lịch (2015) biên soạn. Đề án phân tích các
thế mạnh và tính độc đáo về mặt tài nguyên du lịch
của đồng bằng sôngCửu Long nhằm xây dựng các sản
phẩm du lịch độc đáo cho vùng. Quan điểm chủ đạo
và then chốt của đề án là liên kết phát triển du lịch
bao gồm các nội dung chính sau: liên kết phát triển
sản phẩm du lịch, đặc biệt là sản phẩm du lịch đặc
thù của vùng, xây dựng và khai thác tour, tuyến điểm
du lịch, trên cơ sở vai trò, trách nhiệm của từng địa
phương đã được xác định; liên kết xây dựng thương
hiệu và xúc tiến quảng bá điểm đến (vùng), đặc biệt là
xây dựng bộ tiêu chí sản phẩmdu lịch; liên kết đào tạo
phát triển nguồn nhân lực du lịch, chú trọng kỹ năng
nghề cho các đối tượng lao động thamgia trực tiếp vào
cấu thành sản phẩm du lịch đặc trưng vùng; liên kết
phát triển hạ tầng du lịch vùng nói chung và trực tiếp
là nâng cấp hệ thống các cầu thuyền tiếp cận các điểm
thamquan trên các cù lao, bên bờ sôngTiền, sôngHậu
và sông VàmCỏ, hệ thống các đường nội bộ trong các
khu dân cư, miệt vườn tạo điều kiện thuận lợi cho
khách du lịch trải nghiệm cuộc sống người dân; liên
kết xây dựng chính sách đặc thù, tạomôi trường thuận
lợi cho phát triển sản phẩm du lịch đặc thù vùng6.
Gần đây nhất có nhóm tác giả Võ Văn Sen – NgôThị
Phương Lan – Ngô Thanh Loan (2018) với ấn phẩm
Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù đồng bằng sông
Cửu Long: Lý thuyết vàThực tiễn. Điểm nhấn của ấn
phẩm này trình bày cách tiếp cận xây dựng sản phẩm
du lịch đặc thù nhìn từ “độ hiếm” của tài nguyên và
“năng lực” cung ứng dịch vụ du lịch7.
Các công trình trên tập trung xây dựng vào việc phân
tích về thế mạnh tài nguyên, các điều kiện hình thành
thị trường du lịch, vai trò của các bên liên quan trong
phát triển du lịch. Đặc biệt “đặc thù hóa sản phẩm”
đã được đẩy mạnh triển khai nghiên cứu. Trong bối
cảnh xây dựng sản phẩm du lịch cho tỉnh Đắk Nông,
từ quan điểm của Simon Hudson (2017) và kế thừa
các công trình đã đi trước chúng tôi cũng sẽ tiếp cận
dựa trên khía cạnh “tài nguyên đặc thù” hay “độ hiếm”
để xây dựng sản phẩm du lịch cho tỉnh Đắk Nông.
Tính mới của sản phẩm du lịch Đắk Nông trong bài
viết này là đặt trong bối cảnh liên kết vùng để từ đó
định vị tính đặc thù của sản phẩm.
Liên kết vùng trong phát triển du lịch
Theo Goetz (2006), Gorynia và Jankowska (2007)
(dẫn lại từ Kachniewska (2013))8 các chủ đề cốt lõi
của hợp tác du lịch liên kết vùng bao gồm chính phủ
và doanh nghiệp du lịch. Cụ thể, trước đây liên kết
này chủ yếu bao gồm văn phòng du lịch, các cơ quan
chính phủ và các tổ chức cộng đồng khác; sau này bao
gồm các điểm du lịch, công ty du lịch, doanh nghiệp
ăn uống và giải trí, khách sạn, doanh nghiệp du lịch
và vận tải, và doanh nghiệp sản xuất và bán hàng. Cơ
quan có liên quan của hợp tác du lịch liên kết vùng
bao gồm cả các tổ chức phi chính phủ, công chúng,
giới truyền thông và các tổ chức khác.
Hợp tác giữa các ban ngành của chính phủ là hình
thức ban đầu và quan trọng nhất trong liên kết khu
vực. Hợp tác này đóng vai trò hàng đầu và doanh
nghiệp du lịch là cơ quan thực hiện liên kết này. Các
tổ chức phi chính phủ là cầu nối giữa chính phủ với
doanh nghiệp và giữa các doanhnghiệp với nhau. Các
cơ quan ban ngành là đơn vị tiến hành quy hoạch điều
tiết và quản lý, thông qua việc hỗ trợ, phục vụ, giám
sát và quản lý tạo ra một môi trường cạnh tranh và
phát triển lành mạnh để phát triển kinh tế du lịch của
khu vực. Doanh nghiệp là cơ quan chính của hoạt
động kinh tế du lịch và thực hiện tối đa hóa lợi ích
của mình thông qua sự kết hợp khu vực của các yếu
tố tài nguyên như vốn, công nghệ, tài năng và thương
hiệu. Bất kể mục đích chính của hợp tác du lịch giữa
các vùng là lợi ích kinh tế hay lợi ích chính trị thì sự
hợp tác đó phải dựa trên cơ chế thị trường và theo quy
tắc thị trường. Nhiệm vụ quản lý vĩ mô của các ban
164
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
ngành là đảm bảo cho hoạt động của nền kinh tế du
lịch. Cơ chế lợi ích của việc hợp tác liên kết vùng là
tất cả các bên liên quan đều chấp nhận hợp tác trên
cơ sở nâng cao lợi ích bản thân. Làm thế nào để điều
phối lợi ích của các bên liên quan để các bên có thể đạt
được sự phân bổ hợp tác tối ưu và làm thế nào để có
thể phân chia lợi ích hợp lý, bảo đảm hợp tác có hiệu
quả và lâu dài. Đây chính là những khó khăn trong
công cuộc phát triển du lịch liên kết vùng.
Cũng theo các tác giả này, nội dung liên kết vùng
trong du lịch chủ yếu bao gồm tổ chức lại và chia
sẻ tài nguyên du lịch, chia sẻ khách du lịch, đổi mới
và quảng bá sản phẩm du lịch, phát triển và trao đổi
thị trường nguồn, sự kết hợp tối ưu giữa các doanh
nghiệp du lịch, phân chia chức năng của du lịch khu
vực và liên doanh, quảng bá hình ảnh tổng thể của
du lịch khu vực, tiếp thị thống nhất, điều phối quản
lý, giao thông thông suốt, trao đổi thông tin, đào tạo
nhân sự, phát triển tài nguyên du lịch, quản lý doanh
nghiệp du lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, quy
hoạchhình ảnhdu lịch, phát triển và tiếp thị sản phẩm
du lịch, đầu tư cơ sở du lịch, liên doanh du lịch, cải
thiện môi trường du lịch, xây dựng tuyến du lịch và
quảng bá sản phẩm...
Thông qua hợp tác du lịch khu vực, các bên hưởng lợi
có thể đạt được sức mạnh tổng thể, đạt được lợi ích
chung, tài nguyên và thông tin được chia sẻ, đạt được
lợi thế chi phí, hoán đổi thị trường, đảmbảo lưu lượng
hành khách ổn định, tăng cường khả năng chống rủi
ro và phục vụ xu hướng phát triển của nhu cầu du lịch.
Hợp tác du lịch khu vực là một quá trình năng động
trong sự phát triển và thay đổi. Hợp tác này có thể dựa
trên sự tương đồng và khác biệt về tài nguyên du lịch,
về kinh tế và xã hội với mục tiêu hợp lý là cải thiện
khả năng cạnh tranh du lịch của khu vực và đạt được
sự phát triển tổng thể của khu vực.
Theo hướng tiếp cận này, liên kết vùng trong việc xây
dựng và phát triển sản phẩm du lịch tỉnh ĐắkNông là
một định hướng cấp thiết để có thể phát huy sứcmạnh
của lợi thế sản phẩm du lịch tỉnh Đắk Nông trong bối
cảnhĐắkNông làmột tỉnh có vị trí địa lý gần với vùng
Đông Nam Bộ và thuộc vùng Tây Nguyên.
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ TIỀM
NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐẮK
NÔNG
Thực trạng khai thác du lịch tại tỉnh Đắk
Nông
Tỉnh Đắk Nông được thành lập năm 2004. Đây là giai
đoạn ngành du lịch Việt Nam nói chung và các địa
phương nói riêng đang trên đà tăng trưởng phát triển.
Nhằm khai thác phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế quan trọng của địa phương, sau khi thành lập
tỉnh, Hội đồngNhân dân tỉnhĐắkNông đã thông qua
đề án: “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Đắk
Nông giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng 2020”. Nội
dung đề án tập trung việc giới thiệu các tiềm năng
du lịch của Đắk Nông và kêu gọi đầu tư phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh. Đến năm 2012, Hội đồng
Nhân dân tỉnh ban hành Nghị Quyết 09/2012/NQ-
HĐND về việc “Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng
thể phát triển du lịchĐắkNông giai đoạn 2006 – 2010
và định hướng 2020”. Ngoài việc nhấn mạnh các lợi
thế du lịch của địa phương, các loại hình du lịch được
khuyến khích triển khai theo tinh thần củaNghị quyết
này là du lịch sinh thái, văn hóa tâm linh và du lịch
nghỉ dưỡng. Vào năm 2015, Ủy ban Nhân dân tỉnh
Đắk Nông ban hành Quyết định “Kế hoạch phát triển
du lịch Đắk Nông giai đoạn 2012 – 2015”. Văn bản
này khuyến khích việc đầu tư vào các khu điểm du
lịch quan trọng của địa phương tiêu biểu là khu du
lịch sinh thái – văn hóa và lịch sử Nam Nung và cụm
du lịch Dray Sáp – Trinh Nữ - Gia Long. Năm 2017,
Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông ban hành “Quyết
định Về việc triển khai Nghị Quyết số 55/2016/NQ-
HĐND của Hội đồng Nhân dân tỉnh quy định về
khuyến khích, hỗ trợ đầu tư vào tỉnh Đắk Nông đến
năm 2020”. Nội dung này đề cập cơ chế tạo động lực
thông thoáng cho nhà đầu tư về thủ tục hành chính
với điểm nhấn là giúp nhà đầu tư hưởng được các
ưu đãi lớn nhất của Đắk Nông và thực hiện nghĩa vụ
tài chính thấp nhất theo quy định hiện hành. Ngày 2
tháng 7 năm 2018, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông
ban hành “Quyết định phê duyệt đề án phát triển các
sản phẩm du lịch, mô hình du lịch cộng đồng (home-
stay) gắn với công viên địa chất núi lửa Krông Nô –
ĐắkNông đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”.
Các sản phẩm du lịch được định hướng khai thác và
phát triển trên địa bàn tỉnh Đắk Nông là: du lịch sinh
thái, du lịch khám phá cảnh quan thiên nhiên, du lịch
văn hóa, du lịch thám hiểm hang động núi lửa, du lịch
canh nông, du lịch cộng đồng.
Để đáp ứng cho nhu cầu của du khách, lực lượng lao
động du lịch của địa phương tuy gặp nhiều khó khăn
nhưng cũng đang dần được cải thiện về chất lượng
và số lượng. Tính đến đầu năm 2018, trên toàn địa
bàn tỉnh Đắk Nông lao động trong ngành du lịch có
khoảng 955 người, trong đó cơ quản lý nhà nước là 16
người; lao động trực tiếp phục vụ trong các khu điểm
du lịch là 939 người, trình độ từ sơ cấp đến đại học
chiếm 27,5%, lao động qua quá trình đào tạo gắn với
chuyên môn du lịch là 17% (UBND tỉnh Đắk Nông,
2018, tr.4)9. Trước thực tế nhân lực lao động du lịch
tại địa phương còn hạn chế cả về số lượng và chất
lượng, ngày 27 tháng 6 năm 2018, Ủy ban Nhân dân
165
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
tỉnh Đắk Nông đã xây dựng Kế hoạch đào tạo và phát
triển nguồnnhân lực du lịchĐắkNông giai đoạn 2018
– 2022. Kế hoạch này nêu rõ đến năm 2022, tỉnh phấn
đấu toàn ngành du lịch có 11.000 – 12.000 lao động
(gấp 11 đến 12 lần so với đầu năm 2018). Chiến lược
phát triển nguồn nhân lực du lịch là chiến lược quan
trọng đang được thực thi tại Đắk Nông thông qua các
chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn giữa tỉnh
kết hợp với các trường Đại học, Cao đẳng và tỉnh Đắk
Nông nhằm bổ sung nguồn nhân lực lao động cho địa
phươngc. Một trong những định hướng phát triển
nguồn nhân lực nói chung và du lịch nói riêng của
Đắk Nông đã được hiện thực hóa là việc đưa vào hoạt
động và đào tạo của TrườngCao đẳngCộng đồngĐắk
Nông vào ngày 28/8/2018.
Kết quả của những nỗ lực đó trong phát triển du lịch
Đắk Nông trong giai đoạn 2012-2017 là Đắk Nông
đón tổng lượt khách du lịch là 1.179.768, trong đó
khách quốc tế chiếm 36.505 lượt; tốc độ tăng trưởng
du lịch bình quân hàng nămđạt 10,67%; doanh thu du
lịch giai đoạn 2012 – 2017 đạt 142.995 triệu đồng, tăng
trưởng bình quân 16,33 % (UBND tỉnh Đắk Nông,
2018, tr.2-3). Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã thu hút
và kêu gọi nhằm hiện thực hóa một số hạng mục đầu
tư và phát triển du lịch. Tính đến tháng 7 đầu năm
2018, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 7 khu vực và
điểm du lịch đã có chủ trương đầu tư bao gồm: khu
du lịch sinh thái Dray Sáp – Gia Long, điểm du lịch
sinh thái thác Trinh Nữ, Thiền Viện Trúc Lâm Đạo
Nguyên thuộc khu du lịch sinh thái văn hóa lịch sử
NâmNung, tu viện Liễu Quán thuộc khu du lịch sinh
thái Văn hóa Tà Đùng, dự án du lịch nông nghiệp
cao và du lịch sinh thái Phước Sơn huyện Đắk R’Lấp,
Khu du lịchThiềnHiểu về Trái Tim tại NâmNungd
Tính đến đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh có 199 cơ
sở lưu trú du lịch, đạt 2.221 phòng, trong đó có 21
khách sạn (491 phòng) (UBND tỉnh Đắk Nông, 2018,
tr.3). Thị xã Gia Nghĩa là địa bàn tập trung chủ yếu
cơ sở cung ứng dịch vụ lưu trú và lữ hành của tỉnh.
Hiện nay, ở Đắk Nông các sản phẩm và dịch vụ du
lịch đã và đang dần hình thành tại các điểm đến du
lịch. Một số hạng mục đã xây dựng hoàn thành phục
vụ du khách như: nhà ngục Đắk Mil, khu di tích lịch
sử N’Trang Long, bảo tàng âm thanh, và hình thành
các lễ hội địa phương như Lễ hội Đắk Nông Mùa Bơ
Chín (năm 2018 ), Lễ hội Văn hóaThổ cẩm Việt Nam
cKết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo UBND tỉnh Đăk Nông và lãnh
đạo SởVănhóa,Thể thao vàDu lịch tỉnhĐăkNông vào ngày 12 tháng
7 năm 2018
d Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo UBND tỉnh Đăk Nông và lãnh
đạo SởVănhóa,Thể thao vàDu lịch tỉnhĐăkNông vào ngày 12 tháng
7 năm 2018
(2019), và xây dựng các đội văn nghệ cồng chiênge ở
các cộng đồng tộc người để phục vụ khi khách có nhu
cầu thưởng thức.
Song dù đã có nhiều nỗ lực nhưng thực tế cho thấy
lượng khách du lịch đến Đắk Nông hiện nay còn hạn
chế. Đặc điểm dòng khách nội địa đến Đắk Nông có
lưu trú qua đêm phần lớn kết hợp đi công tác rồi tiện
đường ghé tham quan và dòng khách nước ngoài chủ
yếu là dòng khách Châu Âu đến từ tuyến kết nối Nha
Trang – Đắk Lắk – Đăk Nông. Còn dòng khách Châu
Á gần như còn ítf. Bên cạnh đó, hệ thống cung ứng
dịch vụ du lịch tại Đắk Nông chưa nhiều do nhiều
nguyên nhân khác nhau như do Đắk Nông gần các
trung tâm du lịch đã có bề dày lịch sử phát triển là
thành phố Đà Lạt và thành phố Buôn Ma Thuột nên
phần đông khách chọn Đắk Nông là nơi ghé qua chứ
không phải dừng chân chính yếu, hay do là tỉnh mới
thành lập nên việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng cần nhiều
thời giang
Ngoài ra du lịch Đắk Nông còn gặp phải một số mặt
hạn chế liên quan đến truyền thông và quảng bá du
lịch; còn thiếu các dịch vụ du lịch cao cấp; lợi thế cạnh
tranh chưa được xác định rõ so với các thị trường có
truyền thống khai thác lâu đời tại TâyNguyên (Đà Lạt,
Buôn MêThuột); tính liên kết vùng và liên kết ngành
trong phát triển du lịch còn hạn chế, giao thông tiếp
cận các điểm đến còn hạn chế; chưa có xác định phân
khúc thị trường rõ ràng; công tác quản lý và bảo vệ
tài nguyên còn hạn chế; sản phẩm du lịch đơn lẻ, các
điểm du lịch còn tách chưa kết nối, các cơ sở dịch vụ
phát triển chưa đồng bộ.h
Như vậy, ý kiến các bên liên quan trong ngành du lịch
và khảo sát của nghiên cứu đều cho thấy Đắk Nông
hiện nay chưa thật sự là “điểm dừng chân,” chủ yếu là
điểm “ghé qua” hay điểm “khách đến công tác sẵn kết
hợp du lịch”
eNgành Văn hoá, thể thao và du lịch tỉnh Đăk Nông đã tổ chức
nhiều hoạt động nhằm làm sống lại các sinh hoạt văn hóa truyền
thống (trong đó có cồng chiêng) ở các bon, buôn trong cộng đồng các
dân tộcM’nông,Mạ, Êđê như: sưu tầm, nghiên cứu văn hoá dân gian,
liên hoan văn hóa cồng chiêng, hội diễn nghệ thuật quần chúng, liên
hoan dân ca và nhạc cụ dân tộc, ngày hội văn hoá các dân tộc, chế tác
nhạc cụ, sáng tác âm nhạc, dàn dựng các chương trình văn hoá nghệ
thuật, triển lãm thông tin cổ động, mở lớp truyền dạy cồng chiêng,
nhạc cụ dân tộc và tổ chức các câu lạc bộ văn nghệ dân gianTính
đến tháng 12/2017, Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch đã thống kê trên
địa bàn tỉnh có khoảng 843 nghệ nhân còn sử dụng được cồng chiêng
(phỏng vấn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đăk Nông tháng 9
năm 2019)
f Tổng hợp kết quả phỏng vấn đại diện doanh nghiệp du lịch, các
cơ quan quản lý Nhà nước vào tháng 7/2018 và tháng 1 năm 2019
g Kết quả phỏng vấn sâu đại diện doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ du lịch tại thành phố Buôn Mê Thuột vào ngày 13 tháng 7 năm
2018
hTổng hợp các ý kiến phỏng vấn lãnh đạo tỉnh Đăk Nông, các
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tại thành phố Hồ Chí Minh, các
cán bộ quản lý nhà nước về du lịch, các chuyên gia nghiên cứu du lịch
và du khách từ ngày 12/7 – 15/7/2018
166
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
Tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Đắk
Nông
Nằm trong vùng văn hóa - du lịch Tây Nguyên, Đắk
Nông có tiềm năng du lịch về cả tài nguyên tự nhiên
và tài nguyên văn hóa. Về tài nguyên tự nhiên, có thể
nói hiện nay Đắk Nông đã xác định rất rõ tài nguyên
cốt lõi trong phát triển du lịch của Đăk Nông là sẽ xây
dựng Đắk Nông thành công viên địa chất toàn cầu.
HiệnnayĐắkNôngđã hoàn thànhbộhồ sơ trìnhUN-
ESCOvà đang chờ phê duyệt. Ranh giới của công viên
địa chất Đắk Nông với diện tích 4.000 km2 trải dài
trên 5 huyện và 1 thị xã gồm huyện Krông Nô, Cư Jút,
Đắk Mil, Đắk Song, Đắk Glong, và thị xã Gia Nghĩa.
Trong công viên địa chất này, có một hệ thống hang
động núi lửa ẩn chứa các cảnh quan và tài nguyên lịch
sử văn hóa vùng đất rất có giá trị. Hệ thống hang động
núi lửa ở Đắk Nông theo đánh giá của các đoàn khảo
sát là vẫn còn nguyên nét hoang sơ và có kết cấu độc
đáo. Điểm nhấn của công viên địa chất là hệ thống
gần 100 hang động núi lửa nguyên sơ chưa có sự tác
động của con người. Chẳng hạn như, hệ thống hang
động núi lửa KrôngNô đã được Bảo tàng địa chất Việt
Nam và Hiệp hội Hang động Núi lửa Nhật Bản đánh
giá đây là hệ thống hang động núi lửa có quy mô lớn
nhất Đông Nam Á. Nơi đây còn có dấu vết của người
tiền sử.i Cùng hệ thống hang động núi lửa này, khu
vực Krông Nô còn có nhiều cảnh quan du lịch như
cụm thác Dray Sap, thác Trinh Nữ, Gia Long
Về tài nguyên văn hóa, nằm trong vùng văn hóa Tây
Nguyên, đặc biệt không gian văn hóa cồng chiêng, văn
hóa thổ cẩm và ẩm thực, ngoài người Kinh chiếm số
đông, Đắk Nông là nơi cư trú của các dân tộcMnông,
Ê Đê, Mạ. Do vậy, nơi đây có sự đa dạng về văn hóa
các dân tộc làm nên sự đa dạng về tài nguyên du lịch
văn hóa cho tỉnhĐắkNông. Theo điều tra của Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch năm 2017, toàn tỉnh còn có
186 bộ chiêng ( trong đó 157 bộ chiêngM’nông, 12 bộ
chiêngMạ và 17 bộ chiêng Ê đê ) và 01 bộ goong prac,
01 bộ goong pe, 02 bộ đàn đá còn trong cộng đồng
các dân tộc. Ngoài ra, tỉnh đã mua 150 bộ chiêng (03
bộ chiêng Ê đê và 147 bộ chiêng M’nông ) từ nguồn
kinh phí của Đề án bảo tồn phát huy Lễ hội - Hoa
văn - Cồng chiêng và nhạc cụ dân gian của các dân
tộc tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2005 - 2009 và giai đoạn
2010 – 2015 cấp cho các đội văn nghệ dân gian các
huyện, thị xã sử dụng. Tính đến tháng 12/2017, Sở
Văn hóa,Thể thao và Du lịch đã thống kê trên địa bàn
tỉnh có khoảng 843 nghệ nhân còn sử dụng được cồng
chiêngj. Ngoài ra, trên cơ sở nguồn tài nguyên về văn
i Phỏng vấn lãnh đạo UBND tỉnh Đăk Nông tháng 12 năm 2018
j Phỏng vấn SởVăn hóa,Thể thao vàDu lịch tỉnhĐăkNông tháng
9 năm 2019
hóa thổ cẩm của tỉnh nhà, Đắk Nông đã đăng cai tổ
chức Lễ hội Văn hóa thổ cẩm Việt Nam lần thứ nhất
như là một sản phẩm du lịch đặc sắc.
Với việc Đắk Nông hoàn thành bộ hồ sơ công viên địa
chất Đắk Nông đáp ứng được các tiêu chí về đa dạng
địa chất và di sản địa chất, đa dạng sinh học, đa dạng
về văn hóa xã hội và di sản văn hóa đã cho thấy Đắk
Nông có tiềm năng rất lớn về tài nguyên tự nhiên và
văn hóa để phát triển du lịch.
Để khai thác tiềm năng này, định hướng phát triển
du lịch của tỉnh là tạo điểm nhấn Công viên địa chất
toàn cầuĐắkNông với ba tuyến du lịch với các tên gọi
“Trường ca của nước và lửa” gồm 14 điểm du lịch;
tuyến 2 với với tên gọi “Bản giao hưởng của sự đổi
thay” với 16 điểm du lịch và tuyến “Âm vang từ trái
đất” có 14 điểm du lịch.k
THẢO LUẬN VÀĐỀ XUẤT XÂY DỰNG
SẢN PHẨMDU LỊCH ĐẮK NÔNG
THEOĐỊNH HƯỚNG LIÊN KẾT VÙNG
Trên cơ sở phân tích địnhhướngphát triển, thực trạng
khai thác, tiềmnăng du lịch củaĐắkNông và dựa trên
quan điểm của Goetz (2006), Gorynia và Jankowska
(2007) (dẫn lại từKachniewska (2013) về liên kết vùng
trong du lịch và quan điểm của SimonHudson (2017)
về sản phẩm du lịch, chúng tôi có các định hướng
xây dựng sản phẩm du lịch cho tỉnh Đắk Nông theo
hướng kiến tạo sản phẩm du lịch nhằm gia tăng giá trị
tài nguyên tự nhiên và nhân văn; kiến tạo sản phẩm
theo hướng dựa vào lợi thế cạnh tranh và nhận diện
thị trường ngách; và nâng cấp chuỗi giá trị du lịch của
bộ sản phẩm du lịch:
Kiến tạo sản phẩm du lịch theo hướng gia
tăng giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn
Để du khách cảm nhận trọn vẹn giá trị tự nhiên hoặc
nhân văn hoặc tích hợp cả hai của các điểm đến, Đắk
Nông cần phải xây dựng bộ tư liệu thuyết minh và
nâng cao nghiệp vụ thuyết minh du lịch tại điểm cho
địa phương. Hiện nay, gần như các câu chuyện kể
về giá trị của điểm đến tham quan – du lịch tại Đắk
Nông chưa được đầu tư theo hướng chuyển tải các
giá trị tài nguyên địa phương vào các sản phẩm du
lịch. Việc xây dựng và chuẩn hóa bộ tư liệu thuyết
minh du lịch tại địa phương là một điều cần thiết.
Xây dựng bộ thuyếtminh cần được triển khai dựa trên
các câu chuyện kể ở địa phương giải thích các sự vật
hiện tượng xung quanh về các nhân vật, địa danh, sự
kiện, món ăn, bài hát, sự tích Bên cạnh đó, các phát
hiện về khảo cổ học và địa chất học của công viên địa
chất Đắk Nông, hệ thống hang động núi lửa, không
k Phỏng vấn lãnh đạo UBND tỉnh Đăk Nông tháng 7 năm 2019
167
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
gian sinh thái và văn hóa tộc ngườiMnông, Ê Đê, Mạ,
Xtiêng cũng sẽ là các điểm nhấn làm phong phú cho
bộ sản phẩm du lịch.
Bên cạnh bộ thuyết minh mang đậm phong cách địa
phương, ĐắkNông còn cần phải chuyển tải những giá
trị tài nguyên đặc sắc này vào trong các sản phẩm đặc
sản và lưu niệm của địa phương để làm phong phú
cho các hoạt động du lịch tại chỗ. Trên cơ sở các thế
mạnh về các mặt hàng nông nghiệp và Chương trình
Mỗi Xã Một Sản phẩm (OCOP), Đắk Nông cần đẩy
mạnh việc đa dạng hóa các sản phẩmnông nghiệp chủ
lực (cà phê, bơ, tiêu, điều, măng cụt, sầu riêng, khoai
lang, xoài, lúa gạo) biến chúng thành các sản phẩm
phục vụ du lịch. Quá trình đa dạng hóa, xây dựng hay
quảng bá thương hiệu các sản phẩm này phải gắn với
câu chuyện hay những tài nguyên nhân văn để khi du
khách thưởng thức các sản phẩm này họ không chỉ có
cảm giác về mặt thể lý mà còn có cả về mặt cảm xúc
để chia sẻ và cảm nhận với quá trình mà chủ thể làm
ra các sản phẩm đó.
Sản phẩm du lịch giàu tài nguyên nhân văn còn cần
được bổ sung với các sản phẩm du lịch tại cộng đồng.
Hiện nay Đắk Nông đã có chủ trương thu hút khách
du lịch qua việc tổ chức các Lễ hội lớn (Lễ hội Bơ,
Lễ hội Thổ cẩm) và khi khách đã đến với Đắk Nông
thì cần phải có các chương trình kết nối đến các địa
phương khác trong tỉnh mà cụ thể là địa bàn Gia
Nghĩa và các vùng phụ cận như tuyến Đắk Mil –
Krông Nô và Cư Jút. Du lịch tại cộng đồng dựa vào
tài nguyên nhân văn cũng là một cách để khắc phục
những hạn chế như việc thiếu sản phẩm du lịch vào
buổi tối trong bối cảnhĐắkNông còn hoang sơ so với
các điểm du lịch khác trong vùng như Đà Lạt, Buôn
Mê Thuột. Cần tích hợp xây dựng các sản phẩm du
lịch văn hóa tìm hiểu các câu chuyện văn hóa Tây
Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng gắn với
các cộng đồng tại chỗ như buôn J’Riêng dựa trên các
buổi biểu diễn văn hóa cồng chiêng và ẩm thực Tây
Nguyên.
Xây dựng sản phẩm du lịch dựa vào lợi thế
cạnh tranh hướng đến việc khai thác và
phát triển thị trường ngách
Mặc dù Đắk Nông so với các tỉnh lân cận như Lâm
Đồng và Đắk Lắk có tính tương đồng cao nhưng tài
nguyên du lịch của Đắk Nông mà theo chúng tôi xác
định hiện nay đó là tài nguyên thiên nhiên gồm có
hệ thống hang động núi lửa và cảnh quan có sự khác
biệt lớn như cảnh quan hồ Tà Đùng mang dáng dấp
của núi trong hồ. Ngoài ra, để xây dựng các sản phẩm
du lịch dựa vào lợi thế cạnh tranh này, Đắk Nông còn
có một hệ tài nguyên du lịch khác hỗ trợ. Đắk Nông
hiện đang có các không gian sản xuất nông nghiệp
tiên tiến, hiện đại và ngày càng hướng đến vùng sản
xuất nông nghiệp hữu cơ. Bên cạnh đó, ĐắkNông còn
có các nhàmáy sản xuấtmang tính riêng biệt trong bối
cảnh phát triển của Việt Nam như nhà máy Alumin
Nhân Cơ (Đắk R’lấp ). Các giá trị tài nguyên này sẽ
là nền tảng xây dựng các sản phẩmmang tính đặc thù
của Đắk Nông. Tài nguyên du lịch đặc trưng tạo ra
tính cạnh tranh riêng. Đắk Nông cần nắm bắt lợi thế
này xây dựng hệ thống sản phẩm du lịch đặc thù và
tập trung khai thác thị trường ngách với các chương
trình du lịch thiên về cung cấp thông tin chiều sâu cho
du khách kết hợp với các dịch vụ cung ứng ấn tượng
từ dịch vụ cơ bản gắn với nội dung của hành trình
lồng ghép các thông điệp để tạo sự đột phá về mặt sản
phẩm du lịch cho địa phương.
Cụ thể, do thị trường ngách thiên về dòng sản phẩm
có dịch vụ tinh tế cao và độ hiếm tài nguyên cao nên
khi thực hiện sản phẩm này cần chú ý đến việc phát
hiện lõi giá trị tài nguyên và khai thác bằng các dịch
vụ tinh tế. Cụ thể, để xây dựng bộ sản phẩm du lịch
liên quan đến cảnh quan Tà Đùng cần nhấnmạnh giá
trị hiếm là cảnh quan được ví như “Hạ Long trên cạn”
của Việt Nam và tính chất thú vị của cảnh quan liên
quan đến lượng nước của hồ vào hai mùa khác nhau.
Thông tin về lượng nước tại đây lên xuống theo “quy
luật ngược” đó là mùa mưa mực nước tại Tà Đùng
thấp và mùa khô lại dâng cao có thể được đưa vào
quảng bá và xây dựng câu chuyện cho sản phẩm này.
Còn dịch vụ thể hiện sự tinh tế đó có thể là về giới hạn
sức chứa khách du lịch để tăng cảm giác thoảimái cho
khách thưởng lãm; cung ứng các dịch vụ bổ sung ngày
càng cao cấp và có thêm thông điệp bảo vệmôi trường
và tạo cảm giác thụ hưởng “độc quyền” cho du khách
vào một số thời điểm tuyệt đẹp trong ngày hay trong
tuần hay trong năm cùng với việc thụ hưởng các dịch
vụ duy nhất; Hay như khi xây dựng sản phẩm du lịch
liên quan đến quần thể núi lửa Krông Nô cần nhấn
mạnh tính chất độc đáo của không gian núi lửa nhiều
tiềm năng trở thành công viên địa chất toàn cầu trong
tương lai; các dịch vụ du lịch tại đây sẽ tạo nên tính
hấp dẫn và tinh tế ngay cả trong mùa mưa lẫn mùa
khô để tạo nên các trải nghiệm gia tăng cảm xúc kích
thích sự khám phá giới hạn bản thân nhưng việc đảm
bảo an toàn tuyệt đối cần được quan tâm. Để hỗ trợ
cho các tiềm năng thiên nhiên này, Đắk Nông cần xây
dựng các điểm đến nông nghiệp dần tiệm cận đến quy
trình sản xuất sạch và an toàn để tạo các trải nghiệm
“tìm hiểu câu chuyện từ vùng trồng đến bữa ăn” cho
du khách. Ngoài ra, không gian văn hóa cồng chiêng
và thổ cẩm của các tộc người ở tỉnh Đắk Nông với
các câu chuyện về ý nghĩa biểu tượng và trải nghiệm
văn hóa sẽ là một điểm nhấn tô điểm thêm cho sản
168
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
phẩm của các điểm nhấn của thị trường ngách được
xây dựng này.
Xây dựng sản phẩmdu lịch gắn với việc xây
dựng và nâng cấp chuỗi giá trị du lịch địa
phương
Có thể hiểu chuỗi giá trị du lịch tại Đắk Nông là tập
hợp của các chuỗi giá trị cungứng vận chuyển, lưu trú,
ẩm thực, tổ chức tham quan và các dịch vụ bổ sung
khác. Chuỗi giá trị du lịch chỉ phát huy hết tiềm lực
khi được liên kết một cách chặt chẽ và có tính “hữu cơ
hóa” cao. Hiện nay, các thành tố cấu thành nên chuỗi
giá trị du lịch tại Đắk Nông còn rời rạc và còn mang
tính cơ học. Để giảm tính cơ học và gia tăng tính hữu
cơ trong liên kết chuỗi giá trị du lịch, Đắk Nông cần
xác định một số sản phẩm du lịch chủ lực và tạo điều
kiện về chính sách, cơ chế, nguồn lực vận hành khai
thác sản phẩm để hình thành nên các doanh nghiệp
đóng vai trò là đầu chuỗi, duy trì sức sống cho chuỗi
và tạo điều kiện phát huy giá trị cho chuỗi.
Cụ thể tại ĐắkNông, lực lượng doanh nghiệp lữ hành
tại chỗ còn ít về số lượng và còn hạn chế về tiềm lực.
Việc huy động nguồn khách tại thị trường gửi khách
trọng điểm vẫn là thành phố Hồ Chí Minh và thị
trường kết nối khách là Đắk Lắk. Các doanh nghiệp
du lịch bên ngoài địa phương đóng vai trò rất quan
trọng đối với thị trường nhận khách Đắk Nông. Do
vậy, Đắk Nông cần chú ý đến việc đẩy mạnh kích cầu
du lịch tại thành phố Hồ Chí Minh, tăng cường liên
kết với các doanh nghiệp lân cận trong đó nổi bật là
Đắk Lắk. Phạm vi chuỗi du lịch Đắk Nông không
chỉ gói gọn trong ranh giới hành chính của tỉnh mà
cần vươn rộng với hai vùng ưu tiên lân cận là Đông
Nam Bộ (chủ lực là thành phố Hồ Chí Minh) và Tây
Nguyên (chủ lực là Đắk Lắk).
Như vậy, việc tăng cường mạng lưới du lịch, “tạo
chuỗi và duy trì chuỗi du lịch” phải vượt qua ranh giới
Đắk Nông và tạo thế liên kết phải hướng đến yếu tố
liên vùng cụ thể là liên kết với các doanh nghiệp du
lịch tại thành phốHồChíMinh vàĐắk Lắk. Hiện nay,
Đắk Nông đang tập trung nhiều hoạt động liên kết
tại thành phố Hồ Chí Minh nhưng còn thực hiện khá
hạn chế tại Đắk Lắk. Do vậy, Đắk Nông cần triển khai
các hợp tác đồng bộ và triệt để hơn nữa với Đắk Lắk.
Để thực hiện các liên kết này, Đắk Nông phải thực
hiện chiến lược kết hợp trong thiết kế tuyến đường và
thị trường gửi khách, bao gồm mô hình kinh doanh
nhằm thiết lập và cải thiện cơ chế tương tác thông tin
và cơ chế trao đổi và hợp tác tài nguyên du lịch giữa
các điểm du lịch trong tỉnh và các địa phương lân cận
như Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Việc liên kết để xây dựng các chương trình du lịch
chuyên đề cần được xây dựng trên cơ sở nền tảng giá
trị tài nguyên du lịch Tây Nguyên trên cơ sở liên kết
vùng là cần thiết. Cụ thể danh mục các chương trình
du lịch chuyên đề cần được kiến tạo và thực thi như
sau: (1) Phát huy tinh thần của tuyến du lịch chuyên
đề “Con Đường Xanh Tây Nguyên” vốn dĩ đã được
triển khai nghiên cứu và xây dựng từ năm 2007 của
Tổng cục Du lịch (2) Nhấn mạnh các chương trình
du lịch chuyên đề kết nối không gian cao nguyên và
vùng biển với tên gọi “Hành trình kết nối từ sông ra
biển” (nhấn mạnh quy luật diễn thế, sự khác biệt về
sinh thái văn hóa giữa Tây Nguyên và Nam Trung Bộ
với các điểmkết nối chínhBuônMaThuột -GiaNghĩa
–Đà Lạt –Nha Trang hay BuônMaThuột - Gia Nghĩa
– Bảo Lộc – PhanThiết).
KẾT LUẬN
Do Đắk Nông có vị thế là vùng có nhiều tiềm năng
nhưng hiện đang có nhiều hạn chế về phát triển du
lịch và là vùng nằm giữa các vùng đã định hình phát
triển du lịch nên liên kết vùng trong xây dựng sản
phẩmdu lịch choĐắkNông là việc làm cấp thiết. Trên
cơ sở phân tích tiềm năng, xu thế, lợi thế, bài viết cho
là Đắk Nông cần đẩy mạnh liên kết vùng trong phát
triển du lịch với vùng Tây Nguyên (Đắk Lăk và Lâm
Đồng) và Đông Nam Bộ (đặc biệt là thành phố Hồ
Chí Minh) để phát huy các lợi thế của mình. Trong
việc xây dựng các sản phẩm du lịch, Đắk Nông cần
chú ý kiến tạo sản phẩm du lịch theo hướng gia tăng
giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn; kiến tạo sản
phẩm theo hướng dựa vào lợi thế cạnh tranh và nhận
diện thị trường ngách; và nâng cấp chuỗi giá trị du
lịch của bộ sản phẩm du lịch. Trong quá trình này,
doanh nghiệp du lịch cần phải là người đứng đầu các
chuỗi, tạo ra các chuỗi giá trị du lịch và các cấp chính
quyền địa phương tạo ra môi trường cho các liên kết
này hoạt động như tạomôi trường đầu tư, xúc tiến du
lịch, đào tạo nguồn nhân lực
LỜI CẢMƠN
Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Đề tài mã số
B2018-18b-04.
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Tôi không có xung đột về lợi ích với bất cứ ai liên quan
đến việc công bố bài viết này.
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
Bài viết có đóng góp về mặt khoa học đó là đưa ra
một minh họa cụ thể cho trường hợp xây dựng sản
phẩm du lịch theo định hướng liên kết vùng theo đó
trong trường hợp củaĐắkNông doanh nghiệp phải là
169
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 3(3):162-172
người đứng đầu chuỗi liên kết. Đóng góp về mặt thực
tiễn của bài viết nhằm làm cơ sở tham khảo cho tỉnh
ĐắkNông và các doanh nghiệp lữ hành trong việc xây
dựng các sản phẩm để khai thác tiềm năng của Đắk
Nông.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Hudson, Simon . Tourism and Hospitality marketing: A global
perspective. Los Angeles: Sage. ; 2007.
2. Đỗ Cẩm Thơ. Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch Việt Nam
có tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế. Viện Nghiên Cứu
Phát Triển Du Lịch.; 2009.
3. Thị H, Thảo T, Hoàng Thị Thu Thảo. Phát Triển Sản PhẩmDu Lịch
Tại Thành Phố Đà Nẵng. Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đại học Đà
Nẵng.; 2012.
4. Võ Thị Bích Phương. Nghiên cứu phát triển sản phẩm du lịch
văn hoá Quảng Bình. Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.; 2015.
5. PhanĐôngNhựt. Nghiên cứu sảnphẩmdu lịchbiểnđảoQuảng
Nam. Luận văn Thạc sĩ, Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn -
Đại Học Quốc Gia Hà Nội.; 2015.
6. Tổng cục Du lịch. Đề án phát triển sản phẩm du lịch đặc thù
vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Los Angeles; Sage; 2015.
7. Võ Văn Sen, Ngô Thị Phương Lan, Ngô Thanh Loan. Xây dựng
sản phẩmdu lịch đặc thù đồng bằng sông Cửu Long: Lý thuyết
và thực tiễn. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh.; 2018.
8. Kachniewska, Magdalena. Towards the definition of a tourism
cluster. Journal of Entrepreneurship Management and Innova-
tion (JEMI). 2013;9(1):33–56.
9. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Nông. Báo cáo số 20/BC-UBND với
nội dung “Sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 09/12/HĐND
ngày 31/5/2012 củaHội đồngNhândân tỉnh về việc điều chỉnh,
bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Đăk Nông
giai đoạn 2011- 2015 và định hướng 2020.
170
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 3(3):162-171
Open Access Full Text Article Research Article
The University of Social Sciences and
Humanities, VNU-HCM
Correspondence
Ngo Thi Phuong Lan, The University of
Social Sciences and Humanities,
VNU-HCM
Email: ngophuonglan@hcmussh.edu.vn
History
Received: 18/08/2019
Accepted: 9/10/2019
Published: 10/11/2019
DOI : 10.32508/stdjssh.v3i3.527
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Designing tourism products for Dak Nong province in the
perspectives of regional linkage
Ngo Thi Phuong Lan*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
The Central Highlands is a tourism region rich in natural tourism resources and unique cultural char-
acteristics, forming Vietnam's special tourist hubs such as Da Lat and Buon Ma Thuot. In addition
to these key hubs, there is another locality with great potential for the resources that are capable
of creating a new tourism space associated with the typical natural landscape and unique ethnic
cultural values: Dak Nong Province. With the advantages of available resources and the geograph-
ical location with accessibility to Ho Chi Minh City and the vicinity of the Central Highlands and
South Central regions, Dak Nong is eligible to develop into a new tourism destination, creating a
counterbalance, stimulating production and diversifying tourism services for the Central Highlands
in general and Vietnam in particular. Based on the results of field research in July 2018 and Jan-
uary 2019, the paper proposes directions for designing Dak Nong's overall tourism products in the
perspectives of regional linkage. The viewpoint of the paper is that building tourism products is
essential for tourism development and must be oriented towards establishing regional links. De-
signing Dak Nong's tourism products in the perspectives of regional linkage needs to be based on
the competitive advantages of each locality's advantages. Unlike economic regional links in which
the state plays an important role, the key role in these tourism value chains must be played by
tourism enterprises; the State plays a leading role in creating an environment for these chains to
work.
Key words: tourism products, regional linkage, Dak Nong, tourism value chains
Cite this article : Thi Phuong Lan N. Designing tourism products for Dak Nong province in the per-
spectives of regional linkage. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 3(3):162-171.
171
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_san_pham_du_lich_dak_nong_theo_dinh_huong_lien_ket.pdf