- Mối liên quan giữa Anti CCP và RF huyết
thanh: Về mặt lí thuyết, cả hai xét nghiệm này có
khả năng phát hiện bệnh là như nhau. Vì thế nên
trong tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh theo EULAR
2010, cả Anti CCP và RF đều được đưa vào
tiêu chuẩn với vai trò tương đương nhau. Trong
nghiên cứu của chúng tôi gặp tỷ lệ anti CCP huyết
thanh (+) ở 76,9% bệnh nhân so với tỷ lệ RF (+) ở
67,3% bệnh nhân, chứng tỏ anti CCP có độ nhạy
cao hơn trong chẩn đoán, đặc biệt ở giai đoạn
sớm của bệnh (biểu đồ 1). Nếu chỉ sử dụng đơn
thuần xét nghiệm định lượng RF chúng tôi sẽ bỏ
sót gần 25% số bệnh nhân trong cả giai đoạn sớm
và muộn, còn nếu chỉ sử dụng anti CCP thì cũng
sẽ bỏ sót khoảng 15% số bệnh nhân ở cả hai giai
đoạn sớm và muộn (bảng 9), nếu sử dụng cả hai
xét nghiệm thì sẽ bao phủ được 92,3% (48/52)
bệnh nhân, trong đó có 51,9% bệnh nhân dương
tính với cả hai xét nghiệm. Theo nghiên cứu của
Debaugnies và cộng sự nếu cả RF và Anti CCP
âm tính thì hầu như không phải VKDT, tuy nhiên
vẫn có tỷ lệ 10 - 20% bệnh nhân VKDT thuộc
nhóm này. Trường hợp anti CCP âm tính nhưng
RF dương tính gợi ý bệnh thấp hoặc nhiễm trùng,
do RF không đặc hiệu riêng cho bệnh VKDT, nên
xét nghiệm này có giá trị định hướng chẩn đoán ở
các bệnh nhân huyết thanh âm tính với RF và nghi
ngờ viêm khớp dạng thấp, cũng như ở các trường
hợp bệnh tổ chức liên kết khác có RF dương tính.
Khi anti CCP dương tính và RF âm tính thường
thấy trong giai đoạn sớm của VKDT. Trường hợp
đồng thời cả RF và anti CCP dương tính có giá
trị rất cao trong chẩn đoán VKDT [4]. Như vậy giá
trị của xét nghiệm anti CCP được khẳng định là
có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn RF, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận
định này và phù hợp với kết quả nghiên cứu của
các tác giả khác [1], [2], [5].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xét nghiệm kháng thể Anti-CCP huyết thanh và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 211
I. đẶT VẤN đỀ
Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh
viêm khớp mạn tính thường gặp nhất trong nhóm
bệnh khớp viêm. Bệnh được xếp vào nhóm bệnh
tự miễn, có tổn thương cơ bản tại màng hoạt dịch
của khớp. Cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân
và cơ chế bệnh sinh. Trên thế giới tỉ lệ VKDT vào
khoảng 1% dân số [1], [3],[6]. Chẩn đoán bệnh
VKDT nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng và
chụp Xquang thường chỉ được phát hiện được
bệnh ở giai đoạn muộn. Để chẩn đoán sớm nhiều
trường hợp phải dựa vào xét nghiệm miễn dịch.
Trước đây xét nghiệm yếu tố dạng thấp (RF) là
tiêu chuẩn miễn dịch duy nhất giúp cho chẩn đoán
bệnh. Hiện nay các nghiên cứu đã chứng minh
xét nghiệm kháng thể anti CCP trong chẩn đoán
VKDT có vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán
xác định bệnh, đặc biệt là ở giai đoạn sớm khi
triệu chứng lâm sàng chưa rõ hoặc chưa đủ tiêu
chuẩn, khi những bệnh nhân có xét nghiệm yếu tố
dạng thấp (RF) âm tính, đồng thời xét nghiệm này
còn có ý nghĩa tiên lượng bệnh cao [4], [6]. Vì vậy
xét nghiệm kháng thể anti CCP đã được đưa vào
trong tiêu chuẩn chẩn đoán VKDT của Hội thấp
khớp châu Âu năm 2010 (EULAR) [6].
Tại Thái Nguyên, chúng tôi đã triển khai và áp
dụng thành công kỹ thuật xét nghiệm định lượng
kháng thể anti CCP huyết thanh trong chẩn đoán
bệnh VKDT, giúp nâng cao chất lượng chẩn đoán
và điều trị cho các bệnh nhân VKDT. Để khẳng
định giá trị của xét nghiệm cũng như có các đánh
giá riêng trên đối tượng bệnh nhân VKDT tại Thái
Nguyên chúng tôi tiến hành đề tài này với mục
tiêu: Xác định mối liên quan giữa nồng độ kháng
thể anti CCP huyết thanh với một số đặc điểm lâm
sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân viêm khớp
dạng thấp.
XÉT NGHIỆM KHÁNG THỂ ANTI-CCP HUYẾT THANH Và CÁC YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN VIÊM KHỚP DẠNG THẤP
lưu thị Bình*
*Trường đại học Y-Dược Thái Nguyên
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định một số yếu tố liên quan với xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh ở
các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (VKDT).
đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu 52 bệnh nhân được chẩn đoán viêm
khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn ACR 1987 và EULAR 2010.
Kết quả: Tỷ lệ nữ/nam: 2/1. 76,9% bệnh nhân có anti CCP huyết thanh (+); 67,3% bệnh nhân
có RF (+); 25% bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có anti CCP(+) và RF(-). Bệnh nhân nữ, bệnh nhân
có mức độ đau khớp nặng trên lâm sàng có tỷ lệ anti CCP (+) cao hơn các bệnh nhân nam, bệnh
nhân có đau khớp mức độ nhẹ và trung bình với p<0,05. Tỷ lệ anti CCP (+) và nồng độ trung bình
của anti CCP ở nhóm bị bệnh giai đoạn sớm cao hơn nhóm giai đoạn muộn (118 ± 90,64 UI/ml với
85,9 ± 80,1 UI/ml).
Kết luận: Anti CCP huyết thanh (+) là xét nghiệm quan trọng trong chẩn đoán bệnh VKDT. Tỷ lệ
anti CCP (+) cao hơn ở nhóm bệnh nhân nữ, bệnh nhân bị bệnh giai đoạn sớm, đau khớp nặng trên
lâm sàng. Độ nhạy của anti CCP cao hơn RF trong tất cả các giai đoạn bệnh, đặc biệt ở giai đoạn
sớm của bệnh.
Từ khóa: Viêm khớp dạng thấp (VKDT), kháng thể anti CCP (anti CCP), yếu tố dạng thấp (RF).
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX212
II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. đối tượng nghiên cứu
* Gồm 52 bệnh nhân đáp ứng đủ các tiêu
chuẩn sau:
- Các bệnh nhân được chẩn đoán VKDT theo
tiêu chuẩn ACR 1987 [3].
- Các bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên
cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có kèm
bệnh lý ung thư, bệnh tự miễn khác.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả.
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, tiến
cứu từng trường hợp.
- Chọn mẫu có chủ đích, cỡ mẫu toàn bộ.
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 11/2013 - 10/2014.
- Địa điểm nghiên cứu: Bệnh Viện Đa Khoa
Trung ương Thái Nguyên, Bệnh viện Trường Đại
Học Y Thái Nguyên, Bệnh viện A Thái Nguyên.
3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Chỉ tiêu nghiên cứu
* Lâm sàng:
+ Giai đoạn bệnh (sớm: < 1 năm, muộn: ≥ 1 năm).
+ Vị trí khớp viêm đầu tiên, số lượng khớp
viêm (10 khớp).
+ Đánh giá mức độ đau: theo thang điểm VAS
(từ 10-40đ: đau nhẹ, từ >40-60đ: đau vừa, từ >60-
100đ: đau nặng). [7]
+ Đánh giá đợt tiến triển: khi chỉ số Ritchie ≥
9 [6].
+ Đánh giá mức độ hoạt động bệnh: Chỉ số
DAS 28 [6].
* Cận lâm sàng:
- Tổn thương khớp trên Xquang: chia làm 4
giai đoạn theo Steinbrocker [3].
+ Giai đoạn 1: Chưa có thay đổi, chỉ có hình
ảnh mất chất khoáng đầu xương.
+ Giai đoạn 2: Hình bào mòn xương, hình hốc
trong xương, hẹp nhẹ khe khớp.
+ Giai đoạn 3: Khe khớp hẹp rõ, bờ nham
nhở, dính khớp 1 phần.
+ Giai đoạn 4: Dính và biến dạng khớp trầm
trọng, bán trật khớp, lệch khớp.
- Xét nghiệm định lượng miễn dịch yếu tố
dạng thấp trong huyết thanh (RF): Âm tính (<8IU/
ml), dương tính (≥8UI/ml). Xét nghiệm tại khoa Vi
sinh BVĐKTƯTN.
- Xét nghiệm định lượng thể kháng anti CCP
huyết thanh: Phương pháp ELISA - miễn dịch vi
hạt hóa phát quang (CMIA) định lượng anti CCP
thế hệ thứ hai (anti CCP2). Thực hiện trên máy
Architect của Abbott Hoa Kỳ, sử dụng Kit của hãng
Euro Dianostica Thuỵ Điển. Xét nghiệm tại khoa
sinh hóa BVĐKTƯTN.
Đánh giá kết quả: Âm tính < 5 UI/ ml, dương
tính ≥ 5 UI/ ml.
3.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Tất cả các bệnh nhân có dấu hiệu gợi ý đều
được khám lâm sàng, hỏi bệnh, chụp X-quang
khớp cổ bàn tay (bệnh nhân viêm đa khớp), với
khớp tổn thương ở bệnh nhân chỉ viêm tại 1 vị trí
khớp; làm các xét nghiệm huyết học, sinh hóa (cơ
bản), máu lắng, CRP, định lượng RF, định lượng
anti CCP.
- Các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán
được thu thập dữ liệu đầy đủ theo chỉ tiêu nghiên
cứu và được lưu các thông tin vào bệnh án nghiên
cứu thống nhất theo mẫu.
- Phân tích các yếu tố liên quan giữa đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng ở các bệnh nhân VKDT
với kết quả xét nghiệm anti CCP huyết thanh.
4. Xử lý số liệu: Theo thuật toán thống kê y học,
sử dụng phần mềm SPSS 16.0.
III. KẾT QUẢ
1. đặc điểm chung
- Tỷ lệ bệnh nhân nữ/nam: 2/1. Tuổi trung
bình 56,34 ± 11,0.
- 100% bệnh nhân có đợt tiến triển bệnh rõ:
Điểm Ritchie trung bình là 14,65 ± 9,61 và VAS
trung bình là 67,7 ± 12,92. 73,1% bệnh nhân
VKDT có giai đoạn hoạt động bệnh ở mức độ
mạnh (DAS28 >5,1).
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 213
- 76,9% (40/52) bệnh nhân có anti CCP huyết thanh (+), trong đó có 92,5% dương tính mạnh với
nồng độ anti CCP trung bình trong huyết thanh là: 142,0 ± 68,3 UI/ml.
2. Xác định mối liên quan giữa kháng thể anti CCP huyết thanh với một số triệu chứng lâm sàng
và cận lâm sàng bệnh nhân VKDT
Bảng 1. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh với giới tính
Giới
Anti CCP
Nữ Nam p
n % n %
<0,05Anti CCP(+) 29 82,3 11 64,7
Anti CCP(-) 6 17,1 6 35,3
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân nữ có nồng độ anti CCP (+) chiếm tỷ lệ cao 82,3%. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 2. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP với tiêu chuẩn chẩn đoán ACR và EULAR
Tiêu chuẩn
Anti CCP
eULAR 2010 (n=17) ACR 1987 (n=35)
p
n % ±sD n % ±sD
Anti CCP(+) 16 94,1 145,3 ± 105,71 24 68,6 119,2 ± 103,95
<0,05
Anti CCP (-) 1 5,9 11 31,4
Nhận xét: 94,1% bệnh nhân VKDT được chẩn đoán theo tiêu chuẩn EULAR có anti CCP (+). 31,4%
bệnh nhân chẩn đoán theo tiêu chuẩn ACR có anti CCP (-). Giá trị trung bình về nồng độ anti CCP ở các
bệnh nhân được chẩn đoán theo tiêu chuẩn EULAR 2010 cao hơn ACR 1987. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Bảng 3. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh với giai đoạn bệnh trên lâm sàng
Giai đoạn
Anti CCP
Giai đoạn sớm (n=24) Giai đoạn muộn (n=28)
n % ± SD (UI/ml) n % ± SD (UI/ml)
AntiCCP (+) 19 79,2
118,0±90,64
21 75,0
85,92±80,1
AntiCCP (-) 5 20,8 7 25,0
Nhận xét: Giai đoạn sớm bệnh nhân có tỷ lệ xét nghiệm anti CCP(+) cao hơn và mức nồng độ với
giá trị trung bình cao hơn giai đoạn muộn >30 UI/ml.
Bảng 4. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh với thời gian cứng khớp buổi sáng
Thời gian CKBs
Anti CCP
<1h ≥1h
p
n % n %
Anti CCP (+) 15 88,2 25 71,4
>0,05Anti CCP (-) 2 11,8 10 28,6
Tổng 17 100 35 100
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có anti CCP huyết thanh (+) cao hơn ở nhóm bệnh nhân có thời gian cứng
khớp buổi sáng kéo dài dưới 1h. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX214
Bảng 5. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh với số lượng khớp viêm
số lượng
Anti CCP
10 khớp
p
n % n % n %
Anti CCP (+) 9 81,8 22 75,9 9 75,0
>0,05Anti CCP (-) 2 18,2 7 24,1 3 25,0
Tổng 11 100 29 100 12 100
Nhận xét: Tỷ lệ các bệnh nhân có anti CCP(+) cao ở nhóm bệnh nhân có viêm <3 khớp. Ngược lại
tỷ lệ bệnh nhân có anti CCP (-) cao hơn ở nhóm bệnh nhân có viêm >10 khớp. Tuy nhiên sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 6. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh với mức độ đau khớp trên
lâm sàng (theo VAS)
Mức độ đau
Anti CCP
Trung bình Nặng
p
n % n %
Anti CCP(+) 15 68,2 25 83,3
<0,05Anti CCP(-) 7 31,3 5 16,7
Tổng 22 100 30 100
Nhận xét: Các bệnh nhân đau khớp mức độ nặng trên lâm sàng có tỉ lệ anti CCP(+) cao hơn nhóm
anti CCP (-). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 7. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh với tốc độ máu lắng giờ đầu
Tốc độ máu lắng
Anti CCP
Bình thường Tăng giờ đầu
p
n % n %
Anti CCP (+) 6 15,0 34 85,0
>0,05Anti CCP (-) 2 16,7 10 83,3
Tổng 8 15,5 44 84,6
Nhận xét: Tốc độ máu lắng giờ đầu tăng cao ở cả hai nhóm anti CCP (+) và anti CCP (-).
Bảng 8. Liên quan giữa xét nghiệm kháng thể anti CCP huyết thanh với giai đoạn tổn thương
trên X-quang
Giai đoạn
AntiCCP
sớm (giai đoạn 1,2) Muộn (giai đoạn 2,3) p
n % n %
>0,05
Anti CCP (+) 23 71,2 17 85,0
Anti CCP (-) 9 28,2 3 25,0
Tổng 32 100 20 100
Nhận xét: B ệnh nhân xét nghiệm anti CCP(+) trong huyết thanh có tổn thương Xquang ở giai đoạn
muộn chiếm tỷ lệ cao 85,0%.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 215
IV. BàN LUẬN
- Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả các
bệnh nhân VKDT gặp chủ yếu là nữ. Gần đây có
rất nhiều quan điểm ủng hộ vai trò của các hormon
giới tính trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh tự
miễn hệ thống. Bệnh VKDT cũng là một bệnh tự
miễn. Cũng chính vì thế sự mất cân bằng hormon
trong thời kì tiền mãn kinh và mãn kinh được coi
là một yếu tố nguy cơ làm khởi phát bệnh VKDT,
và làm cho tỷ lệ anti CCP (+) cao hơn nhóm bệnh
nhân nam với p<0,05 (bảng 1).
- 94,1% bệnh nhân VKDT được chẩn đoán
theo tiêu chuẩn EULAR 2010 có anti CCP (+).
68,6% bệnh nhân chẩn đoán theo tiêu chuẩn ACR
1987 có anti CCP (-). Giá trị trung bình về nồng độ
anti CCP ở các bệnh nhân được chẩn đoán theo
tiêu chuẩn EULAR 2010 cao hơn ACR 1987 - Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các nghiên cứu trên
thế giới đã chứng minh mặc dù độ nhạy và độ đặc
hiệu của hai tiêu chuẩn chẩn đoán là tương đương
nhau, nhưng bộ tiêu chuẩn EULAR 2010 có giá trị
chẩn đoán sớm bệnh VKDT hơn là bộ tiêu chuẩn
ACR 1987. Vì vậy kết quả bảng 2 càng khẳng định
giá trị chẩn đoán sớm của của xét nghiệm anti
CCP [5],[6].
- Bảng kết quả 3, 4, 5 cho thấy sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) về tỷ lệ anti
CCP (+) và (-) ở các nhóm bệnh nhân. Tuy nhiên
tỷ lệ bệnh nhân có anti CCP(+) chiếm tỷ lệ cao
hơn ở nhóm bệnh nhân bị bệnh giai đoạn sớm
(79,2%) và có viêm <3 khớp (81,8%) trong đó
100% bệnh nhân bị VKDT thể 1 khớp đều có anti
CCP(+) ở mức độ mạnh. Kết quả này phù hợp với
hầu hết các nghiên cứu trong nước như nghiên
cứu của Nguyễn Thị Kim Anh, Nguyễn Thị Thanh
Mai [1],[2], [4], [5].
Bảng 9. Kết quả xét nghiệm anti CCP kết hợp với RF huyết thanh
Anti CCP
Giai đoạn
Anti CCP (+) (n=40) Anti CCP(-) (n=12)
p
RF(+) RF(-) RF(+) RF(-)
Sớm (n=24) 13 54,2 6 25,0 4 16,7 1 4,2
>0,05Muộn (n=28) 14 50,0 7 25,0 4 14,3 3 10,7
Tổng số 27 51,9 13 25,0 8 15,4 4 7,7
Nhận xét:
- 51,9% bệnh nhân có cả antiCCP(+) và RF(+).
- 25% bệnh nhân VKDT chỉ có xét nghiệm anti CCP(+) trong khi RF(-)
Biểu đồ 1. So sánh độ nhạy của xét nghiệm anti CCP và RF huyết thanh theo các giai đoạn bệnh
Nhận xét: Độ nhạy của anti CCP cao hơn RF trong các giai đoạn bệnh. Đặc biệt ở giai đoạn sớm tỷ
lệ anti CCP(+) và RF(+) đều cao hơn giai đoạn muộn.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX216
- Có mối liên quan giữa mức độ đau trên lâm
sàng với tỷ lệ kháng thể anti CCP (+) (bảng 6).
83,3% bệnh nhân đau mức độ nặng có anti CCP
dương tính, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Đau khớp mức độ nặng biểu hiện qua
điểm VAS trung bình là 67,7 ± 12,92 điểm, các xét
nghiệm phản ứng viêm cấp như tốc độ máu lắng
và CRP tăng rõ rệt.
- Kết quả này càng khẳng định nồng độ kháng
thể trong huyết thanh thường tăng ở các bệnh
nhân đau khớp mức độ nặng và có tốc độ máu
lắng giờ đầu tăng nên có tỷ lệ anti CCP (+) cao
(bảng 7).
- Khi đối chiếu giai đoạn tổn thương trên
X-quang với tỷ lệ anti CCP (+) (bảng 8) cho kết
quả: 85% bệnh nhân có anti CCP (+) có tổn
thương X-quang ở giai đoạn muộn, tuy nhiên sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả
nghiên cứu phù hợp với các nghiên cứu khác [1],
[2]. Có thể do các tổn thương trên X-quang thì cố
định trong khi nồng độ anti CCP thay đổi theo quá
trình điều trị. Theo tác giả Van der Helm và cộng
sự cho thấy nhóm bệnh nhân có kháng thể anti
CCP (+) có nhiều khớp bị tổn thương trên X-quang
hơn nhóm bệnh nhân có anti CCP (-) [7].
- Mối liên quan giữa Anti CCP và RF huyết
thanh: Về mặt lí thuyết, cả hai xét nghiệm này có
khả năng phát hiện bệnh là như nhau. Vì thế nên
trong tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh theo EULAR
2010, cả Anti CCP và RF đều được đưa vào
tiêu chuẩn với vai trò tương đương nhau. Trong
nghiên cứu của chúng tôi gặp tỷ lệ anti CCP huyết
thanh (+) ở 76,9% bệnh nhân so với tỷ lệ RF (+) ở
67,3% bệnh nhân, chứng tỏ anti CCP có độ nhạy
cao hơn trong chẩn đoán, đặc biệt ở giai đoạn
sớm của bệnh (biểu đồ 1). Nếu chỉ sử dụng đơn
thuần xét nghiệm định lượng RF chúng tôi sẽ bỏ
sót gần 25% số bệnh nhân trong cả giai đoạn sớm
và muộn, còn nếu chỉ sử dụng anti CCP thì cũng
sẽ bỏ sót khoảng 15% số bệnh nhân ở cả hai giai
đoạn sớm và muộn (bảng 9), nếu sử dụng cả hai
xét nghiệm thì sẽ bao phủ được 92,3% (48/52)
bệnh nhân, trong đó có 51,9% bệnh nhân dương
tính với cả hai xét nghiệm. Theo nghiên cứu của
Debaugnies và cộng sự nếu cả RF và Anti CCP
âm tính thì hầu như không phải VKDT, tuy nhiên
vẫn có tỷ lệ 10 - 20% bệnh nhân VKDT thuộc
nhóm này. Trường hợp anti CCP âm tính nhưng
RF dương tính gợi ý bệnh thấp hoặc nhiễm trùng,
do RF không đặc hiệu riêng cho bệnh VKDT, nên
xét nghiệm này có giá trị định hướng chẩn đoán ở
các bệnh nhân huyết thanh âm tính với RF và nghi
ngờ viêm khớp dạng thấp, cũng như ở các trường
hợp bệnh tổ chức liên kết khác có RF dương tính.
Khi anti CCP dương tính và RF âm tính thường
thấy trong giai đoạn sớm của VKDT. Trường hợp
đồng thời cả RF và anti CCP dương tính có giá
trị rất cao trong chẩn đoán VKDT [4]. Như vậy giá
trị của xét nghiệm anti CCP được khẳng định là
có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn RF, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận
định này và phù hợp với kết quả nghiên cứu của
các tác giả khác [1], [2], [5].
V. KẾT LUẬN
- Tỷ lệ bệnh nhân nữ, bệnh nhân có mức độ
đau khớp nặng trên lâm sàng ở nhóm anti CCP(+)
cao hơn nhóm anti CCP(-) có ý nghĩa thống kê với
p<0,05.
- Không có sự khác biệt về mức độ tiến triển,
mức độ hoạt động bệnh ở 2 nhóm bệnh nhân có
anti CCP huyết thanh (+) và (-).
- Tỷ lệ anti CCP huyết thanh (+) ở nhóm bệnh
nhân VKDT giai đoạn sớm cao hơn nhóm bệnh
giai đoạn muộn trên cả lâm sàng và X-quang.
- Nồng độ trung bình của anti CCP huyết
thanh ở nhóm:
+ Bệnh giai đoạn sớm trên lâm sàng cao hơn
nhóm giai đoạn muộn (118,0 ± 90,64 với 85,92 ±
80,1).
+ Nhóm bệnh nhân được chẩn đoán bệnh
theo EULAR 2010 cao hơn nhóm được chẩn
đoán theo ACR 1987 (145,3 ± 105,71 với 119,2
± 103,95).
- 76,9% bệnh nhân có anti CCP huyết thanh
(+), 67,3% bệnh nhân có RF (+); 25% bệnh nhân
viêm khớp dạnh thấp có anti CCP(+) trong khi
RF(-).
- Độ nhạy của anti CCP cao hơn RF trong
tất cả các giai đoạn bệnh, đặc biệt ở giai đoạn
sớm tỷ lệ anti CCP và RF đều cao hơn giai đoạn
muộn.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 217
1. Nguyễn Thị Kim Anh (2010), “Nghiên cứu
đặc điểm một số tự kháng thể trong bệnh viêm
khớp dạng thấp tại Bệnh viện đa khoa Cần Thơ”.
Luận văn cao học.
2. Nguyễn Thị Thanh Mai, cs (2007), “Bước
đầu xác định mối liên quan giữa kháng thể anti-
CCP 2 và một số yếu tố trong bệnh viêm khớp
dạng thấp”, Tạp chí Nội Khoa 5, tr. 67.
3. Edworthy SM Arnett FC, Bloch DA, et al
(1988), “The American Rheumatism Association
1987 revised criteria for the classification of
rheumatoid arthritis”, Arthritis Rheum 31, pp. 315-
24.
4. F. Debaugnies, et al (2013), “Anti-cyclic
citrullinated peptide antibodies: a comparison of
different assays for the diagnosis of rheumatoid
arthritis”, Scand J Rheumatol. 42(2), pp. 108-14.
5. J. Avouac, L. Gossec, M. Dougados
(2006), “Diagnostic and predictive value of anti-
cyclic citrullinated protein antibodies in rheumatoid
arthritis: a systematic literature review”, Ann
Rheum Dis. 65(7), pp. 845-51.
6. J. S. Smolen, et al (2014), “EULAR
recommendations for the management of
rheumatoid arthritis with synthetic and biological
disease-modifying antirheumatic drugs: 2013
update”, Ann Rheum Dis. 73(3), pp. 492-509.
7. Van der Helm, Verpoort Kirsten, Breedveld
Ferdinand, et al (2005), “Antibodies to citrullinated
proteins and differences in clinical progression of
rheumatoid arthritis”, Arthritis Research & Therapy,
7 (5), pp. R949 - R958.
TàI LIỆU THAM KHẢO
ABsTRACT
ANTI CYCLIC CITRULLINATeD PePTIDe ANTIBODIes AND ReLATeD FACTORs IN
RHeUMATOID ARTHRITIs PATIeNTs
Objectives: Identify some related factors with anti-CCP antibodies in rheumatoid arthritis patients.
Method: A cross-sectional descriptive.
subjective: 52 patients diagnosed Rheumatoid arthritis according to the criteria of ACR 1987
and EULAR 2010.
Results: The sex ratio was 2:1 for male: female. 76.9% patients had positive anti CCP, 67.3%
positive RF, 25% result of patients was positive anti CCP and negative RF. The positive ratio of anti
CCP was higher in female patients and patients had severe pain (p<0.05). The early stage had positive
ratio and average level of anti CCP higher than late stage (118 ± 90.64UI/ml with 85,9 ± 80,1UI/ml).
Conclusion: Positive anti CCP antibodies played an important role in confirming the diagnosis
of RA. The positive ratio of anti CCP was higher in female patients, patients had severe pain and
early stage of disease. With higher sensitivity than RF, especially in the early stage of RA.
Keywords: Rheumatoid arthritis (RA), Anti cyclic citrullinated peptides (Anti CCP), Rheumatid
factor (RF).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xet_nghiem_khang_the_anti_ccp_huyet_thanh_va_cac_yeu_to_lien.pdf