Hàm ý chính sách của bài viết khá rõ ràng.
Để hạn chế tổn thất thuế từ hành vi chuyển
lợi nhuận của các MNEs, các quy tắc thuế
quốc tế phải được tinh chỉnh. Ở cấp độ toàn
cầu, các chính phủ cần đi đến thỏa thuận về
các nguyên tắc thuế quốc tế. Một trong những
mối quan tâm gây tranh cãi nhất hiện nay là
liệu có nên thành lập một cơ quan thuế quốc
tế chịu trách nhiệm xem xét thay đổi quy tắc
thuế theo hướng có lợi hơn cho những người
chịu thiệt hại lớn nhất hay không. Tuy nhiên,
bước đột phá thực sự chỉ có thể trở thành
sự thật khi mỗi quốc gia tuân thủ nghiêm
ngặt các nguyên tắc thuế quốc tế. Đối với
các quốc gia ở Đông Nam Á, để hạn chế
BEPS hiệu quả, các quốc gia không chỉ cần
nỗ lực một cách riêng rẽ mà cần phải hành
động cùng nhau. Nhóm tác giả đề xuất một
số giải pháp kiểm soát BEPS của các quốc
gia ở Đông Nam Á như sau:
Không thu hút vốn đầu tư FDI một cách
tràn lan. Các quốc gia cần có sự chọn lọc
hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh việc đặt ra các tiêu chuẩn cao trong
thu hút đầu tư, ví dụ tiêu chuẩn về quy mô
dự án, trình độ sản xuất, trình độ công nghệ,
trình độ sử dụng lao động, các chuẩn mực
về sản phẩm, các tiêu chuẩn về môi trường,
các quốc gia cũng cần đặt ra các điều kiện
với các MNEs về các nghĩa vụ thuế khi hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Không cấp ưu đãi thuế đại trà. Nhằm thu
hút nhiều vốn FDI, các quốc gia ở Đông Nam
Á đưa ra quá nhiều ưu đãi thuế dành cho nhà
đầu tư nhưng thiếu các ràng buộc hay tiêu chí
phù hợp để được nhận các ưu đãi đó. Do các
quốc gia cấp phát quá nhiều ưu đãi đại trà
nên cơ sở thuế bị xói mòn nghiêm trọng.
Tăng cường hợp tác và hoàn thiện khung
pháp lí nhằm kiểm soát chuyển lợi nhuận
giữa các quốc gia ở Đông Nam Á. Các thỏa
thuận về thuế giữa các quốc gia Đông Nam Á
hiện còn nhiều bất cập, rời rạc và thiếu giá
trị pháp lí [7]. Điều này đã gây khá nhiều
khó khăn cho cơ quan thuế các nước trong
việc đưa ra các lập luận pháp lí nhằm đấu
tranh với các hành vi chuyển lợi nhuận của
các MNEs. Các khuôn khổ hợp tác cần được
thiết lập một cách bài bản, từ tầm nhìn, chiến
lược cho đến các chương trình và kế hoạch
hành động hợp tác cụ thể.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xói mòn cơ sở thuế, chuyển lợi nhuận (Beps) và nguồn thu thuế phân tích tại các quốc gia ở Đông Nam Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 DOI: 10.35382/18594816.1.35.2019.197
XÓI MÒN CƠ SỞ THUẾ, CHUYỂN LỢI NHUẬN (BEPS)
VÀ NGUỒN THU THUẾ PHÂN TÍCH TẠI CÁC QUỐC GIA
Ở ĐÔNG NAM Á
Trần Trung Kiên1, Huỳnh Văn Mười Một2
BASE EROSION, PROFIT SHIFTING (BEPS) AND TAX REVENUE:
ANALYSIS IN SOUTHEAST ASIAN COUNTRIES
Tran Trung Kien1, Huynh Van Muoi Mot2
Tóm tắt – Bài viết phân tích tác động
của xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận
(BEPS) đến nguồn thu thuế tại các quốc gia ở
Đông Nam Á giai đoạn 2012-2017. Các quốc
gia ở ASEAN phần lớn là các quốc gia đang
phát triển với ít kinh nghiệm đối phó với các
chiến lược thuế mạnh mẽ của các tập đoàn đa
quốc gia (MNEs). Theo đó, việc đo lường tác
động của BEPS đến nguồn thu thuế các quốc
gia ở Đông Nam Á là rất cần thiết và cấp
bách. Cụ thể, bài viết đo lường BEPS bằng
chỉ số offshore theo phương pháp tiếp cận ma
trận đầu tư nước ngoài (Offshore Investment
Matrix) được đề xuất bởi UNCTAD (2015).
Theo cách tiếp cận này, khoảng 3,6% vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sáu quốc
gia Đông Nam Á giai đoạn 2012- 2017 có
nguồn gốc từ các thiên đường thuế. Kết quả
mô phỏng cho thấy, các tác động của BEPS
làm nguồn thu thuế của các quốc gia ở Đông
Nam Á bị tổn thất khoảng 2,195 tỉ đô la năm
2017.
Từ khóa: BEPS, các quốc gia Đông
Nam Á, nguồn thu thuế.
Abstract – This paper analyzes the impact
1Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
2Trường Đại học Trà Vinh
Ngày nhận bài: 15/10/2019; Ngày nhận kết quả bình
duyệt: 29/10/2019; Ngày chấp nhận đăng: 19/11/2019
Email: kientt@ueh.edu.vn
1University of Economics Ho Chi Minh City
2Tra Vinh University
Received date: 15th October 2019 ; Revised date: 29th
October 2019; Accepted date: 19th November 2019
of base erosion and profit shifting (BEPS)
on tax revenue in Southeast Asian countries
for the period of 2012-2017. ASEAN coun-
tries are mostly developing countries with
little experience dealing with the aggressive
tax strategies of multinational corporations
(MNEs). Accordingly, measuring the impact
of BEPS on tax revenue in Southeast Asian
countries is essential and urgent. Specifi-
cally, this paper measures BEPS by offshore
index using the Offshore Investment Matrix
approach proposed by UNCTAD (2015). Ac-
cording to this approach, 3.6% of inflow
foreign direct investment in six Southeast
Asian countries for the period of 2012-
2017 originated from tax havens and special-
purpose tax countries. The empirical simula-
tion shows that about $ 2.195 billion of the
tax revenue of Southeast Asian countries in
2017 is lost because of BEPS.
Keywords: BEPS, Southeast Asian coun-
tries, tax revenue.
I. GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, xói mòn cơ sở
thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS) dần trở
thành vấn đề rất được quan tâm tại các hội
nghị quốc tế và được nghiên cứu bởi nhiều
học giả. BEPS đang trở thành một thách thức
lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu thuế
ở nhiều quốc gia trên thế giới [1]–[6]. Vấn
đề này đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia
Đông Nam Á, nơi mà chính sách thu hút FDI
cùng với sự kiểm soát và phản ứng chưa phù
1
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 KINH TẾ - XÃ HỘI
hợp của các quốc gia này có thể làm trầm
trọng hơn tổn thất nguồn thu thuế [2]. Hơn
nữa, các quốc gia này lại ít kinh nghiệm trong
việc ứng phó với các chiến lược hoạch định
thuế mạnh mẽ của các tập đoàn đa quốc gia
[2], [7].
Tuy vậy, bằng chứng thực nghiệm về tổn
thất thuế từ BEPS còn rất hạn chế. Ở phương
diện khác, cách thức mà các tập đoàn đa quốc
gia (MNEs) chuyển lợi nhuận vì mục tiêu
thuế ngày càng được sáng tỏ. Thực tế cho
thấy, cách thức chuyển lợi nhuận dần bị cộng
đồng phát hiện bởi những sự kiện rò rỉ tài liệu
mật gần đây như hồ sơ Panama và các nghiên
cứu tình huống cụ thể [8]. Tuy nhiên, ở một
phương diện khác, bằng chứng thực nghiệm
về tác động của BEPS vẫn còn khiêm tốn
bởi nhiều lí do, trong đó, việc thiếu dữ liệu
và khó khăn trong việc đo lường BEPS là
hai nguyên nhân chính yếu [1]–[5], [9], [10],
[11].
Tác động của BEPS đối với nguồn thu thuế
ở các quốc gia đang phát triển và đặc biệt là
các quốc gia ở Đông Nam Á còn rất khiêm
tốn. Lược khảo nghiên cứu cho thấy, việc
ước lượng tác động của BEPS chủ yếu được
nghiên cứu tại các quốc gia phát triển như
Liên minh châu Âu (EU), các quốc gia hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD). Trong khi
đó, các nghiên cứu tại các quốc gia đang phát
triển là rất hạn chế [2], [3]. Thời gian gần đây,
một vài nghiên cứu chú trọng phân tích tại
các quốc gia đang phát triển [2], [12], [13]–
[18]. Tuy nhiên, theo hiểu biết của nhóm tác
giả, rất ít nghiên cứu chú trọng phân tích tại
trường hợp các quốc gia ở Đông Nam Á.
Trong khi đó, các quốc gia ở Đông Nam Á
là trường hợp nghiên cứu rất phù hợp để phân
tích tác động của BEPS đến tổn thất thuế.
Các quốc gia ở Đông Nam Á phần lớn là
các quốc gia đang phát triển (trừ Singapore)
đang thực hiện các chính sách thu hút FDI
mạnh mẽ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hơn nữa, các quốc gia này đang ngày càng
hội nhập sâu rộng hơn vào cộng đồng kinh
tế khu vực và quốc tế mà bước ngoặt quan
trọng là việc thành lập Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) [7]. Do đó, việc nghiên cứu
các tác động của BEPS đến nguồn thu thuế ở
các quốc gia này là rất cần thiết và cấp bách.
Chính vì những lí do trên, mục tiêu mà
bài viết hướng đến là ước lượng tác động
của BEPS đến nguồn thu thuế ở các nước
Đông Nam Á. Cụ thể, nhóm tác giả áp
dụng phương pháp ma trận đầu tư nước
ngoài (Offshore Investment Matrix approach
- OIM) được đề xuất bởi UNCTAD [19] để
xác định thiên đường thuế và các quốc gia
mục đích đặc biệt về thuế (Special purpose
entities - SPEs). Từ đó, chỉ số offshore nhằm
đo lường BEPS được xác định. Dựa trên chỉ
số này, nhóm tác giả đánh giá thực nghiệm
mối quan hệ giữa chỉ số offshore và tỉ lệ hoàn
vốn của vốn đầu tư nước ngoài. Cuối cùng,
tổn thất nguồn thu thuế cho các nước Đông
Nam Á được ước lượng bằng một tiến trình
mô phỏng thực nghiệm.
Để đạt được các mục tiêu trên, phần còn
lại được cấu trúc như sau: phần hai là cơ sở
lí luận và lược khảo các nghiên cứu trước;
phần ba là phương pháp nghiên cứu và mô
tả dữ liệu. Kết quả chi tiết được trình bày
trong phần bốn. Cuối cùng, phần năm đưa ra
kết luận và một số hàm ý chính sách.
II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
BEPS được định nghĩa là các chiến lược
tránh thuế mạnh mẽ của các tập đoàn đa quốc
gia nhằm khai thác các lỗ hổng và sự không
phù hợp trong các quy tắc thuế quốc tế để
chuyển lợi nhuận một cách giả tạo sang các
quốc gia có thuế suất thấp hoặc không có
thuế [20]. Với các chiến lược tránh thuế mạnh
mẽ này, nếu các MNEs càng nhận được nhiều
lợi ích thì tổn thất thuế từ các chính phủ càng
lớn. Theo OECD [20], các hoạt động BEPS
của MNEs hằng năm đã gây ra khoản lỗ từ
100 đến 240 tỉ USD trong nguồn thu thuế
toàn cầu. Đặc biệt, các quốc gia đang phát
triển phải chịu sự tổn thất lớn từ BEPS lớn
hơn các quốc gia phát triển bởi các quốc gia
này ít kinh nghiệm trong việc ứng phó với các
chiến lược hoạch định thuế mạnh mẽ của các
tập đoàn đa quốc gia [2], [16]. Đứng trước
các thách thức từ BEPS, các lãnh đạo G20
đã thông qua chương trình hành động của
OECD nhằm hạn chế BEPS (Anti – BEPS),
2
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 KINH TẾ - XÃ HỘI
khắc phục những thiếu sót trong quy định về
thuế quốc tế. Chương trình này bao gồm 15
hành động chi tiết cùng với sự nhất trí thông
qua tại hội nghị thượng đỉnh G20 tại Antalya
(Thổ Nhĩ Kỳ) năm 2015 [20]. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, các nỗ lực này chủ yếu là các
quốc gia phát triển. Đối với các quốc gia
đang phát triển, cụ thể là các quốc gia ở Đông
Nam Á, các hoạt động hợp tác nhằm kiểm
soát BEPS còn rất hạn chế. Do đó, BEPS và
tác động của nó đến tổn thất thuế trở thành
đề tài được nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu trong những năm gần đây. Tuy nhiên, các
nghiên cứu liên quan đến BEPS rất đa dạng
và khó làm rõ.
Trong phạm vi nghiên cứu này, nhóm tác
giả tập trung khái lược các công trình nghiên
cứu gần đây liên quan đến cách thức đo lường
BEPS và mối quan hệ giữa BEPS và tổn thất
nguồn thu thuế. Mặc dù nhiều nghiên cứu
xác nhận sự tồn tại của BEPS, số lượng các
nghiên cứu nhằm đo lường BEPS là tương đối
nhỏ. Dựa trên cấp độ dữ liệu, các nghiên cứu
về chủ đề này có thể chia thành hai nhóm:
nhóm nghiên cứu với dữ liệu sơ cấp từ các
công ti và nhóm nghiên cứu với dữ liệu thứ
cấp theo quốc gia [11].
Liên quan đến dữ liệu vi mô từ các công
ti, các học giả tập trung vào phân tích sự thay
đổi lợi nhuận bằng dữ liệu kinh tế vi mô ở
cấp độ doanh nghiệp [13], [17], [21], [11].
Xu hướng này phân tích các hành vi thay đổi
lợi nhuận vì mục đích thuế trong các MNEs
với lí thuyết về tài chính hành vi. Tuy nhiên,
so với dữ liệu vĩ mô theo quốc gia, dữ liệu
khảo sát từ các công ti gặp nhiều hạn chế
trong việc đo lường BEPS. Như Bradbury et
al. [2] luận giải, hạn chế lớn nhất của dữ
liệu khảo sát từ các công ti là sự không ngẫu
nhiên của dữ liệu. Theo các tác giả, bộ dữ
liệu Orbis, cơ sở dữ liệu thương mại phổ biến
về báo cáo tài chính doanh nghiệp, được thu
thập từ các MNEs một cách thuận tiện, không
ngẫu nhiên. Điều này ảnh hưởng đến hiệu
quả đo lường BEPS. Hơn nữa, dữ liệu cấp
độ công ti hầu như không có sẵn hoặc không
đáng tin cậy ở các quốc gia đang phát triển
[2].
Với các nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ
cấp theo quốc gia, các chỉ số kinh tế vĩ mô
như tài khoản quốc gia, cán cân thanh toán
(BOP), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
nguồn thu thuế là nguồn dữ liệu chính trong
nhiều nghiên cứu do sự sẵn có và độ tin cậy
cao của dữ liệu. Tất cả cơ sở dữ liệu này được
xuất bản công khai bởi các tổ chức quốc tế
uy tín như IMF, OECD và UNCTAD [2], [3],
[10], [22], [19].
Tuy nhiên, các chỉ số vĩ mô được công bố
không thể phản ánh quy mô của BEPS một
cách hiệu quả. Do đó, một số nghiên cứu
gần đây tập trung đo lường BEPS bằng nhiều
cách thức khác nhau [2], [3], [12], [11], [19].
Mặc dù còn nhiều tranh luận về phương pháp
luận, các phương pháp ước tính quy mô và
mức độ của BEPS được phân thành ba nhóm:
(1) chênh lệch thuế suất, (2) ước lượng tác
động của thiên đường thuế và (3) ma trận
đầu tư nước ngoài.
OECD [11] đã sử dụng dữ liệu từ bộ dữ
liệu Orbis để ước tính ảnh hưởng của sự
không phù hợp giữa các hệ thống thuế và các
chính sách ưu đãi thuế đối với tổn thất nguồn
thu thuế. Trong nghiên cứu của OECD, chênh
lệch thuế suất được xác định là chênh lệch
giữa thuế suất theo luật định giữa các quốc
gia mà các MNEs có chi nhánh. Trong khi
đó, Crivelli et al. [12] sử dụng phương pháp
ước lượng tác động của thiên đường thuế để
đo lường BEPS. Cụ thể, các tác giả ước tính
tác động của thuế suất trung bình của các
quốc gia được phân loại là thiên đường thuế
đến cơ sở thuế của các quốc gia khác. Trong
khi đó, dựa trên cách tiếp cận ma trận đầu
tư nước ngoài của UNCTAD [19], Bolwijn
et al. [2] đã liệt kê danh sách các thiên
đường thuế và thực thể có mục đích đặc biệt
về thuế (SPE), từ đó, ước tính ảnh hưởng
của BEPS đến nguồn thu thuế bằng chỉ số
offshore. Khác với hai nghiên cứu trước đó,
Bolwijn et al. [2] sử dụng bộ dữ liệu về FDI
song phương của Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF
CDIS) để đo lường BEPS liên quan đến FDI.
Cụ thể, cách đo lường BEPS theo phương
pháp của UNCTAD dựa trên việc phân tích
ma trận đầu tư nước ngoài (Offshore Invest-
ment Matrix - OIM). Đây là cách tiếp cận
dựa trên dữ liệu FDI song phương giữa các
3
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 KINH TẾ - XÃ HỘI
quốc gia. Đây được xem là một trong những
phương pháp ước tính hiệu quả đối với hoạt
động chuyển lợi nhuận của các MNEs [2],
[25]. Như UNCTAD [25] luận giải, cấu trúc
và thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tạo
ra cơ hội tránh thuế đối với thu nhập từ vốn
đầu tư này. Qua đó, nhiều chiến lược hoạch
định thuế của các MNEs liên quan đến quy
mô và hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do
đó, UNCTAD [19] kết luận rằng FDI có thể
được coi là nhiên liệu cho các kế hoạch tránh
thuế ở tầm quốc tế của các MNEs.
Theo đó, dựa trên cách tiếp cận của UNC-
TAD [19], bài viết này khám phá tác động
của BEPS đối với nguồn thu thuế ở các quốc
gia Đông Nam Á. Về mặt dữ liệu sử dụng,
tương tự như Bolwijn et al. [2], cơ sở dữ
liệu về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
song phương và dữ liệu nghiên cứu về cán
cân thanh toán của IMF (IMF CDIS và IMF
BOP / IIP) là nguồn dữ liệu chính của nghiên
cứu.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ
MÔ TẢ DỮ LIỆU
A. Ma trận đầu tư ra nước ngoài
Đầu tiên, nhóm tác giả sử dụng phương
pháp ma trận đầu tư nước ngoài (Offshore
Investment Matrix - OIM) được đề xuất bởi
UNCTAD [19] để phân tích mức phân bổ
FDI toàn cầu, qua đó, xác định lượng vốn
đầu tư FDI đến từ các thiên đường thuế (Tax
havens) và các quốc gia có mục đích đặc biệt
về thuế (Special Purpose Entities - SPEs).
Với mục tiêu nghiên cứu của bài viết,
nhóm tác giả sử dụng phương thức phân tích
vốn đầu tư nước ngoài FDI theo nhà đầu tư
vào các quốc gia ở Đông Nam Á (vì các quốc
gia ở Đông Nam Á đều được phân loại là
các quốc gia không phải là thiên đường thuế
hay các quốc gia có mục đích đặc biệt về
thuế). Theo đó, nhóm tác giả phân loại vốn
FDI song phương vào các quốc gia ở Đông
Nam Á thành ba nhóm: (1) lượng vốn FDI
đến từ các thiên đường thuế (Tax havens),
(2) lượng vốn FDI đến từ các quốc gia có
mục đích đặc biệt về thuế (SPEs) và (3)
lượng vốn FDI đến từ các quốc gia bình
thường (Non Offshore Financial Centres –
Non OFCs). Không giống như thiên đường
thuế hay các quốc gia bình thường khác, các
quốc gia SPEs là các quốc gia không chỉ có
các hoạt động kinh tế thực sự đáng kể mà
còn đóng vai trò là trung tâm tài chính tạo
điều kiện thuận lợi cho các MNEs thực hiện
các chiến lược hoạch định thuế [19]. Cụ thể,
việc phân loại lượng vốn đầu tư FDI được
thực hiện như sau:
• Nếu nhà đầu tư có vốn FDI song phương
đến từ các quốc gia nằm trong danh sách các
thiên đường thuế mà OECD công bố thì tất cả
lượng vốn FDI này được phân bổ vào nhóm
nhà đầu tư đến từ "thiên đường thuế".
• Nếu nhà đầu tư có vốn FDI song phương
đến từ các quốc gia có mục đích đặc biệt về
thuế SPEs thì lượng vốn FDI này được tách
thành hai phần: một phần vốn FDI được phân
bổ vào nhóm nhà đầu tư đến từ các quốc gia
SPEs, phần vốn FDI còn lại được phân bổ
cho nhà đầu tư được phân loại là các quốc
gia thông thường. Tỉ lệ này được UNTAD
[19] công bố dựa trên báo cáo tài chính của
ngân hàng trung ương thuộc các quốc gia này.
• Nếu nhà đầu tư có vốn FDI song phương
là các quốc gia không được phân loại của các
trung tâm đầu tư nước ngoài thì tất cả lượng
vốn FDI được phân bổ vào nhóm nhà đầu
tư đến từ các quốc gia thông thường (Non-
OFCs).
B. Mô phỏng thực nghiệm
Giả định chính trong phương pháp tiếp cận
của UNCTAD là giả định về mối quan hệ
nghịch biến giữa tỉ lệ vốn đầu tư FDI đến từ
các thiên đường thuế, các quốc gia có mục
đích đặc biệt về thuế trên tổng vốn FDI (sau
đây là chỉ số offshore) và tỉ lệ sinh lời trên
vốn đầu tư trực tiếp FDI (sau đây là tỉ lệ sinh
lời trên vốn FDI). Lí do mà UNCTAD luận
giải cho giả định này là thu nhập từ vốn FDI
có nguồn gốc từ các thiên đường thuế và các
quốc gia có mục đích đặc biệt về thuế thường
liên quan đến hành vi chuyển lợi nhuận của
các công ti đa quốc gia nhằm đạt mục tiêu
về thuế hơn là tạo ra giá trị sinh lời từ vốn
đầu tư thực sự. Vì vậy, tỉ lệ vốn đầu tư có
4
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 KINH TẾ - XÃ HỘI
nguồn gốc từ các quốc gia này càng lớn thì
nó càng tác động tiêu cực đến khả năng sinh
lời từ vốn đầu tư FDI tại nước tiếp nhận.
Kích thước mẫu nghiên cứu tùy thuộc vào
sự sẵn có của dữ liệu nghiên cứu mà cụ thể là
dữ liệu vốn đầu tư trực tiếp FDI song phương
(được sử dụng để tính toán chỉ số offshore)
và tỉ suất sinh lợi từ vốn FDI (được sử dụng
để tính toán tỉ lệ hoàn vốn). Cụ thể, chỉ số
offshore được xác định bằng tỉ trọng vốn FDI
có nguồn gốc các thiên đường thuế và các
quốc gia có mục đích đặc biệt về thuế (sau
khi đã phân bổ) trên tổng lượng vốn FDI vào
các quốc gia theo từng năm. Tỉ suất sinh lợi
từ vốn FDI được xác định bằng tỉ lệ của tổng
thu nhập từ vốn FDI trên tổng lượng vốn FDI
vào từng quốc gia theo năm.
Ngay khi xác định được chỉ số offshore
từ phân tích ma trận đầu tư nước ngoài phân
loại theo nhà đầu tư vào các quốc gia ở Đông
Nam Á, nhóm tác giả tính toán hệ số tương
quan giữa hai chỉ số này. Từ đó, tổn thất
nguồn thu thuế từ tác động của BEPS được
mô phỏng thông qua giả định về tổn thất lợi
nhuận (bao nhiêu thu nhập từ FDI bị tổn thất
từ thiên đường thuế và các quốc gia có mục
đích đặc biệt về thuế) và mức thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp trung bình là 20%.
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Dữ liệu đầu vào cho phương pháp OIM là
lượng vốn FDI song phương vào các quốc
gia ở Đông Nam Á được thu thập từ IMF
CDIS [23], [24], [26]. Do hạn chế về cơ
sở dữ liệu, mẫu nghiên cứu chỉ bao gồm
sáu quốc gia thành viên ASEAN, bao gồm
Campuchia, Indonesia, Malaysia, Myanmar,
Philippines và Thái Lan. Tổng vốn đầu tư
FDI vào của sáu quốc gia được phân tích vào
khoảng 735 tỉ USD vào năm 2017 (khoảng
2,5% FDI toàn cầu). Các quốc gia tiếp nhận
này đều được phân loại là các quốc gia thông
thường (Non OFCs). Do đó, nhóm tác giả
thực hiện phân loại vốn FDI vào các quốc
gia này theo nhà đầu tư. Theo phương pháp
của UNCTAD [28], vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài FDI đến các quốc gia ở Đông Nam Á
được phân loại thành ba nhóm cụ thể như
sau:
(1) Lượng vốn FDI vào có nguồn gốc từ
các thiên đường thuế (Tax haven): Lượng vốn
đầu tư đến từ 38 khu vực được xác định là
thiên đường thuế được công bố bởi OECD
[2], [19];
(2) Lượng vốn FDI vào có nguồn gốc từ
các quốc gia có mục đích đặc biệt về thuế
(SPEs): Lượng vốn đầu tư đến từ bốn quốc
gia tự tuyên bố là các SPEs, bao gồm Áo,
Hungary, Luxembourg và Hà Lan [19]. Quy
tắc phân bổ vốn FDI của các quốc gia SPEs
được xác định như Sơ đồ 1 mô tả.
(3) Lượng vốn FDI vào có nguồn gốc từ
các quốc gia không thuộc OFC: Lượng vốn
đầu tư đến từ các quốc gia không phải thiên
đường thuế và các quốc gia SPEs.
Theo đó, dựa trên ma trận đầu tư nước
ngoài OIM của UNCTAD [19], nhóm tác giả
xác định chỉ số offshore và tỉ lệ sinh lời từ
vốn FDI của sáu quốc gia Đông Nam Á theo
từng năm. Mô tả dữ liệu và ma trận tương
quan được trình bày tóm tắt trong Bảng 1 và
Bảng 2 dưới đây.
Hệ số tương quan cho thấy tác động tiêu
cực của chỉ số offshore đến tỉ suất sinh lời
từ vốn FDI. Hệ số tương quan (-0,332) có
nghĩa là cứ 1% vốn đầu tư FDI vào sáu
quốc gia Đông Nam Á có nguồn gốc từ
các thiên đường thuế và các quốc gia có
mục đích đặc biệt về thuế thì tương quan
nghịch biến với tỉ suất sinh lời từ vốn FDI là
0,332% (giảm 0,332%). Kết quả nghiên cứu
này tương đồng với nghiên cứu của UNCTAD
[19] và Bolwijn et al. [2]. Từ cơ sở này, nhóm
tác giả hướng đến hai bước phân tích tiếp
theo: (1) đánh giá khoản "lợi nhuận mất đi"
do vốn đầu tư có nguồn gốc từ các thiên
đường thuế và các quốc gia có mục đích đặc
biệt về thuế; (2) chuyển hóa "lợi nhuận mất
đi" này thành khoản tổn thất thuế tương ứng.
Dựa trên phương pháp của UNCTAD,
nhóm tác giả sử dụng kết quả phân tích hệ
số tương quan và giá trị trung bình để mô
phỏng “lợi nhuận mất đi” của các quốc gia
ở Đông Nam Á liên quan đến các khoản đầu
tư FDI đến từ các trung tâm đầu tư nước
ngoài (các thiên đường về thuế, các quốc gia
có mục đích đặc biệt về thuế). Với khoảng
3,6% tổng lượng vốn FDI đầu tư vào đến từ
5
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 KINH TẾ - XÃ HỘI
Sơ đồ 1: Quy tắc phân bổ vốn đầu tư đối với các quốc gia SPEs
(Nguồn:UNCTAD [19])
Bảng 1: Nguồn dữ liệu và thống kê mô tả
Biến Mô tả
Giá trị
trung vị
Nguồn dữ liệu
Tỉ lệ sinh lời (ror)
Tỉ lệ thu nhập từ vốn FDI so với tổng lượng vốn đầu tư
nước ngoài vào các quốc gia
0,085 UNCTADSTAT, IMF BOP/IIP
Chỉ số offshore
Tỉ lệ vốn đầu tư có nguồn gốc từ các trung tâm tài chính so với
tổng lượng vốn đầu tư nước ngoài vào các quốc gia
0,0345
IMF CDIS, ma trận đầu tư
nước ngoài OIM
Thống kê mô tả Số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
Tỉ suất sinh lời (ror) 36 0,092 0,028 0,051 0,163
Chỉ số offshore 36 0,036 0,027 0,001 0,091
(Nguồn: [23], [24], [25] và tính toán của nhóm tác giả.)
Bảng 2: Hệ số tương quan
Tỉ suất sinh lời (ror) Chỉ số offshore
Tỉ suất sinh lời (ror) 1
Chỉ số offshore -0,332 1
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả)
các trung tâm đầu tư nước ngoài (Bảng 1,
trung bình của chỉ số offshore), hệ số tương
quan ở mức -33,2% (Bảng 2, hệ số tương
quan) hàm ý tỉ lệ “lợi nhuận mất đi” khoảng
1,195% lượng vốn FDI vào các quốc gia ở
Đông Nam Á. Với lượng vốn FDI vào các
quốc gia ở Đông Nam Á vào khoảng 735 tỉ
đô la năm 2017, nhóm tác giả chuyển hóa “lợi
nhuận mất đi” này thành khoản tổn thất thuế
tương ứng. Kết quả mô phỏng thực nghiệm
cho thấy lợi nhuận tổn thất sau thuế ước tính
khoảng 8,78 tỉ USD và tổn thất thuế khoảng
2,195 tỉ USD năm 2017, giả định thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp trung bình là
20%. Bảng 3 hiển thị các bước của mô phỏng
này.
6
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 KINH TẾ - XÃ HỘI
Bảng 3: Mô phỏng sự dịch chuyển lợi nhuận của các nước ở Đông Nam Á năm 2017
Tỉ lệ “lợi nhuận mất đi”
ước tính
Tổng lượng
FDI vào
(Tỉ USD,
2017)
Ước tính “Lợi nhuận mất đi”
sau thuế do BEPS (Tỉ USD)
Ước tính “Lợi nhuận mất đi”
trước thuế do BEPS (Tỉ USD)
Ước tính tổn thất thuế
do BEPS (Tỉ USD)
1,195% 735 8,78 10,975 2,195
(Nguồn: UNCTAD [19] và tính toán của tác giả)
V. KẾT LUẬN
Tóm lại, bài viết này hướng đến hai điểm
phân tích chính. Đầu tiên, nhóm tác giả áp
dụng phương pháp ma trận đầu tư nước ngoài
(OIM) để định lượng mức phân bổ vốn đầu
tư FDI thông qua các thiên đường thuế và
các quốc gia có mục đích đặc biệt về thuế
vào các quốc gia ở Đông Nam Á. Kết quả
phân tích cho thấy 3,6% tổng lượng vốn FDI
vào sáu quốc gia Đông Nam Á đến từ các
trung tâm đầu tư nước ngoài trong bối cảnh
FDI toàn cầu. Thông qua tiến trình mô phỏng
thực nghiệm với giả định về mối quan hệ
nghịch biến giữa tỉ lệ vốn đầu tư FDI đến từ
các thiên đường thuế, các quốc gia có mục
đích đặc biệt về thuế trên tổng vốn FDI và
tỉ lệ sinh lời trên vốn đầu tư trực tiếp FDI,
nhóm tác giả ước tính BEPS gây thiệt hại về
số thu thuế cho các quốc gia ở Đông Nam Á
vào khoảng 2,195 tỉ USD năm 2017.
Hàm ý chính sách của bài viết khá rõ ràng.
Để hạn chế tổn thất thuế từ hành vi chuyển
lợi nhuận của các MNEs, các quy tắc thuế
quốc tế phải được tinh chỉnh. Ở cấp độ toàn
cầu, các chính phủ cần đi đến thỏa thuận về
các nguyên tắc thuế quốc tế. Một trong những
mối quan tâm gây tranh cãi nhất hiện nay là
liệu có nên thành lập một cơ quan thuế quốc
tế chịu trách nhiệm xem xét thay đổi quy tắc
thuế theo hướng có lợi hơn cho những người
chịu thiệt hại lớn nhất hay không. Tuy nhiên,
bước đột phá thực sự chỉ có thể trở thành
sự thật khi mỗi quốc gia tuân thủ nghiêm
ngặt các nguyên tắc thuế quốc tế. Đối với
các quốc gia ở Đông Nam Á, để hạn chế
BEPS hiệu quả, các quốc gia không chỉ cần
nỗ lực một cách riêng rẽ mà cần phải hành
động cùng nhau. Nhóm tác giả đề xuất một
số giải pháp kiểm soát BEPS của các quốc
gia ở Đông Nam Á như sau:
Không thu hút vốn đầu tư FDI một cách
tràn lan. Các quốc gia cần có sự chọn lọc
hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh việc đặt ra các tiêu chuẩn cao trong
thu hút đầu tư, ví dụ tiêu chuẩn về quy mô
dự án, trình độ sản xuất, trình độ công nghệ,
trình độ sử dụng lao động, các chuẩn mực
về sản phẩm, các tiêu chuẩn về môi trường,
các quốc gia cũng cần đặt ra các điều kiện
với các MNEs về các nghĩa vụ thuế khi hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Không cấp ưu đãi thuế đại trà. Nhằm thu
hút nhiều vốn FDI, các quốc gia ở Đông Nam
Á đưa ra quá nhiều ưu đãi thuế dành cho nhà
đầu tư nhưng thiếu các ràng buộc hay tiêu chí
phù hợp để được nhận các ưu đãi đó. Do các
quốc gia cấp phát quá nhiều ưu đãi đại trà
nên cơ sở thuế bị xói mòn nghiêm trọng.
Tăng cường hợp tác và hoàn thiện khung
pháp lí nhằm kiểm soát chuyển lợi nhuận
giữa các quốc gia ở Đông Nam Á. Các thỏa
thuận về thuế giữa các quốc gia Đông Nam Á
hiện còn nhiều bất cập, rời rạc và thiếu giá
trị pháp lí [7]. Điều này đã gây khá nhiều
khó khăn cho cơ quan thuế các nước trong
việc đưa ra các lập luận pháp lí nhằm đấu
tranh với các hành vi chuyển lợi nhuận của
các MNEs. Các khuôn khổ hợp tác cần được
thiết lập một cách bài bản, từ tầm nhìn, chiến
lược cho đến các chương trình và kế hoạch
hành động hợp tác cụ thể.
7
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 35, THÁNG 9 NĂM 2019 KINH TẾ - XÃ HỘI
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Avi-Yonah, Reuven S, Haiyan Xu. Evaluating beps.
Erasmus Law Review. 2007;10:3.
[2] Bolwijn R, Casella B, Rigo D. An FDI-driven ap-
proach to measuring the scale and economic impact of
BEPS. Transnational Corporations. 2018;25(2):107–
43.
[3] Bradbury D, Hanappi T, Moore A. Estimating the
fiscal effects of base erosion and profit shifting:
data availability and analytical issues. Transnational
Corporations. 2018;25(2):91–106.
[4] Brauner Y. What the BEPS. Florida Tax Review.
2014;16:55.
[5] Casella B. Looking through conduit FDI in search of
ultimate investors–a probabilistic approach. Transna-
tional Corporations. 2019;26(1):109–146.
[6] Thanh Su Dinh, Trung Thanh Bui, Tran Kiên. Re-
forms of Tax System in Vietnam: Toward Interna-
tional Integration Commitments until 2020. Available
at SSRN 2486926. 2014;.
[7] UNCTAD. The Fiscal Role of Multinational En-
terprises: Towards Guidelines for Coherent Interna-
tional Tax and Investment Policies. UNCTAD; 2015.
[8] Fuest C, Spengel C, Finke K, Heckemeyer J,
Nusser H. Profit shifting and’aggressive’tax planning
by multinational firms: Issues and options for reform.
ZEW-Centre for European Economic Research Dis-
cussion Paper. 2013;13-078.
[9] Clausing K A. The effect of profit shifting on the
corporate tax base in the United States and beyond.
National Tax Journal. 2016;69(4):905–934.
[10] Cobham A, Janský P. Global distribution of revenue
loss from corporate tax avoidance: re-estimation and
country results. Journal of International Develop-
ment. 2018;30(2):206–232.
[11] OECD. Oecd/G20 Inclusive Framework on Beps:
Progress Report July 2018-May 2019. OECD; 2019.
[12] Crivelli E, De Mooij R A, Keen M M. Base
Erosion, Profit Shifting and Developing Countries.
International Monetary Fund. 2015;.
[13] Janský P, Kokesˇ O. Corporate tax base erosion and
profit shifting out of the Czech Republic. Post-
Communist Economies. 2015;27(4):537–546.
[14] Janský P, Kokesˇ O. Profit-shifting from Czech multi-
national companies to European tax havens. Applied
Economics Letters. 2016;23(16):1130–1133.
[15] Janský P, Palanský M. Estimating the scale of profit
shifting and tax revenue losses related to foreign
direct investment. International Tax and Public Fi-
nance. 2017;p. 1–56.
[16] Janský P, Sˇedivý M. Estimating the revenue costs
of tax treaties in developing countries. The World
Economy. 2019;.
[17] Jurusˇs M, Ku¯ma E. BEPS: Impact of international tax
measures on business environment in Latvia. XVII
International. 2016;104.
[18] Leino Topias, Jyrki Ali-Yrkko¨. How Well Does
Foreign Direct Investment Measure Real Investment
by Foreign-Owned Companies?: Firm-Level Analysis.
Firm-Level Analysis (May 15, 2014) Bank of Finland
Research Discussion Paper. 2014;12.
[19] UNCTAD. UNCTADSTAT. United Nations Confer-
ence on Trade and Development; 2015.
[20] Ross James, Matthew Herrington. A Call to Rewrite
the Fundamentals of International Taxation: The
Oecd Beps Action Plan. International tax journal
. 2013;39:15.
[21] OECD. Measuring and Monitoring Beps, Action
11. Paris, France: Organisation for Economic Co-
operation and Development; 2015.
[22] Cobham A, Loretz S. International distribution of
the corporate tax base: Implications of different ap-
portionment factors under unitary taxation. Institute
of Development Studies, International Centre for Tax
and Development. 2014;.
[23] IMF. Balance of Payment and International Invest-
ment Positions Statistics; 2019.
[24] IMF. Coordinated Direct Investment Survey; 2019b.
8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xoi_mon_co_so_thue_chuyen_loi_nhuan_beps_va_nguon_thu_thue_p.pdf