Xu hướng phát triển của pháp luật quản trị công ty niêm yết trên thế giới và những vấn đề đặt ra với Việt Nam

Bốn là, pháp luật cần quy định rõ về cơ quan thực hiện việc giám sát và cưỡng chế thực thi Bộ quy tắc QTCT này. Năm là, cần đưa các yêu cầu về vấn đề đạo đức của đội ngũ lãnh đạo công ty niêm yết, cần quan tâm tới quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là phát triển triển bền vững vào Bộ quy tắc QTCT ở giai đoạn bước đầu, sau đó thể chế hóa bằng các quy định pháp luật khi các công ty niêm yết đã thực hiện việc tuân thủ trên thực tế. Phát triển bền vững hiện nay thể hiện trong một số quy tắc riêng lẻ như các nguyên tắc quốc tế về đầu tư có trách nhiệm của Liên hợp quốc hoặc bộ hướng dẫn của OECD dành cho các doanh nghiệp đa quốc gia. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng Bộ Quy tắc QTCT niêm yết hiện nay không thể thiếu sự cân nhắc để đưa vào nội dung phát triển bền vững của doanh nghiệp sao cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cũng như xu hướng chung trên thế giới. Như vậy, trong bôi cảnh môi trường pháp lý ́ của Việt Nam hiện nay, Luât Doanh nghiệp, Luật ̣ Chứng khoán chi đưa ra những nguyên tă ̉ c cơ bản ́ về QTCT niêm yết, các văn bản hướng dẫn về QTCT hiện nay cần phải được xây dựng theo hướng phù hợp với nguyên tăc QTCT của OECD, ́ phù hợp với xu hướng QTCT quốc tế phổ biến tại nhiều quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển. Điều này sẽ góp phần quan trọng trong việc rút ngăn khoảng cách vê ́ châ ̀ t lượng QTCT niêm ́ yết ở Việt Nam so với quốc tế, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tê khu vực và quô ́ c tê ́

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng phát triển của pháp luật quản trị công ty niêm yết trên thế giới và những vấn đề đặt ra với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 85 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM Phan Đăng Hải1 Tóm Tắt: Trong thời gian trở lại đây, với xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng, các tổ chức uy tín trên thế giới như OECD, World Bank, Ủy ban Basel... cũng như các quốc gia đang nỗ lực phát triển các quy định pháp luật, các nguyên tắc quản trị công ty lành mạnh và hiệu quả đối với công ty niêm yết. Thông qua việc nghiên cứu và tìm hiểu những xu hướng phát triển của pháp luật thế giới về quản trị công ty nói chung và quản trị công ty niêm yết nói riêng, đây sẽ là những kinh nghiệm quý báu cho việc hoàn thiện pháp luật quản trị công ty niêm yết ở Việt Nam. Từ khóa: Kinh nghiệm quốc tế, Hoàn thiện pháp luật, Quản trị công ty niêm yết Nhận bài; 10/05/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018 Abstract: Recently, with the deep trend of international integration, prestigious organizations in the world such as OECD, World Bank, Basel Committee.. as well as other countries are making effort to develop legal regulations, principles of governing companies rightly and effectively with listed companies. Through making researches and understanding development trend of international law on corporate governance in general and listed companies in particular, it is useful experience for finalization of the law on governing listed companies in Vietnam. Keywords: International experience, legal finalization, governance of listed companies. Date of receipt: 10/05/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018 Trong tiến trình phát triển toàn cầu, vấn đề quản trị công ty (Corporate Governance) xuất hiện như một nhu cầu khách quan khi nó nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía các nhà hoạch định chính sách, các nhà đầu tư cũng như chính bản thân các doanh nghiệp ở khắp các quốc gia trên thế giới. Theo cách hiểu thông thường, quản trị công ty (QTCT) liên quan tới một tập hợp các mối quan hệ giữa cổ đông, Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban giám đốc (BGĐ) điều hành và các bên có lợi ích liên quan khác. Quản trị công ty cũng thiết lập một cơ cấu giúp xây dựng mục tiêu của công ty, xác định phương tiện để đạt được các mục tiêu đó, và giám sát hiệu quả thực hiện mục tiêu2. Rất nhiều các nghiên cứu đã chỉ ra rằng QTCT niêm yết phức tạp hơn nhiều so với QTCT thông thường do những vấn đề như: cơ cấu sở hữu đa dạng, thông tin bất cân xứng, việc lập báo cáo tài chính và các quy định khác trên thị trường chứng khoán (TTCK) chặt chẽ hơn. QTCT niêm yết yếu kém không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của công ty, mà còn gây nên những tổn thất kinh tế và xã hội cực kỳ nghiêm trọng do những ảnh hưởng tiêu cực lên các cổ đông, TTCK, cũng như gây tác động lớn về kinh tế vĩ mô. 1. Một số xu hướng phát triển của pháp luật quản trị công ty niêm yết trên thế giới 1.1. Xác định chủ thuyết về quản trị công ty Xuất phát từ những vấn đề cơ bản của QTCT liên quan tới mục đích công ty, trên thế giới tồn tại 02 chủ thuyết với 02 quan điểm đối lập nhau, đó là học thuyết giá trị cổ đông (shareholder value theory) và học thuyết giá trị các bên liên quan (stakeholder value theory). Theo đó, học thuyết giá trị cổ đông coi công ty chỉ có một mục đích duy nhất là tối đa hoá lợi ích của cổ đông công ty, thậm chí trên cơ sở xâm phạm lợi ích của các bên liên quan khác như người lao động, chủ nợ, cộng đồng dân cư. Ngược lại, học thuyết giá trị các bên liên quan xác định công ty được thành lập và hoạt động vì lợi ích của tất cả các 1 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Luật – Học viện Ngân hàng 2 G20/OECD (2015), Principles of Corporate Governance, Pp..6 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 86 bên liên quan, vì vậy khi ra quyết định HĐQT và người điều hành công ty phải xem xét đến lợi ích của tất cả các bên liên quan mà không chỉ xem xét đến lợi ích cổ đông. Học thuyết giá trị cổ đông chiếm ưu thế ở Anh, Mỹ và các nước trước đây là thuộc địa của Anh như Canada, Australia Do có sự tách biệt rõ ràng giữa sở hữu và điều hành nên các cổ đông hoàn toàn không tham gia vào việc ra các quyết định của công ty mà quyền này thuộc về những thành viên HĐQT. Vì vậy, nguy cơ bị những người quản lý điều hành công ty chiếm đoạt thông qua các hành vi giao dịch tư lợi hoặc chiếm đoạt cơ hội kinh doanh của công ty là rất lớn. Thông qua quy định về sự tồn tại của công ty nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích của cổ đông, pháp luật đã bảo vệ tốt hơn cổ đông và khuyến khích họ đầu tư vào công ty. Điều này cũng phù hợp với cơ chế huy động vốn ở các nước Anh – Mỹ chủ yếu dựa vào thị trường chứng khoán. Ngoài ra, học thuyết giá trị cổ đông còn giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty vì nó tạo ra môi trường tốt nhất để tạo ra của cải và là cơ sở cho tăng trưởng kinh tế. Yêu cầu người quản lý điều hành công ty phải xem xét đến các yếu tố xã hội khác sẽ làm sao nhãng nhiệm vụ chính yếu của người quản lý điều hành công ty là tạo ra lợi nhuận, và do đó, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh3. Học thuyết giá trị các bên liên quan phát triển nhanh chóng vào những năm 90 của thế kỷ trước và chiếm ưu thế ở Đức, Nhật Bản. Theo học thuyết này thì cổ đông là một trong các bên liên quan và lợi ích người lao động, chủ nợ và các bên liên quan khác cần phải được tính tới khi công ty ra các quyết định. Như vậy, học thuyết giá trị các bên liên quan hướng tới việc không một bên nào có đóng góp cho sự thành công của công ty bị gạt ra ngoài quá trình ra quyết định. Học thuyết này được áp dụng trong thực tiễn ở Đức và Nhật Bản thể hiện trên hai phương diện. Thứ nhất, Luật công ty quy định người quản lý điều hành công ty khi ra quyết định phải xem xét đến lợi ích của các bên liên quan. Thứ hai, các bên liên quan được tham gia trực tiếp vào quá trình ra quyết định của công ty4. Ở Đức, ngân hàng, với tư cách là chủ nợ, chi phối đối với ban kiểm soát và ban điều hành của công ty. Tương tự, người lao động bắt buộc phải có đại diện trong ban kiểm soát, là cơ quan bầu ra và bãi miễn ban điều hành. Ở những công ty lớn, đại diện của người lao động phải chiếm ít nhất 50% thành viên Ban kiểm soát5. Việc xác định chủ thuyết đối với pháp luật QTCT nói chung và QTCT niêm yết nói riêng ở trở thành một vấn đề cốt lõi khi mục đích tồn tại của công ty là một câu hỏi quan trọng dành cho các nhà làm luật mà không dễ dàng để trả lời được. Chỉ trên cơ sở xác định mục đích của công ty là gì, khuôn khổ pháp lý cho QTCT niêm yết mới có thể xây dựng một cách thống nhất và nhất quán. 1.2. Xây dựng mô hình quản trị công ty Khi nghiên cứu về mô hình quản trị của các Công ty cổ phần nói chung trên thế giới, chúng ta nhận thấy có hai mô hình cơ bản, đó là cấu trúc hội đồng hai cấp (dual board hay two-tier board model) và hội đồng một cấp (unitary board hay one-tier board model). Việc tổ chức theo mô hình nào tùy thuộc vào điều kiện thực tế và truyền thống, cơ chế pháp lý của từng nước. Mô hình hội đồng hai cấp trong pháp luật công ty của Đức, Nhật và một số nước châu Âu như Áo, Thụy Sĩ và Hà Lan gồm có cấu trúc bộ máy quản trị - điều hành đặc biệt. Ở Đức, mô hình này có 2 cấp bậc, bậc trên là Ban Giám sát (Supervisory Board) và bậc dưới là Ban Quản lý (Management Board), trong đó các cổ đông và người lao động sẽ bầu chọn thành viên của Ban giám sát. Ngược lại, các quốc gia theo truyền thống pháp luật Anh – Mỹ (common law - thông luật hay hệ thống pháp luật Ănglô – Xắcxông) 3 J. Salacuse (2004), Corportate in the New Century, Company Lawyer, Pp.69-77 4 Lê Thái Phong & Vũ Văn Ngọc (2016), Các học thuyết về mục đích của công ty và việc áp dụng chúng trong Luật Doanh nghiệp ở Việt Nam ( 5 Ủy ban kinh tế của Quốc Hội (2016), Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, Nxb Tài chính, tr.272 Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 87 như Mỹ, Anh, Úc, Canada, Hồng Kôngthường có cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình hội đồng đơn cấp (unitary board hay one-tier board model), trong đó gồm ĐHĐCĐ và chỉ một HĐQT, gồm có các thành viên HĐQT điều hành hoặc không điều hành, thực hiện chức năng quản trị các hoạt động của công ty. Mô hình này không có một cơ quan độc lập để giám sát hoạt động của các thành viên HĐQT trong khi nó được giao quá nhiều quyền lực để thực thi nhiệm vụ. Sự sụp đổ của hàng loạt tập đoàn, công ty lớn, đặc biệt là các công ty niêm yết ở Mỹ đầu những năm 2000 như Enron, Woldcom, Polycom đã khiến hình thành xu hướng tìm kiếm và chỉ định những người độc lập để bầu vào HĐQT - chính là thành viên độc lập không điều hành của HĐQT, những người có thể đưa ra các ý kiến khách quan, độc lập trong công tác QTCT. Mỹ và các nước theo thông luật chính là nơi xuất phát của ý tưởng thành viên HĐQT không điều hành, thành viên độc lập (non-executive board member). Tùy thuộc vào quy mô của công ty ra sao, đặc biệt là đối với các công ty niêm yết, yêu cầu của pháp luật về số lượng các thành viên HĐQT độc lập có mặt trong HĐQT càng được tăng cao. Với sự lớn mạnh của nền kinh tế các quốc gia theo truyền thống pháp luật Anh – Mỹ, hoàn toàn dễ hiểu khi pháp luật trên thế giới là có xu hướng hội tụ về mô hình Anh – Mỹ, đặt vai trò của cổ đông lên hàng đầu và sử dụng sức mạnh thị trường để điều chỉnh hành vi của người quản trị và điều hành công ty. Việc xây dựng mô hình QTCT tương đồng nhau sẽ làm cho các công ty tổ chức và hoạt động theo mô hình này khi có quan hệ làm ăn với nhau thì dễ gần gũi với đối tác, bạn hàng hơn. Tuy nhiên, việc hội tụ hoàn toàn về một mô hình duy nhất là không phù hợp bởi đôi khi những giá trị của xã hội, lịch sử và văn hóa của mỗi quốc gia cũng là những rào cản nhất định cho việc tiếp nhận và thể chế hóa trong các quy định pháp luật. Nhìn ở khía cạnh tiêu cực, thế giới phương Tây đã tạo ra một mô hình kiểm soát công ty đắt đỏ nhất và thích kiện tụng nhất từ trước đến giờ6. Chính vì vậy, việc xây dựng mô hình QTCT niêm yết máy móc, rập khuôn giống như một mô hình nào đó mà không quan tâm tới điều kiện nội tại của quốc gia mình là một điều hoàn toàn không phù hợp. 1.3. Tiếp nhận và xây dựng các Bộ quy tắc về quản trị công ty niêm yết Trên thế giới, hàng loạt các bộ quy tắc về các thông lệ và các nguyên tắc QTCT nói chung và QTCT niêm yết nói riêng đã được xây dựng trong suốt hai thập kỷ qua với nỗ lực nhằm cải thiện hiệu quả QTCT. Có thể kể tới một số bộ quy chuẩn về thông lệ QTCT tốt có phạm vi áp dụng mang tính quốc tế như: Các nguyên tắc QTCT của G20/OECD7, tuyên bố về Nguyên tắc QTCT toàn của Mạng lưới QTCT Quốc tế (ICGN)8, Hiệp hội QTCT của Khối thịnh vượng chung (CACG)9... Trong số đó, các nguyên tắc QTCT của OECD đã được chấp nhận rộng tãi trên thế giới như là một khuôn khổ chuẩn mực và một tài liệu tham khảo chuẩn trong lĩnh vực QTCT. Khi xem xét về cơ chế Luật hóa các thông lệ tốt vào hệ thống pháp luật, có thể cho rằng: hệ thống các quy định liên quan tới vấn đề QTCT niêm yết bao gồm cả các quy định chính thức và không chính thức10. Về bản chất, các Bộ Quy tắc QTCT nói chung và QTCT niêm yết của các tổ chức quốc tế và các quốc gia là những hướng dẫn không mang tính pháp lý nhằm mục đích bổ sung cho luật và các quy định khác của pháp luật về QTCT. Quy tắc QTCT như là “luật mềm” - các công ty niêm yết không nhất thiết phải thực hiện 6 Bob Tricker (2012), Kiểm soát quản trị (dịch từ nguyên bản tiếng Anh: Corporate Governance: Principles, policities and practices, first edition), NXB Thời Đại – DT Books, Tr.379 7 G20/OECD (2015), Principles of Corporate Governance. 8 ICGN (2017), ICGN Global Corporate Governance Principles ( 9 CACG (1999), CACG Guidelines: Principles for Corporate Governance in the Commonwealth 10 Nguyễn Đặng Minh (2010), Thông lệ về quản trị công ty của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD – Nghiên cứu và áp dụng vào Công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 88 các quy tắc này, tuy nhiên nếu không áp dụng, họ phải công bố cho thị trường biết. Cách tiếp cận này cho phép các công ty niêm yết được linh hoạt trong áp dụng Quy tắc QTCT, từ đó khuyến khích sự cân bằng hợp lý trên thị trường. Tất cả các bộ quy tắc này đều là các biến thể của phương pháp “Tuân thủ hoặc Giải thích” cho các vấn đề về QTCT mà các doanh nghiệp và các quốc gia đang nỗ lực thực hiện. Với vai trò là một quy tắc, pháp luật không bắt buộc phải tuân thủ nhưng chúng là những công cụ quan trọng để khuyến khích các công ty cam kết thực hiện QTCT tốt hơn. Để đảm bảo tính hiệu quả, Bộ Quy tắc QTCT niêm yết khi xây dựng phải phản ánh được những thực tiễn tốt nhất mà các công ty có thể tiếp thu và thực hiện được11. 2. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty niêm yết Thứ nhất, về việc xác định chủ thuyết quản trị công ty niêm yết Về cơ bản, các quy định pháp luật QTCT niêm yết ở Việt Nam hiện nay chưa làm rõ được mục đích tồn tại của các công ty. Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của công ty niêm yết trong nền kinh tế, các quy định pháp luật bảo vệ lợi ích của cổ đông và những người có liên quan đến công ty chưa thực sự rõ ràng và hầu hết không được quy định chi tiết trong Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành. Từ những vấn đề trên, tác giả cho rằng Việt Nam về cơ bản nên theo cách tiếp cận của học thuyết giá trị các bên liên quan bởi những giá trị dài hạn mà học thuyết này đưa đến và cũng là xu thế chung của quốc tế trong giai đoạn hiện nay, trong đó các công ty hiện đại phụ thuộc nhiều hơn vào trách nhiệm xã hội mà nó thực hiện vì con người hiện nay quan tâm đến cục diện chung nền kinh tế, môi trường hay xã hội nhiều hơn. Khác với học thuyết giá trị cổ đông hướng đến các mục tiêu ngắn hạn, học thuyết giá trị các bên liên quan thúc đẩy các chiến lược dài hạn thông qua việc xem xét đến những vấn đề rộng lớn hơn mà có khả năng tác động đến thành công trong dài hạn của công ty niêm yết12. Tuy nhiên, các quy định pháp luật cũng cần xác định rõ các mối quan hệ điều chỉnh là gì để có hướng tác động cụ thể, ví dụ như mối quan hệ giữa cổ đông với người quản lý trong công ty thì phải hướng đến trước tiên bảo vệ lợi ích của cổ đông. Mặt khác, nếu đó là mối quan hệ giữa công ty niêm yết với nhà đầu tư, với người lao động... thì phải hướng đến bảo vệ lợi ích của các bên liên quan của công ty. Đặc biệt, trong mối quan hệ của công ty niêm yết với thị trường chứng khoán, nền kinh tế thì cần cân nhắc rất kỹ lưỡng về mặt lợi ích để có những sự điều chỉnh phù hợp. Thứ hai, về việc xây dựng mô hình quản trị công ty niêm yết Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, có 02 mô hình QTCT mà các công ty có thể lựa chọn. Mô hình thứ nhất có các thiết chế quan trọng, đó là ĐHĐCĐ, HĐQT, BGĐ và Ban kiểm soát (BKS); còn mô hình thứ hai không có BKS mà có Ban kiểm toán nội bộ nằm trong HĐQT13. Mô hình thứ hai là mô hình mới xuất hiện, về cơ bản là sự du nhập mô hình QTCT của Anh – Mỹ. Mô hình thứ nhất là mô hình quen thuộc ở Việt Nam, nó không giống như hội đồng một cấp trong pháp luật công ty Anh và Mỹ vì có sự tồn tại của thiết chế BKS, một cơ quan độc lập với nhiệm vụ giám sát những người quản lý - điều hành công ty (HĐQT và BGĐ). Cũng có nhiều quan điểm cho rằng mô hình quản trị này của Việt Nam là hội đồng hai cấp. Tuy mô hình này 11 TCCK (2016), Xu hướng mới trong xây dựng Bộ quy tắc QTCT trên thế giới ( 1899392926822794&_afrWindowMode=0&#%40%3F_afrLoop%3D21899392926822794%26id%3D1134%26_af rWindowMode%3D0%26_adf.ctrl-state%3Dstnrytv79_23) 12 Lê Thái Phong & Vũ Văn Ngọc (2016), Các học thuyết về mục đích của công ty và việc áp dụng chúng trong Luật Doanh nghiệp ở Việt Nam ( 13 Điều 134 khoản 1 Luật doanh nghiệp 2014 Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 89 gần giống với mô hình hội đồng hai cấp trong các CTCP ở Đức, song nó khác biệt ở chỗ BKS trong CTCP ở Việt Nam do ĐHĐCĐ bầu ra và có chức năng cơ bản nhất là giám sát công tác quản lý, điều hành của HĐQT và BGĐ. Còn theo quy định của Luật Doanh nghiệp, BKS không có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của HĐQT, tổng giám đốc và người quản lý công ty và tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của công ty như Hội đồng giám sát ở Đức. Với vấn đề này, xuất phát từ những xu hướng phát triển của pháp luật trên thế giới, tác giả đồng tình với cách xây dựng 02 mô hình QTCT ở Việt Nam hiện nay theo Luật Doanh nghiệp 2014. Theo kinh nghiệm quốc tế, mô hình nào cũng có thể áp dụng niêm yết được vì vậy Luật các Tổ chức tín dụng nên có hướng thay đổi để đồng nhất với Luật Doanh nghiệp. Các quy định pháp luật mới cần phải tiếp nhận các xu thế mới trên thế giới, đồng thời cũng tạo ra sự linh hoạt về pháp lý để công ty tự quyết định chọn mô hình quản trị nào cho phù hợp nhất cho mình14. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tính độc lập trong cơ cấu thành viên HĐQT và việc cụ thể hóa hoạt động BKS là một trong những tiêu chí để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty thông qua cơ chế kiểm soát đối trọng nhau trong việc đưa ra các quyết sách cho tổ chức và hoạt động của công ty niêm yết. Chính vì vậy, điều quan trọng nhất đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để nâng cao hiệu quả hoạt động ở mô hình QTCT niêm yết, pháp luật cần quan tâm đến các vấn đề sau: i) gia tăng chất lượng của những người quản lý, điều hành công ty thông qua các quy định về cơ cấu của HĐQT, điều kiện, tiêu chuẩn đối với những người quản lý, điều hành công ty. Đối với công ty niêm yết, phải tăng sự hiện hữu của thành viên HĐQT không điều hành và thành viên HĐQT độc lập với những tỷ lệ đảm bảo nhất định cũng như những quy định cấm về việc kiêm nhiệm nhiều chức vụ, ví trí trong hoặc ngoài công ty niêm yết; ii) gia tăng các điều kiện cho các chủ thể giám sát thực hiện đúng trách nhiệm được giao thông qua việc quy định quyền hạn giám sát của BKS, thành viên HĐQT độc lập, Ban kiểm toán nội bộ (nếu có) đối với các hoạt động quản lý, điều hành của HĐQT và BGĐ. Đồng thời, cũng cần quy định chi tiết thêm về trách nhiệm và nghĩa vụ cho những đối tượng này, đây là một trong những căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý của họ khi họ thực hiện không đúng chức trách của mình, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cổ đông và các bên liên quan, tránh tình trạng những chủ thể này hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả ở các công ty niêm yết. Thứ ba, về việc tiếp nhận và xây dựng các Bộ quy tắc về QTCT niêm yết Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Trung tâm phát triển OECD – một trong hai cơ quan hợp tác giữa OECD và các nước không phải thành viên vào ngày 8/3/2008, tuy nhiên, việc âm thầm chấp nhận những nguyên tắc QTCT của OECD đã được thể hiện qua bản điều lệ công ty áp dụng cho các công ty niêm yết được ban hành thông qua Quyết định 07/2002/QĐ- VPCP. Về sau này, dù vấn đề QTCT niêm yết có được điều chỉnh bằng các văn bản thay thế khác như Quyết định 12/2007/QĐ-BTC hay Nghị định 71/2017/NĐ-CP thì nền tảng nguyên tắc QTCT của OECD vẫn được thể hiện rõ nét qua cách kết cấu cũng như quy định trong các văn bản pháp luật này. Liên quan đến vấn đề này, tác giả xin đưa ra một số ý kiến về việc xây dựng pháp luật Việt Nam trên cơ sở việc tiếp nhận các Bộ quy tắc QTCT trên thế giới như sau: Một là, tiếp tục thể chế hóa các vấn đề mang tính nguyên tắc của OECD, Basel và các Bộ quy tắc về QTCT niêm yết tốt trên thế giới vào các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam. Hai là, cần sớm xây dựng Bộ quy tắc QTCT áp dụng niêm yết. Theo thông lệ phổ biến của các quốc gia phát triển, Luật Doanh nghiệp chỉ đưa ra các quy định về QTCT mang 14 Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2017), Mô hình quản trị truyền thống đã lạc hậu. ( HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 90 tính nguyên tắc hoặc các quy định QTCT đảm bảo việc tuân thủ tối thiểu. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng một bộ nguyên tắc về QTCT có tính chất định hướng thực hiện cho các công ty niêm yết. Bộ nguyên tắc có thể được xây dựng theo một trong các hình thức sau: (1) bắt buộc; (2) tuân thủ hoặc giải trình; (3) tự nguyện. Hiện nay, đa số các quốc gia trên thế giới đều xây dựng bộ nguyên tắc theo mô hình (2). Ba là, từ vấn đề 1 và 2, cần xác định rõ nội dung nào nên được luật hóa, nội dung nào nên được quy định tại Bộ quy tắc QTCT niêm yết. Nhiều nước hiện đã sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán, ngân hàng, cũng như quy định về niêm yết chứng khoán để giải quyết các vấn đề mới phát sinh. Những nội dung từ Bộ Quy tắc QTCT có thể được thể chế hóa thành luật cho thấy tầm quan trọng của QTCT, từ đó bắt buộc doanh nghiệp phải áp dụng. Những nội dung đã được đưa vào luật sẽ được loại ra khỏi Bộ Quy tắc QTCT. Do đặc thù riêng, một số công ty niêm yết có thể không đủ khả năng để áp dụng theo các nguyên tắc trong Bộ Quy tắc QTCT. Do đó, các cơ quan lập pháp cần phải xem xét đưa ra quy định cụ thể trong luật, đảm bảo tính tuân thủ tối thiểu. Bốn là, pháp luật cần quy định rõ về cơ quan thực hiện việc giám sát và cưỡng chế thực thi Bộ quy tắc QTCT này. Năm là, cần đưa các yêu cầu về vấn đề đạo đức của đội ngũ lãnh đạo công ty niêm yết, cần quan tâm tới quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là phát triển triển bền vững vào Bộ quy tắc QTCT ở giai đoạn bước đầu, sau đó thể chế hóa bằng các quy định pháp luật khi các công ty niêm yết đã thực hiện việc tuân thủ trên thực tế. Phát triển bền vững hiện nay thể hiện trong một số quy tắc riêng lẻ như các nguyên tắc quốc tế về đầu tư có trách nhiệm của Liên hợp quốc hoặc bộ hướng dẫn của OECD dành cho các doanh nghiệp đa quốc gia. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng Bộ Quy tắc QTCT niêm yết hiện nay không thể thiếu sự cân nhắc để đưa vào nội dung phát triển bền vững của doanh nghiệp sao cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cũng như xu hướng chung trên thế giới. Như vậy, trong bối cảnh môi trường pháp lý của Việt Nam hiện nay, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán chỉ đưa ra những nguyên tắc cơ bản về QTCT niêm yết, các văn bản hướng dẫn về QTCT hiện nay cần phải được xây dựng theo hướng phù hợp với nguyên tắc QTCT của OECD, phù hợp với xu hướng QTCT quốc tế phổ biến tại nhiều quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển. Điều này sẽ góp phần quan trọng trong việc rút ngắn khoảng cách về chất lượng QTCT niêm yết ở Việt Nam so với quốc tế, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế15./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bob Tricker (2012), Kiểm soát quản trị (dịch từ nguyên bản tiếng Anh: Corporate Governance: Principles, policities and practices, first edition), Nxb Thời Đại – DT Books. 2. G20/OECD (2015), Principles of Corporate Governance 3. ICGN (2017), ICGN Global Corporate Governance Principles ( icgn-global-governance-principles-2017/) 4. CACG (1999), CACG Guidelines: Principles for Corporate Governance in the Commonwealth 5. J. Salacuse (2004), Corportate in the New Century, Company Lawyer, Pp.69-77 6. Lê Thái Phong & Vũ Văn Ngọc (2016), Các học thuyết về mục đích của công ty và việc áp dụng chúng trong Luật Doanh nghiệp ở Việt Nam, Website: tcpdcpl.moj.gov.vn 7. Nguyễn Đặng Minh (2010), Thông lệ về quản trị công ty của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD – Nghiên cứu và áp dụng vào Công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. 15 TTCK (2017), Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng khung pháp lý về quản trị công ty tại Việt Nam ( 1899382415214794&_afrWindowMode=0&#%40%3F_afrLoop%3D21899382415214794%26id%3D1157%26_af rWindowMode%3D0%26_adf.ctrl-state%3Dstnrytv79_9)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxu_huong_phat_trien_cua_phap_luat_quan_tri_cong_ty_niem_yet.pdf
Tài liệu liên quan