Thách thức lớn nhất là việc phát hiện
những điểm còn thiếu tương thích, thiếu cụ
thể hay chưa đúng với bản chất của chế định
hoặc khái niệm trong luật hình sự trên cơ sở
đối chiếu với các chuẩn mực luật hình sự
quốc tế cũng như so sánh có chọn lọc với luật
hình sự của các quốc gia trên thế giới. Đây
sẽ là quá trình tìm hiểu và lựa chọn cả về mặt
nội dung quy định và kỹ thuật lập pháp cho
việc cải cách luật hình sự theo xu hướng quốc
tế hóa trong tương lai. Thách thức này đòi hỏi
việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng từng chế
định hoặc quy định cụ thể trong luật hình sự
nước ngoài và nghiên cứu toàn diện trong
mối liên hệ với các chế định/quy định có liên
quan khác của họ, trong đó có cả các quy
định về thủ tục tố tụng, về phương thức thực
thi. Đặc biệt là việc học theo xu hướng quốc
tế nhưng phải nhìn thấy tính phù hợp với bối
cảnh phòng, chống tội phạm của Việt Nam;
phải bảo đảm sự thống nhất với các chế
định/quy định có liên quan khác của Việt
Nam; phải bảo đảm những nguyên tắc cơ bản
và không phá vỡ những khái niệm nền tảng
của luật hình sự. Mỗi quy định theo hướng
nội luật hóa công ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên hoặc theo hướng học tập kinh
nghiệm lập pháp của nước ngoài cần được
xây dựng trên cơ sở tìm hiểu rõ và đúng bản
chất của quy định đó24.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng quốc tế hóa của luật hình sự Việt Nam và vấn đề đặt ra cho lập pháp hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
XU HƯỚNG QUỐC TẾ HÓA CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LẬP PHÁP HÌNH SỰ
Đào Lệ Thu*
*TS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bộ luật hình sự, xu hướng
quốc tế hóa.
Lịch sử bài viết:
Ngày nhận bài : 03/5/2020
Biên tập : 03/6/2020
Duyệt bài : 09/6/2020
Article Infomation:
Keywords: The Criminal Code;
international trend.
Article History:
Received : 03 May. 2020
Edited : 05 Jun. 2020
Approved : 09 Jun. 2020
Tóm tắt:
Bài viết này luận giải xu hướng quốc tế hóa của luật hình sự Việt
Nam, đưa ra phân tích và bình luận về những biểu hiện rõ nét của
xu hướng quốc tế hóa trong Bộ luật Hình sự năm 2015, và xác
định một số vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện luật hình sự Việt
Nam theo xu hướng quốc tế hóa.
Abstract:
This article firstly privides discussions on the internationalization
trend of criminal law of Vietnam, provides an analysis and
comments on the clear manifestations of the internationalization
trend in Vietnam’s Criminal Code of 2015 and also identifications
of a number of issues for improvements of Vietnam’s criminal law
in the internationalization context.
1. Lý giải cho xu hướng quốc tế hóa của
luật hình sự Việt Nam
Luật hình sự Việt Nam đã trải qua những
dấu mốc phát triển vào thời điểm ban hành
các Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, năm
1999 và năm 2015. Mỗi BLHS (cùng với các
luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS)
đều chịu ảnh hưởng và mang dấu ấn của
những xu hướng lập pháp hình sự nhất định.
Ở giai đoạn ban đầu của quá trình pháp điển
hóa luật hình sự, khía cạnh quốc tế trong luật
hình sự Việt Nam mới chỉ thể hiện ở mức độ
rất khiêm tốn. Đầu tiên, BLHS năm 1985 ghi
nhận hiệu lực của BLHS theo một số nguyên
tắc của luật hình sự quốc tế và quy định một
số tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của cộng
đồng quốc tế. Sau đó, BLHS năm 1999 đã
tiếp tục có một số sửa đổi, bổ sung nhằm bảo
đảm trách nhiệm của Việt Nam với tư cách
là thành viên của một số điều ước quốc tế về
hình sự. Tuy nhiên, hai văn bản luật này vẫn
chưa thực sự tạo nên xu hướng quốc tế hóa
của luật hình sự Việt Nam. Luật sửa đổi, bổ
sung BLHS năm 2009 và đặc biệt là BLHS
năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm
2017 (BLHS năm 2015) trở thành những
biểu hiện rõ nét cho xu hướng lập pháp hình
sự này. BLHS năm 2015 thể hiện những xu
hướng cải cách luật hình sự như: hiện đại
hóa, hướng thiện, hội nhập quốc tế, cải cách
tư pháp, tôn trọng quyền con người, v.v...
Vậy xuất phát từ những lý do nào mà luật
Số 12 (412) - T6/20204
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1 Xem thêm: Tờ trình về Dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi) số 186/TTr-CP ngày 27/04/2015 của Chính phủ
trình Quốc hội, tr.4-5.
hình sự Việt Nam lại chịu ảnh hưởng và thể
hiện ngày càng rõ nét xu hướng quốc tế hóa?
Thứ nhất, yêu cầu của các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. BLHS
năm 1985 được ban hành trong bối cảnh Việt
Nam chưa có nhiều quan hệ hợp tác quốc tế;
BLHS năm 1999 ra đời trong hoàn cảnh Việt
Nam cũng chưa hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng. Vì vậy, ở thời điểm đó, luật hình sự
Việt Nam chưa phản ánh được nhiều đặc
điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, cũng
chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi
cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã
chủ động hội nhập quốc tế bằng việc tích cực
tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu
vực và đã trở thành thành viên của nhiều
điều ước quốc tế đa phương và khu vực có
liên quan đến việc phòng, chống tội phạm
quốc tế và tội phạm xuyên quốc gia. Đáng
chú ý, Việt Nam đã tham gia vào các công
ước về phòng, chống tội phạm như: Công
ước Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia và Nghị định thư về Phòng, chống buôn
bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm
2000; Công ước Chống tham nhũng năm
2003; Công ước Chống tra tấn năm 1987;
các điều ước quốc tế liên quan đến chống
khủng bố, tài trợ khủng bố, rửa tiền, cướp
biển, bắt cóc con tin, v.v. Các điều ước quốc
tế trong lĩnh vực hình sự này đòi hỏi các
quốc gia thành viên phải nội luật hóa những
quy định có tính bắt buộc như việc xác lập
quyền tài phán của luật hình sự quốc gia làm
cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự, việc
tội phạm hóa những dạng hành vi nguy hiểm
cho xã hội nhất định, việc xây dựng những
chế định luật hình sự làm cơ sở để xác định
tội phạm, v.v. Việc sửa đổi, bổ sung BLHS
năm 2015 là một cơ hội để Việt Nam tiếp tục
nội luật hóa những quy định về hình sự trong
các điều ước quốc tế mà chúng ta tham gia
nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của
quốc gia thành viên.
Thứ hai, yêu cầu của cuộc đấu tranh
chống tội phạm trong bối cảnh hội nhập và
toàn cầu hóa. Có thể thấy rằng, cùng với quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
đang phải đối mặt với sự gia tăng của các
loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các
tội phạm do người nước ngoài thực hiện.
Cùng lúc đó, các tội phạm quốc tế và tội
phạm xuyên quốc gia như tội phạm chiến
tranh, chống loài người, tội phạm về ma túy,
mua bán người, rửa tiền, khủng bố và tài trợ
khủng bố, tội phạm sử dụng công nghệ cao...
ngày càng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng,
gây ảnh hưởng và gây quan ngại cho cộng
đồng quốc tế nói chung và các quốc gia nói
riêng. Việc hoàn thiện các cơ chế pháp luật
để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ
động và tăng cường hợp tác quốc tế trong
phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, là một xu
thế tất yếu trong bối cảnh hiện nay1.
Thứ ba, một hiện tượng đang tạo ra xu
hướng quốc tế hóa trong pháp luật hình sự
của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam, là hài hòa hóa và nhất thể hóa
pháp luật. Pháp luật hình sự ở nhiều khu vực
trên thế giới đang được cải cách theo xu
hướng này để tạo ra sự hài hòa và cao hơn
nữa là sự thống nhất. Những khái niệm “luật
hình sự quốc tế”, “luật hình sự xuyên quốc
gia”, “luật hình sự khu vực”, “luật hình sự
so sánh”, v.v. đã được hình thành và đang
được phát triển ngày càng mạnh mẽ, với sự
nỗ lực của các quốc gia trong việc đưa pháp
luật hình sự của mình ngày càng tiệm cận
với các chuẩn mực pháp luật quốc tế về bảo
vệ quyền con người, chống những loại tội
phạm gây nguy hiểm cho cả cộng đồng cũng
như ngày càng đáp ứng được tính hiện đại
của khoa học luật hình sự trên thế giới2.
2. Xu hướng quốc tế hóa trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 2015
- Xu hướng quốc tế hóa thể hiện trong
chính sách hình sự của Việt Nam
BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi,
bổ sung quan trọng, thể hiện những chuyển
biến căn bản trong chính sách xử lý hình sự.
Trong đó, những thay đổi rõ rệt nhất là việc
ghi nhận trách nhiệm hình sự (TNHS) đối
với pháp nhân thương mại, chính sách nhân
đạo trong quy định về hình phạt và chính
sách xử lý thân thiện đối với người dưới 18
tuổi phạm tội. Đây đều là những biểu hiện
của xu hướng quốc tế hóa của luật hình sự
Việt Nam.
Trước hết, việc quy định TNHS của
pháp nhân thương mại trong BLHS năm
2015 nhằm đáp ứng những khuyến nghị của
các điều ước quốc tế về chống tham nhũng,
rửa tiền, buôn bán người, khủng bố, tài trợ
khủng bố... mà Việt Nam là thành viên. Bên
cạnh đó, với tư cách là quốc gia thành viên
của Nhóm châu Á-Thái Bình Dương về
chống rửa tiền (APG), Việt Nam có trách
nhiệm thực hiện đầy đủ các Khuyến nghị của
Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa
tiền (FATF), trong đó Khuyến nghị 2 liên
quan đến việc quy định TNHS đối với pháp
nhân. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế ngày nay, cơ hội đầu tư kinh
doanh của các doanh nghiệp Việt Nam ở
nước ngoài cũng như doanh nghiệp nước
ngoài vào Việt Nam đều gia tăng. Nếu Việt
Nam không quy định TNHS sự đối với pháp
nhân như pháp luật của đa số quốc gia
ASEAN khác thì sẽ thiếu công bằng cho các
doanh nghiệp trong và ngoài nước khi cùng
vi phạm pháp luật như nhau.
Vấn đề TNHS của pháp nhân đã được
ghi nhận trong pháp luật hình sự ở nhiều
nước. Qua nghiên cứu và rà soát, cơ quan
soạn thảo BLHS năm 2015 xác định trên thế
giới có 119 nước quy định TNHS đối với
pháp nhân, trong đó điển hình là các quốc
gia theo truyền thống Common Law như
Anh, Mỹ, Canada, Australia hoặc nhiều
nước châu Âu theo truyền thống Civil Law
như Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan,
Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha,
Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia
hoặc điển hình cho khu vực Bắc Á như Nhật
Bản, Trung Quốc. Trong số đó, khu vực
ASEAN có sáu nước đã quy định TNHS của
pháp nhân là Singapore, Malaysia, Thailand,
Phillippines, Indonesia và Cambodia3. Chế
định TNHS của pháp nhân được đưa vào
BLHS năm 2015 trên cơ sở nghiên cứu các
quan điểm lý luận, học thuyết có liên quan
về căn cứ phát sinh và đặc điểm trách nhiệm
hình sự của pháp nhân, loại pháp nhân phải
chịu TNHS, loại tội mà pháp nhân phải chịu
TNHS, các hình phạt áp dụng đối với pháp
nhân,... cũng như kinh nghiệm lập pháp ở
một số nước về vấn đề này.
Bên cạnh đổi mới căn bản về chính sách
hình sự khi ghi nhận TNHS của pháp nhân
thương mại, luật hình sự Việt Nam còn thể
hiện tinh thần nhân đạo và hướng thiện bằng
việc sửa đổi mạnh mẽ chính sách xử lý hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội
trên tinh thần đáp ứng các nguyên tắc của
5Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
2 Ví dụ xem: Antonio Cassese et al., Cassese’s International Criminal Law, Oxford University Press, Oxford
2013; Neil Boister, An Introduction to Transnational Criminal Law, Oxford University Press, Oxford 2012;
Markus Dirk Dubber, “Comparative Criminal Law” in The Oxford Handbook of Comparative Law, M.
Reimann & R. Zimmermann (eds), Oxford University Press, Oxford 2006, pp.1287-1325.
3 Xem: Tờ trình về Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi) số 186/TTr-CP ngày 27/04/2015 của Chính phủ trình
Quốc hội, tr.28.
Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về
quyền trẻ em4. Sự đổi mới đó thể hiện ở việc
sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91) bao
gồm: (i) bổ sung nguyên tắc bảo đảm lợi ích
tốt nhất của người dưới 18 tuổi trên tinh thần
Công ước về quyền trẻ em; (ii) bổ sung
nguyên tắc ưu tiên xem xét áp dụng các biện
pháp thay thế xử lý hình sự trước khi quyết
định việc truy cứu TNHS đối với người dưới
18 tuổi phạm tội; (iii) khẳng định nguyên tắc
chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, nhất là hình phạt tù, sau khi
đã xem xét, cân nhắc khả năng áp dụng các
biện pháp tư pháp nhằm thể hiện tinh thần
nhân đạo tại Điều 37 Công ước về quyền trẻ
em là việc bắt, giam giữ hay bỏ tù trẻ em chỉ
được dùng đến như một biện pháp cuối cùng
và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Xu hướng quốc tế của luật hình sự Việt
Nam thể hiện rõ nét nhất ở việc bổ sung quy
định về áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục
thay thế xử lý hình sự5. Theo đó, khi xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội, cơ quan tiến
hành tố tụng quyết định miễn TNHS và áp
dụng biện pháp này khi có các điều kiện
như: (i) thuộc trường hợp phạm tội lần đầu
(thường là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng), có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả; (ii)
người chưa thành niên và người đại diện hợp
pháp của họ đồng ý với việc áp dụng biện
pháp giám sát, giáo dục này. Biện pháp thay
thế xử lý hình sự gồm có: khiển trách; hòa
giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã,
phường, thị trấn. Đây là quy định nhằm đưa
người chưa thành niên ra khỏi quy trình tố
tụng hình sự và áp dụng các biện pháp xử lý
khác mang tính giáo dục - phòng ngừa với ý
nghĩa giúp các em nhận rõ được lỗi lầm, có
thái độ ăn năn hối cải, khắc phục sai phạm6.
Những cải cách đối với chính sách xử lý
người chưa thành niên phạm tội nêu trên
được thực hiện trên cơ sở những khuyến
nghị trong các văn kiện quốc tế về bảo vệ trẻ
em như: Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên
hợp quốc về quản lý tư pháp đối với người
chưa thành niên, Quy tắc của Liên hợp quốc
về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
quyền tự do, Hướng dẫn của Liên hợp quốc
về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa
thành niên.7 Các nguyên tắc như tư pháp
thân thiện, tư pháp phục hồi, những biện
pháp xử lý chuyển hướng theo tinh thần của
những khuyến nghị này cùng việc nghiên
cứu kinh nghiệm của các quốc gia như New
Zealand, Australia8... đã trở thành cơ sở cho
những sửa đổi, bổ sung tích cực trong BLHS
năm 2015.
Số 12 (412) - T6/20206
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
4 The United Nations Convention on the Rights of the Child, ban hành theo Nghị quyết số 44/25 ngày
20/11/1989 của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
5 Mục 2. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự - Chương
XII (Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội) BLHS năm 2015.
6 Cụ thể xem từ Điều 93 đến Điều 95 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
7 Tìm đọc các văn bản này cũng như các thông tin có liên quan đến tư pháp người chưa thành niên tại:
https://www.un.org/development/desa/youth/world-programme-of-action-for-youth/juvenile-justice.html
8 Đây là những quốc gia đi đầu trong việc xây dựng và phát triển mô hình tư pháp thân thiện, tư pháp phục
hồi trong đó chú trọng hệ thống biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Trong thời gian soạn thảo BLHS năm 2015, một số hội thảo quốc tế trong đó có sự góp mặt của các chuyên
gia về tư pháp người chưa thành niên của các quốc gia này đã được tổ chức tại Việt Nam với mục tiêu là
phát triển hệ thống tư pháp người chưa thành niên chuyên biệt trong đó có việc cải cách pháp luật hình sự
liên quan đến người chưa thành niên phạm tội. Ví dụ: Hội thảo tham vấn “Tăng cường tư pháp đối với người
chưa thành niên trong Dự thảo Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự” do Bộ Tư pháp phối hợp với
UNICEF Việt Nam đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 01-02 /10/2015.
- Xu hướng quốc tế hóa thể hiện trong quy
định tại Phần chung của BLHS năm 2015.
Thứ nhất, xu hướng này thể hiện ở việc
ghi nhận hiệu lực của BLHS theo nguyên tắc
quốc tịch bị động (Principle of Passive
Personality) và nguyên tắc bảo vệ chủ
quyền, an ninh quốc gia (Protective
Principle). khoản 2 Điều 6 BLHS năm 2015
quy định: “Người nước ngoài, pháp nhân
thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có thể bị truy cứu TNHS theo quy
định của Bộ luật này trong trường hợp hành
vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam...” Quy định này khẳng định hiệu lực
của luật hình sự Việt Nam đối với những
hành vi phạm tội xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam do người không có quốc tịch Việt Nam
thực hiện nhưng nạn nhân của tội phạm là
công dân Việt Nam hoặc xâm hại những lợi
ích về an ninh quốc gia của Việt Nam. Đây
là sự ghi nhận hiệu lực của luật hình sự trên
cơ sở những nguyên tắc chung của pháp luật
quốc tế và theo kinh nghiệm ở nhiều quốc
gia trên thế giới9.
Thứ hai, để tạo cơ sở pháp lý chủ động
ngăn chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần
nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm,
đồng thời phù hợp với tinh thần của Công
ước của LHQ về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia (Công ước Palermo)10 mà
Việt Nam là thành viên, BLHS năm 2015 bổ
sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm
tội phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể
bên cạnh các hành vi chuẩn bị phạm tội đã
được quy định trong BLHS năm 1999 như
tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực
hiện tội phạm (Điều 14). Đây cũng là một
biểu hiện của xu hướng quốc tế hóa trong
luật hình sự Việt Nam, khi việc xây dựng chế
định tổ chức tội phạm (hoặc nhóm tội phạm
có tổ chức) và việc tội phạm hóa hành vi
tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức trên
cơ sở Công ước Palermo đang trở nên ngày
càng phổ biến trong luật hình sự ở các quốc
gia trên thế giới11.
Thứ ba, BLHS năm 2015 đã bổ sung
quy định tại khoản 3 Điều 28 về không áp
dụng thời hiệu truy cứu TNHS và Điều 61
về không áp dụng thời hiệu thi hành bản án
đối với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ
khi thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng. Với
quy định này, những người phạm tội tham
nhũng đặc biệt nghiêm trọng nêu trên có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị thi
hành bản án về các tội này bất cứ lúc nào,
nếu cơ quan chức năng phát hiện được hành
vi phạm tội của họ hoặc phát hiện bản án
chưa được thi hành. Đây là một nỗ lực của
Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên
Công ước của LHQ về chống tham nhũng
(UNCAC)12.
7Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
9 Về nội dung và những biểu hiện của các nguyên tắc này trong luật hình sự quốc tế và luật hình sự một số
quốc gia, xem thêm: Neil Boister, An Introduction to Transnational Criminal Law, Oxford University Press,
Oxford 2012, tr.144-147; hoặc: Christoffer Wong, Criminal Act, Criminal Jurisdiction and Criminal Justice,
Polpress Publisher, Kraków 2004, pp.94-103.
10 The United Nations Convention against Transnational Organized Crime, ban hành theo Nghị quyết số
55/25 ngày 15/11/2000 của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
11 Xem ví dụ như thông tin cụ thể về tội phạm hóa hành vi này ở hàng loạt quốc gia châu Âu tại: Francesco
Calderoni (2010), Organized Crime Legislation in the European Union: Hamonization and Approximation
of Criminal Law, National Legislations and the EU Framework Decision on the Fight against Organized
Crime, Nxb. Springer; hoặc ở nhiều quốc gia châu Á tại: https://www.unafei.or.jp/publications/
pdf/RS_No59/No59_45RC_Group2_Phase2.pdf.
12 Điều 29 Công ước LHQ về chống tham nhũng quy định một thời hiệu dài hơn hoặc xóa bỏ thời hiệu đối với
các tội phạm tham nhũng sẽ giúp cho việc thực thi công lý đối với người phạm tội một cách thích đáng.
Thứ tư, BLHS Việt Nam năm 2015 đã
bổ sung một chế định về những trường hợp
loại trừ TNHS (Chương IV), trong đó, tiếp
tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như
BLHS năm 1999 (sự kiện bất ngờ, phòng vệ
chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự),
đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại
trừ TNHS là: gây thiệt hại trong khi bắt giữ
người phạm tội (Điều 24); rủi ro trong
nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25);
thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc
của cấp trên (Điều 26).
Thứ năm, BLHS năm 2015 thu hẹp
phạm vi áp dụng hình phạt tử hình, tăng
cường quy định các hình phạt không giam
giữ cùng với thu hẹp phạm vi áp dụng hình
phạt tù, quy định biện pháp tha tù trước thời
hạn có điều kiện. Cụ thể như sau: BLHS
năm 2015 đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với
07 tội danh; mở rộng phạm vi áp dụng phạt
tiền là hình phạt chính đối với các tội phạm
ít nghiêm trọng (Điều 35), riêng các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về
môi trường thì phạt tiền còn được quy định
là hình phạt chính có thể áp dụng đối với cả
tội rất nghiêm trọng, phạm vi áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ cũng được mở
rộng tới cả tội rất nghiêm trọng do vô ý (Điều
36), không áp dụng hình phạt tù đối với
người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô
ý (khoản 2 Điều 37). Đầu tiên, để thể hiện sự
tôn trọng tinh thần của các điều ước quốc tế
về quyền con người mà Việt Nam là thành
viên, đồng thời phù hợp với xu hướng chung
của thế giới, BLHS Việt Nam năm 2015 đã
xác định rõ chính sách hạn chế phạm vi áp
dụng hình phạt tử hình. Nhà làm luật Việt
Nam đã cân nhắc các khuyến nghị của cộng
đồng quốc tế về vấn đề này, nhận thấy rằng
các khuyến nghị đều xuất phát từ lý do tử
hình là hình phạt tước đi quyền sống - quyền
cơ bản, quan trọng nhất của con người và như
vậy đã tước bỏ cơ hội phục thiện, tái hoà
nhập cộng đồng của người bị kết án cũng như
loại trừ khả năng khắc phục án oan, điều có
thể xảy ra trên thực tế. Trên cơ sở tham khảo
có chọn lọc kinh nghiệm của một số nước
còn quy định hình phạt từ hình như Hoa Kỳ,
Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái
Lan, Indonesia, Malaysia,13 trong đó hình
phạt tử hình chỉ áp dụng đối với một số tội
đặc biệt nghiêm trọng thuộc loại tội chống
Nhà nước, xâm phạm tính mạng con người,
tội phạm về ma túy. Trên tinh thần này,
BLHS năm 2015 đã xóa bỏ hình phạt tử hình
đối với 07 tội danh.
Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 còn mở
rộng phạm vi áp dụng phạt tiền là hình phạt
chính đối với các tội phạm ít nghiêm trọng
(Điều 35). Chính vì vậy, số khoản có quy
định phạt tiền là hình phạt chính đối với tội
ít nghiêm trọng trong Phần các tội phạm tăng
đáng kể so với quy định của BLHS năm
1999. Phạm vi áp dụng phạt tiền là hình phạt
Số 12 (412) - T6/20208
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
13 Tờ trình về Dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi) số 186/TTr-CP ngày 27/04/2015 của Chính phủ trình Quốc
hội đã dẫn số liệu do Cơ quan phòng chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc (UNODC) tại Hà Nội
cung cấp, theo đó tính đến thời điểm 30/6/2014 đã có 162 quốc gia và vùng lãnh thổ đã bãi bỏ án tử hình
theo luật hoặc trên thực tế, trong đó:
- Có 100 nước đã bãi bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình.
- Có 55 nước có quy định hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế.
- Có 7 nước đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với “các tội thông thường”, duy trì hình phạt tử hình đối với
các tội ngoại lệ như một số tội theo luật quân sự trong hoàn cảnh đặc biệt.
- Có 37 nước và vùng lãnh thổ vẫn còn duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phạm thông thường.
- Trong 10 nước thành viên ASEAN, có 2 nước đã bãi bỏ hình phạt tử hình (Căm-pu-chia và Phi-lip-pin);
có 03 nước vẫn còn duy trì hình phạt tử hình hoặc có quy định hình phạt tử hình nhưng không áp dụng
trên thực tế.
chính đối với các tội phạm nghiêm trọng
cũng được mở rộng. Riêng các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về môi
trường thì phạt tiền còn được quy định là
hình phạt chính có thể áp dụng đối với cả tội
rất nghiêm trọng. Phạm vi áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ cũng được mở rộng
tới cả tội rất nghiêm trọng do vô ý (Điều 36).
BLHS cũng quy định không áp dụng hình
phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít
nghiêm trọng do vô ý (khoản 2 Điều 37).
Đồng thời, tại Phần các tội phạm, số lượng
các khoản không quy định hình phạt tù tăng
lên khá nhiều so với quy định của BLHS năm
1999. Những sửa đổi, bổ sung này đều thể
hiện xu hướng quốc tế trong việc quy định
hình phạt, đó là trên cơ sở của “thuyết ngăn
ngừa” thay vì chịu ảnh hưởng của “thuyết
trừng phạt” như giai đoạn trước đây14.
Cũng theo xu hướng quốc tế, BLHS
năm 2015 đã bổ sung quy định về tha tù
trước hạn có điều kiện; theo đó, phạm nhân
có thể được miễn chấp hành phần hình phạt
tù còn lại khi có đủ các điều kiện quy định
tại Điều 66. Tha tù trước thời hạn có điều
kiện là một giải pháp cho phép đưa người
phạm tội bị xử phạt tù quay trở về với cộng
đồng sớm hơn để giáo dục, cải tạo với sự
giúp đỡ và giám sát của gia đình, các cơ
quan, đoàn thể xã hội. Đây là một biện pháp
được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới
dưới các tên gọi như phóng thích có điều
kiện hay trả tự do có điều kiện15.
- Tội phạm hóa một số hành vi nguy
hiểm cho xã hội trên cơ sở yêu cầu của
những điều ước quốc tế có liên quan mà
Việt Nam là thành viên
Tội phạm hóa một số hành vi nguy hiểm
cho xã hội trên cơ sở yêu cầu của những điều
ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là
thành viên cũng là biểu hiện khá rõ nét của
xu hướng quốc tế hóa trong cải cách pháp
luật hình sự. Một số kết quả cụ thể của tội
phạm hóa được ghi nhận trong BLHS năm
2015 là:
Thứ nhất, quy định tội phạm đối với hành
vi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm (Điều 147), hành vi mua bán,
chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người
(Điều 154). Việc tội phạm hóa hành vi sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu
dâm là biểu hiện của việc thực thi trách nhiệm
quốc gia thành viên của các điều ước quốc tế
có liên quan. Cụ thể Điều 34 Công ước của
LHQ về quyền trẻ em và Điều 3 Công ước
Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đều
kêu gọi các quốc gia thành viên hình sự hóa
hành vi phạm tội khiêu dâm trẻ em.
Pháp luật hình sự của nhiều quốc gia
trên thế giới cũng đã quy định một hoặc một
số tội phạm liên quan đến khiêu dâm trẻ em,
như Điều 176 BLHS Đức, Điều 8 Chương 6
BLHS Thụy Điển hay Điều 176 BLHS Nhật
Bản. Đối với hành vi mua bán, chiếm đoạt
mô hoặc bộ phận cơ thể người, tính chất
nghiêm trọng và diễn biến phức tạp của nó
đã khiến Liên Hợp quốc quan ngại và Đại
hội đồng đã ban hành Nghị quyết số 59/156
về Phòng, chống và xử phạt buôn bán cơ thể
9Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
14 Về nội dung và các bình luận về những thuyết này, xem ví dụ như: Nils Jareborg, “What Kind of Criminal
Law Do We Want?” in Scraps of Penal Theory, Iustus Förlag, Uppsala 2002; hoặc David A. Starkweather,
“The Retributive Theory of “Just Deserts” and Victim Participation in Plea Bargaining”, 1992, Indiana
Law Journal, Vol. 67, Issue 3; hoặc Abhishek Mohanty, “Retributive Theory of Punishment: A Critical
Analysis”, bài đăng ngày 15 tháng 1 năm 2015 tại https://www.lawctopus.com/academike/retributive-the-
ory-of-punishment-a-critical-analysis/, truy cập ngày 15/8/2018; xem thêm: Đào Lệ Thu (2018), “Đối
tượng nghiên cứu của luật hình sự so sánh”, Tạp chí Luật học, 2018, số 7, tr.95-98.
15 Ví dụ như quy định về conditional release trong luật hình sự của Hoa Kỳ, Anh, Úc, Thụy Điển, v.v..
Số 12 (412) - T6/202010
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
người tại kì họp thứ 96 ngày 03/02/2005,16
đồng thời tổ chức Sáng kiến toàn cầu của
Liên Hợp quốc về chống buôn bán người
cũng đã tổ chức một diễn đàn quốc tế lớn
trong đó khuyến nghị việc tội phạm hóa
hành vi này, xác định đây là một loại tội
phạm có tổ chức theo Công ước Palermo và
phân biệt tội phạm này với tội buôn bán
người.17 Như vậy việc luật hình sự Việt Nam
tội phạm hóa hành vi này là thực sự cần
thiết, phản ánh đúng xu thế lập pháp hình sự
quốc tế và đáp ứng tinh thần toàn cầu về
chống buôn bán cơ thể người. Thứ hai, bổ
sung quy định tội bắt cóc con tin (Điều 301),
tội cướp biển (Điều 302) trên tinh thần các
quy định của Công ước Chống bắt cóc con
tin năm 1979 và Công ước quốc tế về Luật
Biển năm 1982 mà Việt Nam là thành viên.
Thứ ba, phạm vi các tội tham ô tài sản
(Điều 353), nhận hối lộ (Điều 354), tội đưa
hối lộ (Điều 364) và tội môi giới hối lộ (Điều
365) đã được mở rộng sang khu vực ngoài
Nhà nước. Bổ sung này có ý nghĩa thiết thực
trước những thay đổi của nền kinh tế và xu
thế hội nhập quốc tế. Việc sửa đổi, bổ sung
theo hướng mở rộng phạm vi các tội phạm
về chức vụ này được luận giải bởi một số lý
do: một là, hiện tượng tư nhân hóa mạnh mẽ
các hoạt động trước đây vốn thuộc chức
năng công như: giáo dục, y tế, phúc lợi xã
hội đã phát sinh một loại hệ quả mang tính
tiêu cực là tham nhũng trong khu vực tư với
tính chất ngày càng nghiêm trọng và mức độ
ảnh hưởng ngày càng lan rộng; hai là, hình
sự hóa những hành vi xâm hại hoạt động
thực hiện nhiệm vụ trong khu vực tư là cần
thiết để duy trì sự cạnh tranh lành mạnh
trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước; ba
là, việc mở rộng khái niệm tham nhũng sang
khu vực tư giúp bảo vệ cộng đồng khỏi
những hậu quả nguy hiểm mà hành vi tham
nhũng trong khu vực tư gây ra cho lĩnh vực
kinh tế, đặc biệt là cho những lợi ích về tài
chính và một số lợi ích khác của đời sống xã
hội18. Bên cạnh đó, Công ước của Liên hợp
quốc về chống tham nhũng (UNCAC) đã
khuyến nghị các quốc gia thành viên tăng
cường các biện pháp đấu tranh chống tham
nhũng không chỉ trong khu vực công mà cả
trong khu vực tư19 và điều này cũng trở
thành một yếu tố quan trọng thúc đẩy việc
mở rộng khái niệm tham nhũng trong luật
hình sự Việt Nam.
Ngoài ra, BLHS năm 2015 cũng tội
phạm hóa hành vi hối lộ công chức nước
ngoài trên cơ sở thực tiễn và theo yêu cầu
16 Nghị quyết đăng tải tại: https://www.unodc.org/documents/commissions/CCPCJ/Crime_Resolutions/2000-
2009/2005/General_Assembly/A-RES-59-156.pdf, truy cập ngày 8/7/2018.
17 Xem: United Nations Global Initiative to Fight Human Trafficking, The Vienna Forum to fight Human
Trafficking 13-15 February 2008, Austria Center Vienna, 011 Workshop: Human Trafficking for the Re-
moval of Organs and Body Parts, truy cập ngày 8/7/2018 tại:
file:///C:/Users/Admin/Documents/BP011HumanTraffickingfortheRemovalofOrgans.pdf
18 Những luận giải chi tiết cho việc hình sự hóa tham nhũng trong khu vực tư có thể được tìm hiểu thêm tại:
Đào Lệ Thu (2010), Các tội phạm về hối lộ trong luật hình sự Việt Nam - So sánh với Luật hình sự Thụy
Điển và Australia, Luận án tiến sĩ; hoặc Gunter Heine, Barbara Huber, Thomas O. Rose (chủ biên), Private
Commercial Bribery – A Comparison of National and Supranational Legal Structures, xuất bản bởi Inter-
national Chamber of Commerce, Freiburg in Breisgau 2003.
19 Theo quy định tại Điều 21 Công ước chống tham nhũng, các quốc gia nên áp dụng các biện pháp lập pháp
và các biện pháp cần thiết khác để hình sự hóa hối lộ trong khu vực tư, gồm hai dạng hành vi là đưa hối
lộ và nhận hối lộ. Bên cạnh đó, Điều 22 Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên xem xét tội phạm hóa
hành vi của người điều hành hay làm việc, ở bất kỳ cương vị nào, cho tổ chức thuộc khu vực tư biển thủ
tài sản, quỹ tư hoặc chứng khoán hoặc bất kỳ thứ gì khác có giá trị mà người này được giao quản lý do vị
trí của mình, nếu hành vi biển thủ đó được thực hiện một cách cố ý trong quá trình hoạt động kinh tế, tài
chính hoặc thương mại.
11Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
của UNCAC. Hành vi hối lộ công chức nước
ngoài đã chính thức được ghi nhận là một
trường hợp của tội đưa hối lộ theo khoản 6
Điều 364. UNCAC yêu cầu các quốc gia
thành viên hình sự hóa hành vi đưa hối lộ
cho công chức nước ngoài và công chức của
các tổ chức quốc tế công (Điều 16).
- Bổ sung nội dung cấu thành của một
số tội phạm
Trên cơ sở rà soát yêu cầu của các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng
như tham khảo kinh nghiệm của pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới, BLHS
năm 2015 đã thực hiện những sửa đổi, bổ
sung sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về
tội mua bán người (Điều 150) và tội mua bán
người dưới 16 tuổi (Điều 151) phù hợp với
Nghị định thư về phòng, chống buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (ban hành
kèm theo Công ước của LHQ về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia); sửa đổi,
quy định rõ các dấu hiệu pháp lý về hành vi,
thủ đoạn và mục đích của tội phạm.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về
tội rửa tiền theo Điều 324 (trong đó quy định
rõ ràng các dạng hành vi rửa tiền, vấn đề chủ
thể của tội phạm và hành vi tự rửa tiền, lỗi
của người phạm tội) và bổ sung quy định về
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với
tội rửa tiền nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu
của các khuyến nghị của Lực lượng đặc
nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) mà
Việt Nam cần tuân thủ với tư cách là thành
viên Nhóm châu Á – Thái Bình Dương về
chống rửa tiền.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về tội
dùng nhục hình (Điều 373) và tội bức cung
(Điều 374) trên tinh thần đáp ứng những yêu
cầu, khuyến nghị của Công ước Chống tra
tấn mà Việt Nam đã chính thức là thành viên.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định tại
Chương XXVI BLHS năm 2015 về các tội
phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược
và tội phạm chiến tranh, trong đó nội dung
cấu thành phù hợp hơn với chuẩn mực pháp
lý quốc tế và đáp ứng được yêu cầu của quan
hệ ngoại giao trong tình hình mới.
3. Một số vấn đề đặt ra cho lập pháp hình
sựViệt Nam trong xu hướng quốc tế hóa
Phát triển luật hình sự theo xu hướng
quốc tế hóa đã giúp luật hình sự Việt Nam
bắt kịp với những xu thế phát triển luật hình
sự hiện đại và đáp ứng tương đối đầy đủ
những yêu cầu của các điều ước quốc tế có
liên quan mà Việt Nam là thành viên. Tuy
nhiên, việc phân tích những đổi mới của luật
hình sự qua BLHS năm 2015 lại đặt ra một
số vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định của BLHS năm 2015
về TNHS của pháp nhân thương mại, các
biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội hay tội phạm
hóa một số hành vi tham nhũng ở khu vực
ngoài nhà nước chưa thể hiện đúng hoàn
toàn bản chất của các chế định này trong
pháp luật hình sự quốc tế hoặc còn thiếu tính
cụ thể20.
- Việc quy định TNHS của pháp nhân
thương mại trong BLHS năm 2015 (Chương
XI và các điều luật khác có liên quan) đang
cho thấy sự chưa nhất quán giữa bản chất
20 Xem ví dụ như bình luận về những quy định này tại: Đào Lệ Thu (2017), “Những điểm mới trong quy
định về các tội phạm về chức vụ của Bộ luật hình sự 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8; Đào Lệ Thu
(2018), “Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy định
về hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16; Đào
Lệ Thu (2020), “Trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự Anh – so sánh và đề xuất với luật hình
sự Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2+3.
Số 12 (412) - T6/202012
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
21 Xem ví dụ như: The United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice
(The Beijing Rules) - ban hành theo Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ số 40/33 ngày 29/11/1985.
22 Xem tài liệu đã dẫn tại Chú thích 8; xem thêm: Luật tư pháp hình sự thanh thiếu niên (the Youth Criminal
Justice Act) của Canada năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), đặc biệt là Phần 1 về các biện pháp bổ
trợ tư pháp.
23 Xem ví dụ như: Luật về hối lộ (Bribery Act) của Anh Quốc; Luật về các hành vi tham nhũng có yếu tố
nước ngoài (Foreign Corupt Practices Act) của Mỹ; BLHS Cộng hòa Pháp tại các điều 435-1, 435-2, 435-
3 và 435-4.
của TNHS với hình thức quy định về loại
hình TNHS này, thể hiện ở chỗ TNHS của
pháp nhân lúc thì giống với TNHS của một
chủ thể hoàn toàn tách biệt khỏi cá nhân
người phạm tội, lúc lại là hệ quả của hành vi
phạm tội của cá nhân.
- Quy định các biện pháp giám sát, giáo
dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn
TNHS tại Chương XII Mục 2 BLHS năm
2015 cũng chưa hoàn toàn đúng với bản chất
của các biện pháp xử lý chuyển hướng trong
pháp luật quốc tế và của các quốc gia đi đầu
trong xu thế lập pháp hình sự về vấn đề này.
Bởi lẽ, theo quy định của BLHS Việt Nam,
các biện pháp này chỉ là hệ quả của việc miễn
TNHS đối với người phạm tội dưới 18 tuổi và
chỉ có thể được áp dụng từ giai đoạn truy tố.
Bản chất của các biện pháp này trong BLHS
Việt Nam vẫn là biện pháp xử lý hình sự (phi
hình phạt). Trong khi đó, chuẩn mực quốc tế
về nội dung này cho thấy, đây phải là các biện
pháp thay thế cho xử lý hình sự bằng cách đưa
việc xử lý người chưa thành niên phạm tội ra
khỏi tiến trình tư pháp chính thống càng sớm
càng tốt, với các biện pháp xử lý dựa vào cộng
đồng và/hoặc theo tiếp cận tư pháp phục hồi,
trong đó có vai trò đáng kể của cảnh sát với tư
cách là lực lượng có tiếp xúc ban đầu với các
em21. Kinh nghiệm một số quốc gia đi đầu
trong vấn đề này như New Zealand, Canada
đã cho thấy bản chất của các biện pháp xử lý
thay thế đó và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng
cho những hoạt động lập pháp hình sự tiếp
theo của Việt Nam22.
- Quy định tội phạm tham nhũng ở khu
vực ngoài nhà nước cũng như đưa hối lộ cho
công chức nước ngoài trong BLHS Việt Nam
(khoản 6 Điều 353, khoản 6 Điều 354, khoản
6 Điều 364, khoản 7 Điều 365) đang vượt
quá so với quy định của UNCAC, vì đã
không giới hạn phạm vi đối với các hoạt
động thương mại, kinh tế, tài chính. Bên cạnh
đó, các quy định này không mô tả rõ một số
dấu hiệu khác biệt của tham nhũng tư so với
tham nhũng công, của đưa hối lộ cho công
chức nước ngoài so với đưa hối lộ cho công
chức quốc gia, điều được thể hiện rõ trong
luật hình sự nhiều nước khác23. Quy định này
cũng cho thấy sự đánh đồng về tính nguy
hiểm của tham nhũng ở khu vực ngoài Nhà
nước so với tham nhũng ở khu vực công.
Thứ hai, quy định bổ sung TNHS ở giai
đoạn chuẩn bị phạm tội đối với hành vi
thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm cho
thấy sự không tương thích đầy đủ với yêu
cầu về hình sự hóa hành vi tham gia vào
nhóm tội phạm có tổ chức của Công ước
Palermo. Theo đúng nội dung của Công ước
này, hành vi thành lập hoặc tham gia nhóm
tội phạm (có tổ chức) đã cấu thành tội phạm
đầy đủ, không phải chỉ là giai đoạn chuẩn bị
phạm tội. Điểm mấu chốt là luật hình sự Việt
Nam chưa có quy định về nhóm tội phạm có
tổ chức cũng như chưa tội phạm hóa hành vi
tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức theo
tinh thần của Công ước Palermo. Đây cũng
là một nội dung cần được nghiên cứu thêm
với sự kết hợp giữa một bên là yêu cầu của
thực tiễn đấu tranh chống tội phạm trong
nước và một bên là tìm hiểu những kinh
nghiệm lập pháp hình sự có liên quan của
các nước trên thế giới.
13Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Tất cả những điểm chưa triệt để về bản
chất của chế định hoặc còn thiếu cụ thể hoặc
còn ít nhiều mâu thuẫn nêu trên dẫn đến những
quy định mang tính quốc tế hóa của BLHS
năm 2015 chưa thực sự thể hiện được giá trị
đầy đủ và cũng sẽ gây ra những khó khăn nhất
định cho việc áp dụng trong thực tiễn.
Như vậy, việc thực thi trách nhiệm của
quốc gia thành viên của những điều ước
quốc tế về hình sự hay việc bắt kịp những xu
thế cải cách luật hình sự của các nước trên
thế giới là một xu hướng phát triển tất yếu
của pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên,
xu hướng này cũng đặt ra thách thức cho các
nhà lập pháp, nhà áp dụng pháp luật và các
nhà nghiên cứu luật hình sự. Thách thức
trước hết và cũng hiện hữu, thực tế nhất ở
thời điểm thi hành BLHS năm 2015 là việc
làm thế nào để áp dụng các quy định mới
được đưa vào BLHS theo xu hướng quốc tế
hóa đó. Vấn đề đặt ra lúc này là cần tìm hiểu
cách thức và thực tiễn áp dụng những chế
định, quy định này ở các quốc gia khác, đặc
biệt là các nước có quy định gần giống với
quy định của luật hình sự Việt Nam. Thực
tiễn áp dụng, bao gồm cả việc áp dụng án lệ
tại một số quốc gia theo truyền thống
Common Law sẽ là nguồn tư liệu cần thiết
và quý giá đối với việc giải thích và hướng
dẫn áp dụng các quy định mới của BLHS
Việt Nam năm 2015.
Thách thức lớn nhất là việc phát hiện
những điểm còn thiếu tương thích, thiếu cụ
thể hay chưa đúng với bản chất của chế định
hoặc khái niệm trong luật hình sự trên cơ sở
đối chiếu với các chuẩn mực luật hình sự
quốc tế cũng như so sánh có chọn lọc với luật
hình sự của các quốc gia trên thế giới. Đây
sẽ là quá trình tìm hiểu và lựa chọn cả về mặt
nội dung quy định và kỹ thuật lập pháp cho
việc cải cách luật hình sự theo xu hướng quốc
tế hóa trong tương lai. Thách thức này đòi hỏi
việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng từng chế
định hoặc quy định cụ thể trong luật hình sự
nước ngoài và nghiên cứu toàn diện trong
mối liên hệ với các chế định/quy định có liên
quan khác của họ, trong đó có cả các quy
định về thủ tục tố tụng, về phương thức thực
thi. Đặc biệt là việc học theo xu hướng quốc
tế nhưng phải nhìn thấy tính phù hợp với bối
cảnh phòng, chống tội phạm của Việt Nam;
phải bảo đảm sự thống nhất với các chế
định/quy định có liên quan khác của Việt
Nam; phải bảo đảm những nguyên tắc cơ bản
và không phá vỡ những khái niệm nền tảng
của luật hình sự. Mỗi quy định theo hướng
nội luật hóa công ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên hoặc theo hướng học tập kinh
nghiệm lập pháp của nước ngoài cần được
xây dựng trên cơ sở tìm hiểu rõ và đúng bản
chất của quy định đó24.
Tóm lại, qua những dẫn chứng và phân
tích nêu trên, có thể thấy một trong những
xu hướng có ảnh hưởng mạnh mẽ và toàn
diện đến việc cải cách luật hình sự Việt Nam
trong thời gian gần đây chính là xu hướng
quốc tế hóa. Xu hướng này được tiếp cận và
phát triển trong luật hình sự Việt Nam bởi
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành
viên của các điều ước quốc tế, bởi nhu cầu
của hội nhập quốc tế và của việc hài hòa hóa
pháp luật. Những dấu ấn của xu hướng quốc
tế hóa thể hiện một cách rõ nét từ Luật sửa
đổi, bổ sung BLHS năm 2009 và đặc biệt là
trong một loạt sửa đổi, bổ sung quan trọng
của BLHS năm 2015. Ảnh hưởng của xu
hướng này đang đem đến những kết quả tích
cực cho sự phát triển của luật hình sự Việt
Nam, nhưng cũng đặt ra những thách thức,
đòi hỏi tiếp theo đối với việc hoàn thiện luật
hình sự quốc gia n
24 Xem thêm: Đào Lệ Thu (2008), “Vai trò của so sánh luật trong hoạt động lập pháp hình sự của Việt Nam”,
Tạp chí Luật học, số tháng 1.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xu_huong_quoc_te_hoa_cua_luat_hinh_su_viet_nam_va_van_de_dat.pdf