Các kết quả nghiên cứu cho thấy hoàn toàn có
thể xử lý thu hồi đồng kim loại từ PCB thải với quy
trình bao gồm 4 bước cơ bản: tiền xử lý (tháo rời các
linh kiện điện tử, mài mòn và tách từ), thiêu và nấu
đúc và cuối cùng là điện phân tinh luyện.
Sau quá trình thiêu ở nhiệt độ 750ºC trong 45
phút và nghiền loại bỏ tro, mẫu kim loại thu được có
hàm lượng đồng khoảng 68%.
Quá trình đúc anot và điện phân tinh luyện tăng
độ sạch của đồng kim loại lên tới 99,9%. Bên cạnh đó,
trong quá trình điện phân tinh luyện, mật độ dòng
điện và nồng độ Cu2+ trong dung dịch điện phân ảnh
hưởng không nhỏ đến tính chất của đồng điện phân.
5 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 566 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử lý thu hồi đồng kim loại từ bản mạch điện tử thải - Trần Đức Huy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 125 (2018) 046-050
46
Xử lý thu hồi đồng kim loại từ bản mạch điện tử thải
Copper Recovery from Waste Printed Circuit Board
Trần Đức Huy*, Dương Ngọc Bình, Lê Minh Hải
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - Số 1, Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Đến Tòa soạn: 21-12-2017; chấp nhận đăng: 28-03-2018
Tóm tắt
Bản mạch điện tử thải là nguồn đồng kim loại thứ cấp đặc biệt quan trọng, hàm lượng đồng trong bản mạch
điện tử thải có thể lên tới 27%. Mục tiêu của nghiên cứu này là xử lý thu hồi đồng kim loại từ nguồn nguyên
liệu thứ cấp này. Quá trình xử lý bao gồm 4 bước cơ bản: tiền xử lý (tháo rời các thành phần điện tử, mài
mòn và tách từ), thiêu, nấu đúc anot và điện phân tinh luyện. Sau quá trình thiêu ở nhiệt độ 750ºC trong 45
phút và nghiền loại bỏ tro, mẫu kim loại thu được có hàm lượng đồng khoảng 68%. Quá trình đúc anot và
điện phân tinh luyện tăng độ sạch của đồng kim loại lên tới 99,9%. Bên cạnh đó, trong quá trình điện phân
tinh luyện, mật độ dòng điện và nồng độ Cu2+ trong dung dịch điện phân ảnh hưởng không nhỏ đến tính
chất của đồng điện phân.
Từ khóa: thu hồi đồng, bản mạch thải, hỏa luyện, rác thải điện tử.
Abstract
Electronic wasted is an important resource of secondary metals, especially copper with copper content in the
wasted being up to 27%. In this work, copper was recovered from wasted printed circiut boards, a major
component in any wasted electronic device. The recovery process consists of four basic steps: pre-
treatment (disassembly of electronic components, abrasion and magnetic separation), roasting, smelting and
anodized casting and finally electrolytic refining. After being roasted at 750ºC for 45 minutes, the metal
sample had a copper content of approximately 68%. The smelting and electrolytic refining process increased
the purity of copper to 99.9%. The current density and Cu concentrations in the electrolyte solution are the
major factors that affect the properties of the electrolytic copper.
Keywords: copper recovery, wasted PCB, pyrometallurgy, wasted electronics
1. Đặt vấn đề
Sự*tiến bộ nhanh chóng của công nghệ trong lĩnh
vực thiết bị điện, điện tử dẫn tới tuổi đời của thiết bị
ngày càng ngắn đi. Các thiết bị cũ, lỗi thời bị thải ra
và thay thế bằng các thiết bị mới hơn, tiên tiến hơn.
Tuổi đời của thiết bị rút ngắn đồng nghĩa với việc
một lượng lớn rác thải phát sinh. Mỗi năm thế giới
thải ra tới khoảng 50 triệu tấn thiết bị điện tử, được
biết đến như rác thải điện tử [1-4].
Chất thải điện tử nói chung chứa các kim loại
độc hại như cadmi, thuỷ ngân... và các chất hữu cơ
gây ô nhiễm (ví dụ như các chất làm chậm halogen
hóa). Do những nguy cơ đáng kể đối với sức khoẻ
con người và môi trường, rác thải điện tử cần phải
được thu thập, tái chế và xử lý an toàn [5,6].
Các bảng mạch in (PCBs) chiếm khoảng 3% khối
lượng của rác thải điện tử được thải ra trên toàn thế
giới [7]. PCB là một trong những thành phần quan
trọng nhất của một thiết bị điện tử. Các PCB có thành
phần phức tạp, chủ yếu gồm các kim loại (40%), chất
* Địa chỉ liên hệ: Tel.: (+84) 945.697.679
Email: huy.tranduc@hust.edu.vn
hữu cơ và gốm sứ (mỗi loại 30%). Trong số các kim
loại khác nhau thường có trong PCBs, đồng là kim
loại có hàm lượng lớn nhất [8-11] (có thể lên tới
27%), do đó có giá trị đáng kể. Các nỗ lực nhằm thu
hồi kim loại từ PCB thải không chỉ giúp xử lý rác thải
mà còn đem lại hiệu quả kinh tế, giảm sự phụ thuộc
vào nguồn kim loại từ quặng [12,13].
Thu hồi kim loại từ PCB có thể được thực hiện
bằng cả hỏa luyện và thủy luyện [14,15]. Một số
nghiên cứu cũng đã thăm dò sử dụng điện phân để thu
hồi kim loại từ PCB thải [16,17].
Trong nghiên cứu này, đồng từ PCB thải được
thu hồi bằng sự kết hợp của hai quá trình hỏa luyện
và điện phân. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình như
nhiệt dộ thiêu, thời gian thiêu các PCB thải cũng như
các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình điện phân tinh
luyện được quan tâm nghiên cứu.
2. Thực nghiệm
Quá trình xử lý bản mạch điện tử thải được tiến
hành theo ba công đoạn: tiền xử lý, hỏa luyện và điện
phân.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 125 (2018) 046-050
47
Trong giai đoạn đầu tiên, các bản mạch thải được
tháo rời, các linh kiện gắn trên bảng mạch được loại
bỏ... Phần còn lại được nghiền nhỏ thành hạt có kích
thước khoảng 1mm.
Các hạt PCB sau đó được thiêu thiêu ở nhiệt độ
từ 350 đến 950 ºC trong thời gian từ 15 đến 60 phút.
Thiêu phẩm sau đó được nghiền 30 phút trong máy
nghiền hành tinh ở tốc độ 300 v/phút. Sản phẩm sau
nghiền được rửa để loại bỏ tro.
Trong công đoạn nấu luyện, kim loại thu được
sau quá trình rửa được nấu chảy ở nhiệt độ 1150 ºC.
Quá trình nấu được thực hiện trong lò điện trở với nồi
nấu graphit. Kim loại lỏng được đúc thành các tấm
anot phục vụ cho điện phân tinh luyện.
Điện phân tinh luyện được thực hiện trong bể
điện phân với dung dịch điện phân chứa 108g/l
H2SO4 và 50 g/l Cu. Điện cực dương là các tấm đồng
anot và điện cực âm được chế tạo đồng sạch (99,9%)
3. Kết quả và thảo luận
3.1 Quá trình thiêu
Mục đích chính của quá trình thiêu phế liệu bản
mạch là sử dụng nhiệt để phân hủy các hợp chất hữu
cơ nhằm dễ dàng tách chúng ra khỏi kim loại. Vì vậy,
nhiệt độ thiêu và thời gian thiêu đóng vai trò đặc biệt
quan trọng.
Nhiệt độ thiêu thấp sẽ dẫn đến khả năng không
phân hủy hết các chất hữu cơ có trong bản mạch. Do
trong quá trình chế tạo, các lớp chất hữu cơ không
dẫn điện có thể bao phủ gần như hoàn toàn các lớp
mạch dẫn điện nên khi không bị phân hủy hết, các
chất hữu cơ này sẽ không thể loại bỏ được ra khỏi
kim loại. Mặt khác, khi tăng nhiệt độ thiêu cao cũng
làm tăng khả năng oxi hóa của các kim loại trong phế
liệu, làm tăng mất mát kim loại trong quá trình thiêu.
Ảnh hưởng của nhiệt độ thiêu tới hàm lượng kim loại
trong sản phẩm sau thiêu được thể hiện trên hình 1
Hình 1. Ảnh hưởng của nhiệt độ thiêu
Có thể thấy rằng khi tăng nhiệt độ thiêu thì hàm
lượng kim loại trong sản phẩm tăng lên (hình 1). Rõ
ràng là khi tăng nhiệt độ thiêu sẽ tăng khả năng phân
hủy của các chất hữu cơ và chúng bị tách ra khỏi kim
loại. Khi các hợp chất này phân hủy hết thì khối
lượng mẫu thu được sau đó sẽ gần như không thay
đổi. Như trên hình 1, khi tăng nhiệt độ thiêu lên trên
750 ºC thì hàm lượng kim loại trong mẫu gần như
không tăng. Như vậy có thể khẳng định chỉ cần thiêu
ở khoảng 750 ºC là có thể phân hủy hết các chất hữu
cơ trong phế liệu. Ở nhiệt độ thiêu thấp thì cỡ hạt phế
thải khi đưa vào thiêu cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu
quả của quá trình thiêu. Các hạt lớn có thể chưa bị
thiêu hoàn toàn dẫn đến hiệu quả khi thiêu mẫu hạt
lớn thấp hơn. Khi tăng nhiệt độ thiêu thì sự ảnh
hưởng của cỡ hạt giảm dần.
Hình 2 là ảnh chụp các hạt bản mạch sau khi
thiêu ở (a) 350 ºC và (b) 750 ºC. Có thể quan sát thấy
rằng sau khi thiêu ở 350 ºC, sản phẩm thu được vẫn
chứa một số các hạt nhựa chưa phân hủy. Trong khi
đó, mẫu thiêu ở 750 ºC đã xuất hiện các sợi đồng
ngắn do phần hữu cơ bao phủ đã bị đốt cháy hoàn
toàn. Bên cạnh đó, trong mẫu cũng xuất hiện một số
hạt kim loại có dạng gần hình cầu. Các hạt cầu này có
thể là các hợp kim có nhiệt độ nóng chảy thấp, ví dụ
như hợp kim thiếc hàn (nóng chảy ở khoảng 200 ºC).
Các hợp kim này có thể bị chảy trong quá trình thiêu
và tạo thành hạt hình cầu khi làm nguội.
Hình 2. Sản phẩm thiêu tại (a) 350°C và (b) 750°C
Để xem xét ảnh hưởng của thời gian thiêu, các
mẫu phế liệu được thiêu ở nhiệt độ 750ºC với thời
gian thay đổi từ 15 tới 60 phút, các kết quả thu được
trình bày trên hình 3
Hình 3. Ảnh hưởng của thời gian thiêu
Với thời gian thiêu ngắn, quá trình thiêu chưa
được triệt để dẫn đến hiệu quả của quá trình thiêu
thấp. Quá trình loại bỏ tro, tạp chất ra khỏi mẫu sau
thiêu 15 phút rất khó khăn dẫn đến hàm lượng kim
a b
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 125 (2018) 046-050
48
loại trong mẫu không cao (dưới 50%). Khi thời gian
thiêu đến 45 phút thì hàm lượng kim loại tăng lên đến
gần 75% và được duy trì ở mức ổn định khi kéo dài
thời gian thiêu đến 60 phút. Vì vậy, ở nhiệt độ thiêu
750 ºC, thời gian thiêu 45 phút là phù hợp.
Kết quả phân tích hóa học mẫu kim loại thu được
sau khi thiêu trong 45 phút ở nhiệt độ 750 ºC và
nghiền, tuyển rửa được trình bày trên bảng 1
Bảng 1. Thành phần chính của mẫu kim loại sau
thiêu ở 750ºC
Kim loại Cu Fe Pb Sn
Hàm lượng (%) 68.0 5.8 2.3 21.2
Trong mẫu kim loại thu được sau quá trình thiêu,
cùng với sự tồn tại của các sợi đồng ngắn, mảnh có
thể nhìn thấy bằng mắt thường còn có các hạt kim
loại khác (hình 2). Mẫu hạt kim loại này được cắt,
mài, đánh bóng để soi tổ chức tế vi. Hình 4 là ảnh tổ
chức tế vi của hạt kim loại dạng cầu trong hỗn hợp
kim loại thu được với các độ phóng đại khác nhau.
Hình 4. Tổ chức của hạt kim loại dạng cầu trong sản
phẩm thiêu
Có thể thấy trên ảnh, trong các hạt kim loại này
đồng (pha sáng màu) đã bị lẫn vào một kim loại khác,
trong trường hợp này có thể khẳng định là thiếc (có
hàm lượng lên tới trên 20% trong mẫu kim loại - bảng
1). Khi được thiêu ở nhiệt độ cao, thiếc kim loại bị
nóng chảy và các sợi đồng kim loại bị lẫn vào thiếc
nóng chảy. Khi nguội, các hạt thiếc co lại thành dạng
cầu và các hạt đồng lẫn vào tạo thành pha phân tán
trong hạt thiếc. Có thể thấy trên hình biên giới tiếp
xúc giữa hạt đồng và thiếc đã hình thành dạng răng
cưa chứng tỏ đã có sự hòa tan lẫn nhau giữa đồng và
thiếc tại biên giới tiếp xúc.
Sau quá trình thiêu, nghiền và tuyển rửa để loại
bỏ các tạp chất, mẫu kim loại thu được được nấu chảy
trong lò điện và đúc thành điện cực anot để có thể
tinh luyện bằng quá trình điện phân.
3.2 Điện phân tinh luyện
Để đánh giá ảnh hưởng của mật độ dòng điện tới
các tính chất của catot đồng, thực nghiệm điện phân
được thực hiện ở mật độ dòng điện 200, 250, 300 và
350 A/m2 trong 24 giờ. Sự thay đổi của phân cực anot
theo thời gian với mật độ dòng điện khác nhau được
thể hiện trong hình 5a. Có thể thấy không có sự thụ
động xảy ra trong suốt quá trình điện phân tất cả các
mật độ dòng. Các giá trị cực trị xuất hiện trong các
đường cong ở đầu của quá trình có thể là do lớp oxit
được hình thành trên bề mặt anot. Sự hình thành lớp
oxit dẫn đến sự gia tăng phân cực. Sau khi hòa tan
lớp oxit này, phân cực anot giảm về trạng thái ổn định.
Việc giảm dần của phân cực anot trong quá trình điện
phân có thể giải thích bằng sự hình thành một lớp bùn
trên bề mặt anot, ức chế sự khuếch tán của các ion
đồng từ anot.
Hình 5. Phân cực anot và catot với mật độ dòng điện
khác nhau.
Thời gian (h)
P
h
â
n
c
ự
c
a
n
o
t
(m
V
)
P
h
â
n
c
ự
c
ca
n
o
t
(m
V
)
Thời gian (h)
200 A/cm2
250 A/cm2
350 A/cm2
300 A/cm2
300 A/cm2 350 A/cm2
200 A/cm2 250 A/cm2
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 125 (2018) 046-050
49
Ảnh hưởng của mật độ dòng lên điện thế catot
được trình bày trong hình 5b. Sự gia tăng mật độ
dòng điện đã làm tăng sự phân cực catot. Tuy nhiên,
sự thay đổi của phân cực catot chỉ đáng kể khi điện
phân với mật độ dòng điện lớn. Có thể là do sự ảnh
hưởng của hiện tượng giải phóng hydro trên bề mặt
catot.
Ảnh hưởng của mật độ dòng điện đến chất lượng
bề mặt được thể hiện trong hình 6. Có thể thấy bề mặt
catot khi điện phân với mật độ dòng điện thấp phẳng
và mịn hơn bề mặt catot khi điện phân với mật độ
dòng lớn. Mật độ dòng điện càng cao thì kết tủa đồng
càng nhanh, có thể dẫn tới sự tạo thành các hạt bột
đồng bám vào catot làm cho catot có cấu trúc xốp.
Mật độ dòng điện cao cũng có thể dẫn tới sự hình
thành lớp bọt khí hydro trên bề mặt catot. Đồng kim
loại sẽ kết tủa trên bề mặt các bọt khí hydro làm cho
bề mặt catot bị xốp (Hình 6b, c, d).
Thay đổi nồng độ Cu2+ trong dung dịch điện
phân cũng ảnh hưởng đến sự hình thành lớp kết tủa
đồng trên catot. Ảnh hưởng của nồng độ Cu2+ hình
thái học của catot đồng được trình bày trong hình 7.
Hình 6. Ảnh bề mặt catot sau điện phân ở (a) 200, (b)
250, (c) 300 and (b) 350 A/m2.
Thay đổi nồng độ Cu2+ trong dung dịch điện
phân cũng ảnh hưởng đến sự hình thành lớp kết tủa
đồng trên catot. Ảnh hưởng của nồng độ Cu2+ hình
thái học của catot đồng được trình bày trong hình 7.
Có thể thấy, mẫu điện phân ở nồng độ Cu2+ thấp
có bề mặt xốp (hình 7a, b, c). Khi tăng nồng độ Cu2+
bề mặt catot trở nên nhẵn hơn (hình 6d). Về cơ bản,
tăng nồng độ Cu2+ sẽ làm tăng khả năng dẫn điện của
dung dịch và cũng tạo ra lớp kết tủa ban đầu có độ
che phủ tốt hơn trên bề mặt catot.
Độ sạch của đồng kết tủa trên bề mặt catot được
phân tích bằng XRD, EDX và XRF. Giản đồ nhiễu xạ
XRD thu được với đồng catot (hình 8) cho thấy chỉ có
đồng kim loại trong kết tủa thu được. Các tạp chất với
hàm lượng không đủ lớn để có thể xuất hiện trên giản
đồ nhiễu xạ XRD.
Hình 7. Ảnh bề mặt catot sau điện phân với hàm
lượng đồng trong dung dịch ban đầu bằng (a) 30, (b)
45, (c) 70 and (d) 90 g/l
01-085-1326 (C) - Copper - Cu - Y: 64.76 % - d x by: 1. - WL: 1.5406 - Cubic - a 3.61500 - b 3.61500 - c 3.61500 - alpha 90.000 - beta 90.000 - gamma 90.000 - Face-centered - Fm-3m (225) - 4 - 47.2416 - I/Ic PDF 8.
Operations: Smooth 0.220 | X Offset -0.214 | Background 1.000,1.000 | Import
Cu - File: XRD2(CU).RAW - Type: 2Th/Th locked - Start: 30.000 ° - End: 130.002 ° - Step: 0.034 ° - Step time: 35.2 s - Temp.: 25 °C (Room) - Time Started: 9 s - 2-Theta: 30.000 ° - Theta: 15.000 ° - Chi: 0.00 ° - Phi: 0.
L
in
(
C
o
u
n
ts
)
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
10000
11000
12000
13000
14000
15000
16000
17000
18000
19000
20000
21000
22000
23000
24000
2-Theta - Scale
30 40 50 60 70 80 90
Hình 8. Giản đồ nhiễu xạ XRD của đồng catot
Hình 9. Ảnh SEM và kết quả phân tích EDX tương
ứng của mẫu đồng catot
a b
c d
a b
c d
Cu (111)
Cu (200)
Cu (220)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 125 (2018) 046-050
50
Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) của đông catot
thu được khi điện phân mật độ dòng điện 300 A/cm2
trong 24h (hình 9) cho thấy hình thái đặc trưng của
đồng điện phân, đồng nhất và xốp. Phân tích EDS
tương ứng chỉ cho thấy sự xuất hiện của đồng kim
loại. Phân tích XRF cho kết quả độ sạch của đồng
catot đạt 99,9%.
4. Kết luận
Các kết quả nghiên cứu cho thấy hoàn toàn có
thể xử lý thu hồi đồng kim loại từ PCB thải với quy
trình bao gồm 4 bước cơ bản: tiền xử lý (tháo rời các
linh kiện điện tử, mài mòn và tách từ), thiêu và nấu
đúc và cuối cùng là điện phân tinh luyện.
Sau quá trình thiêu ở nhiệt độ 750ºC trong 45
phút và nghiền loại bỏ tro, mẫu kim loại thu được có
hàm lượng đồng khoảng 68%.
Quá trình đúc anot và điện phân tinh luyện tăng
độ sạch của đồng kim loại lên tới 99,9%. Bên cạnh đó,
trong quá trình điện phân tinh luyện, mật độ dòng
điện và nồng độ Cu2+ trong dung dịch điện phân ảnh
hưởng không nhỏ đến tính chất của đồng điện phân.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ Giáo dục và
đào tạo trong khuôn khổ Đề tài B2016-BKA-30.
Tài liệu tham khảo
[1]. Heart S, International regulations and treaties on
electronic waste (E-waste), International Journal of
Environmental Engineering, 1(4): (2009) 335-351,.
[2]. K. Huang, J. Guo, Z.M. Xu, Recycling of waste
printed circuit boards: a review of
current technologies and treatment status in China, J.
Hazard. Mater. 164 (2009) 399–408.
[3]. C.H. Lee, L.W. Tang, S.R. Popuri, A study on the
recycling of scrap integrated circuits by leaching,
Waste Manage. Res. 29 (2011) 677–685.
[4]. A. Khaliq, M.A. Rhamdhani, G. Brooks, S. Masood,
Metal extraction processes for electronic waste and
existing industrial routes: a review and Australian
perspective, Resources 2 (2014) 152–179.
[5]. Huo X, Peng L, Xu X, Zeng L Qiu B, Qi Z, Zhang B,
Han D and Piao Z, Elevated blood lead levels of
children in Guiyu, an electronic waste recycling town
in China, Environmental Health Perspectives, 115(7):
(2008) 1113-1117.
[6]. Manhart A, International cooperation for metal
recycling from waste electrical and electronic
equipments – An assessment of the "best of two
worlds" approach, Journal of Industerial Ecology,
15(1): (2010) 13-30.
[7]. Darlymple I, Wright N, Kellner R, Banis N, Geraghty
K, Goosey M and Light foot L, An integrated
approach to electronic waste (WEEE) recycling,
Circuit world, 33(2): (2007) 55-58.
[8]. J. Li, Z. Xu, Y. Zhou, Application of corona
discharge and electrostatic force to
separate metals and nonmetals from crushed particles
of waste printed circuit boards, J. Electrostat. 65
(2007) 233–238.
[9]. G. Liang, Y. Mo, Q. Zhou, Novel strategies of
bioleaching metals from printed circuit boards (PCBs)
in mixed cultivation of two acidophiles, Enzyme
Microb. Technol. 47 (2010) 322–326.
[10]. S. Ilyas, M.A. Anwar, S.B. Niazi, M.A. Ghauri,
Bioleaching of metals from electronic scrap by
moderately thermophilic acidophilic bacteria,
Hydrometallurgy 88 (2007) 180–188.
[11]. F.-R. Xiu, F.-S. Zhang, Electrokinetic recovery of Cd,
Cr, As, Ni, Zn and Mn from waste printed circuit
boards: effect of assisting agents, J. Hazard. Mater.
170 (2009) 191–196.
[12]. S. Fogarasi, F. Imre-Lucaci, A. Imre-Lucaci, P. Ilea,
Copper recovery and gold enrichment from waste
printed circuit boards by mediated electrochemical
oxidation, J. Hazard. Mater. 273 (2014) 215–221.
[13]. X. Wang, G. Gaustad, Prioritizing material recovery
for end-of-life printed circuit boards, Waste Manage.
32 (2012) 1903–1913.
[14]. Cui. J, Zhang L, Metallurgical recovery of metals
from electronic waste: A review,
Journal of Hazardous Materials, 158(2-3): (2008)
228-256.
[15]. Quinet P, Proost J, Van Lierde A, Recovery of
precious metals from electronic scrap by
hydrometallurgical processing routes, Miner. Metall.
Process, 22(1): (2005) 17-22
[16]. Oishi T, Koyama K, Alan S, Tanaka M and Lee H,
Recovery of high purity copper cathode from PCBs
using ammoniacal sulfate or chloride solution,
Hydrometallurgy, 89: (2007) 82-88.
[17]. Masavetas I, Moutsatsou, Nikolaou, Spanou S,
Zoikis-Karathanasis A, Pavlatou E A, Spyrellis N,
Production of copper powder from PCBs by
electrodeposition, Global NEST Journal, 11(2): (2009)
241 -247.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 009_17_184_1147_2095480.pdf