Các biện pháp khác
Oxygen có thể làm giảm áp lực phổi và cải
thiện cung lượng tim trên những bệnh nhân
tăng áp phổi. Trên những bệnh nhân nặng ở
ICU, tình trạng giảm oxy máu có thể làm co thắt
các mạch máu phổi, làm nặng thêm tình trạng
tăng áp phổi. Do đó, cần chú ý cung cấp oxy
đầy đủ trên các bệnh nhân có tăng áp phổi.
Thuốc lợi tiểu từ lâu được xem như là 1
thuốc kinh điển để điều trị các trường hợp tăng
áp phổi, cho dù tăng áp phổi do bệnh lý mạch
máu phổi hay do suy thất trái. Mục tiêu của việc
dùng thuốc lợi tiểu là để giảm tải tình trạng ứ
dịch trên thất phải khi thất phải đã căng dãn và
suy giảm chức năng do tăng áp phổi
Điều trị Digoxin trên những bệnh nhân suy
tim phải do tăng áp phổi hiện còn nhiều tranh
cãi. Trong 1 nghiên cứu(13) trên 17 bệnh nhân bị
tăng áp phổi nguyên phát được điều trị với
Digoxin, người ta thấy cung lượng tim có cải
thiện một phần và lượng catecholamine trong
máu giảm, nhưng kháng lực mạch máu phổi
không thay đổi và mPAP lại tăng. Hơn nữa, do
có nhiều thuốc hiệu quả hơn Digoxin để điều trị
suy thất phải và nhịp nhanh kịch phát trên thất,
nên Digoxin ít được sử dụng cho mục đích này
trong ICU.
Không có nghiên cứu nào ủng hộ cho việc
dùng thuốc ức chế Canxi cho những bệnh nhân
tăng áp phổi đang nằm ở khoa hồi sức, bởi vì
chính tác dụng inotrope âm tính của nó có thể
làm nặng thêm tình trạng suy tim phải. Tuy
nhiên, ức chế Canxi được dùng để điều trị tăng
áp phổi mãn tính. Sử dụng loại thuốc này có thể
giúp kiểm soát nhịp tim, nhưng cần tránh dùng
các thuốc có tác dụng inotrope âm tính quá
mạnh như Verapamil.
Warfarin được khuyến cáo và sử dụng
rộng rãi trên bệnh nhân tăng áp phổi. Có
nhiều lý do để dùng Warfarin: các bệnh nhân
tăng áp phổi thường có tình trạng tăng đông,
giải phẫu bệnh lý các trường hợp tăng áp
phổi cho thấy có tỷ lệ cao huyết khối tại chỗ.
Có 2 nghiên cứu hồi cứu(4,12) cho thấy những
bệnh nhân có dùng thuốc kháng đông có tỷ lệ
sống còn cao hơn những bệnh nhân không
dùng kháng đông. Khi dùng Warfarin, nên
giữ INR trong khoảng từ 2 – 2,5.
Trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam, ngoài
Milrinone, chỉ có 2 thuốc là khả dĩ có thể sử
dụng trong hồi sức để điều trị tăng áp động
mạch phổi là Iloprost và Sildenafil.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 64 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử trí tăng áp động mạch phổi sau phẫu thuật thông liên thất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 63
XỬ TRÍ TĂNG ÁP ĐỘNG MẠCH PHỔI
SAU PHẪU THUẬT THÔNG LIÊN THẤT
Nguyễn Thị Quý*
TÓM TẮT
Mở đầu: Cơn tăng áp động mạch phổi là 1 trong những yếu tố nguy cơ cao góp phần làm gia tăng tỷ
lệ bệnh tật và tử vong cho các bệnh nhân sau phẫu thuật tim, nhất là các trẻ nhỏ mắc bệnh tim bẩm sinh.
Iloprost và Sildenafil gần đây đã được công nhân như là những thuốc dãn mạch phổi dùng trong điều trị
tăng áp phổi.
Mục tiêu: nhằm đánh giá hiệu quả phối hợp của iloprost và sildenafil trong điều trị tăng áp phổi sau
phẫu thuật thông lien thất ở trẻ em.
Phương pháp: Chúng tôi tổng kết 30 ca hậu phẫu thông liên thất có tăng áp phổi, sử dụng phối hợp
Iloprost và Sildenafil theo guidelines của ACCP. Dùng phép kiểm t - test ghép cặp để so sánh sự khác biệt
về áp lực phổi trước và sau khi dùng iloprost.
Kết quả: áp lực động mạch phổi trung bình giảm từ 45 ± 5mmHg xuống còn 31 ± 4,1mmHg (p<0,05).
Trong khi đó, huyết áp trung bình của bệnh nhân giảm từ 68,5 ± 4,5mmHg xuống còn 59,6 ± 6,25mmHg
(p<0,05).
Kết luận: iloprost chứng tỏ có hiệu quả trong điều trị tăng áp phổi sau mổ. Việc phối hợp Iloprost và
Sildenafil đúng cách sẽ mang lại hiệu quả khá tốt trên lâm sàng, nhất là các bệnh nhân sau phẫu thuật tim
có tăng áp phổi.
Từ khóa: tăng áp động mạch phổi, Iloprost, sildenafil, thông liên thất
ABSTRACT
MANAGEMENT OF PULMONARY HYPERTENSION AFTER VENTRICULE SEPTAL DEFECT
CARDIAC SURGERY
Nguyen Thi Quy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 63 - 69
Pulmonary hypertension crisis (PHC) is one of high risk factors which increases morbidity and
mortality in perioperative cardiac patients. Recently, Iloprost and Sildenafil have approved as pulmonary
vasodilators and used in treatment of pulmonary hypertension.
Objectives: evaluating effectiveness in combination Iloprost and Sildenafil in management PAH after
VSD cardiac surgery.
Methods: Our review on 30 cardiac surgery cases with pulmonary hypertension, treated with iloprost
and silldenafil according to ACCP guidelines. The paired t test was used to compare the pulmonary arterial
pressure differences between pre and post iloprost treatment.
Results: mPAP decreases from 45 ± 5mmHg to 31 ± 4.1mmHg (p<0.05), MAP decreases from 68.5 ±
4.5mmHg to 59.6 ± 6.25mmHg (p<0.05).
Conclusion: iloprost is effectively in treatment of perioperative pulmonary hypertension crisis.
Combination of iloprost and sildenafil will bring good results in control of pulmonary hypertension.
* Viện Tim TP. HCM
Tác giả liên lạc: TS. BS. Nguyễn Thị Quý ĐT: 0913674254 Email: drngtquy@yahoo.com -
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 64
Key words: pulmonary hypertension; ventricular septa defect; Iloprost, Sildenafil
MỞ ĐẦU
Tăng áp phổi là một vấn đề rất thường gặp
trong các khoa hồi sức tim mạch. Mặc dù gần
đây có nhiều biện pháp điều trị mới được đề cập
đến, tuy nhiên việc kiểm soát ổn định áp lực
động mạch phổi ở những bệnh nhân nặng có
tăng áp phổi vẫn còn là một thách thức. Việc
điều trị đúng đắn và phù hợp tùy thuộc nhiều
vào bệnh lý gốc và mức độ nặng của tăng áp
phổi ảnh hưởng trên huyết động
Đối tượng bệnh nhân
Nhóm nghiên cứu bao gồm các trẻ em có
tuổi trung bình 1,5 ± 0,8 tuổi (trong giới hạn tuổi
từ 03 tháng tuổi – 10 tuổi) mắc bệnh tim bẩm
sinh thông liên thất có tăng áp động mạch phổi
nặng được phẫu thuật tại Viện tim TPHCM.
Trong đó, đa số là thông liên thất phần màng lỗ
lớn, các dạng còn lại của thông liên thất như
phần phễu, dưới đại động mạch, phần cơ bè
chiếm tỉ lệ thấp hơn. Áp lực phổi trung bình
trước mổ là 45±5mmHg. Đánh giá áp lực phổi
trước mổ bằng siêu âm Doppler và bằng
phương pháp đo trực tiếp trên động mạch phổi
trên phẫu trường trong lúc mổ. Sau khi được
phẫu thuật sửa chữa những khiếm khuyết trong
tim, chúng tôi đánh giá lại áp lực động mạch
phổi ngay sau khi ngưng tuần hoàn ngoài cơ
thể, và đặt catheter theo dõi áp lực phổi liên tục
tại hồi sức đồng thời với theo dõi huyết áp động
mạch xâm lấn liên tục. Nếu áp lực phổi trung
bình ≥ 30mmHg thì bệnh nhân được điều trị như
sau:
- Truyền Iloprost liên tục qua tĩnh mạch
trung tâm với liều 1 – 3ng/kg/phút
- Sau đó khi bệnh nhân hấp thu được hoặc
khi uống được thì dùng Sildenafil với liều 0.25 –
1 mg/kg/lần uống 4 lần/ngày
Khi đã dùng Sildenafil được 2 ngày thì giảm
dần Iloprost tới lúc ngưng hẳn, tiếp tục duy trì
Sildenafil.
Phương pháp phân tích thống kê
Thu thập số liệu áp lực động mạch phổi
trước mổ và sau khi dùng Iloprost sau mổ, đồng
thời thu thập số liệu huyết áp hệ thống cùng
thời điểm như trên. Chúng tôi phân tích số liệu
với phép kiểm t-test bắt cặp so sánh sự khác biệt
về áp lực phổi và huyết áp động mạch trước mổ
và sau khi dùng Iloprost sau mổ.
KẾT QUẢ
Từ tháng 09/2008 – 06/ 2009, có 30 trẻ em
mắc tim bẩm sinh thông liên thất có tăng áp
phổi với áp lực phổi trung bình trước mổ là
45±5mmHg được phẫu thuật và được điều trị
tăng áp phổi sau mổ với phương pháp nêu trên.
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân trước mổ
Đặc điểm bệnh nhân trước mổ Giá trị
Tuổi (năm) 1,5 ± 0,8
Cân nặng (kg) 6,5 ± 0,9
Loại thông liên thất
Phần màng
Phần phễu
Dưới đại động mạch
Cơ bè
68%
17%
10%
5%
Áp lực phổi (mmHg) 45±5
Sau mổ, áp lực động mạch phổi trung bình
giảm từ 45 ± 5mmHg xuống còn 31 ± 4,1mmHg
(p<0,05). Trong khi đó, huyết áp trung bình của
bệnh nhân giảm từ 68,5 ± 4,5mmHg xuống còn
59,6 ± 6,25mmHg (p<0,05).
Bảng 2: Đặc điểm bệnh nhân sau mổ
Đặc điểm bệnh nhân sau mổ Giá trị P
Áp lực phổi (mmHg) 31 ± 4,1 0.016
Thời gian thở máy (giờ) 12 ± 2,8
Thời gian nằm hồi sức (ngày) 4,2 ± 1,6
Nhiễm khuẩn (%) 4
Thời gian thở máy trung bình là 12 ± 2,8
(giờ), tính từ lúc chuyển bệnh nhân đến hồi
sức cho đến khi rút ống nội khí quản. Tỉ lệ
này có vẻ thấp hơn thời gian thở máy ở các
bệnh nhân không dùng iloprost, nhưng trong
phạm vi nghiên cứu của bài này chúng tôi
không đề cập đến. Thời gian nằm hồi sức
trung bình là 4,2 ± 1,6 ngày. Tỉ lệ nhiễm khuẩn
là 4%, tính cho tất cả các loại nhiễm khuẩn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 65
như viêm phổi, nhiễm khuẩn vết mổ, nhiễm
khuẩn huyết, nhiễm khuẩn do catheter mà
có kết quả cấy vi khuẩn dương tính.
BÀN LUẬN
Ngày nay, người ta cho rằng ở hệ mạch máu
phổi luôn có sự cân bằng giữa các chất được tiết
ra từ lớp nội mạc gây co mạch và dãn mạch,
giữa các chất phân bào và chống phân bào. Bất
kỳ 1 yếu tố nào làm rối loạn sự cân bằng này sẽ
gây ra tăng áp phổi. Các yếu tố đó có thể kể ra
như sau: giảm oxy máu, toan máu, các hóa chất
trung gian gây viêm, tình trạng tăng lưu lượng
máu lên phổi do shunt trái phải, và sự lắng tụ
fibrin từ các mảng huyết khối.
Tăng áp phổi được xác định khi áp lực động
mạch phổi thì tâm thu trên 35mmHg, hoặc khi
áp lực động mạch phổi trung bình trên
25mmHg lúc nghỉ hoặc trên 30mmHg lúc vận
động. Việc tăng áp lực trên hệ mạch máu phổi
sẽ làm tăng sức cản mạch máu phổi, lâu dần sẽ
làm dày thất phải và suy thất phải. Trong 1
nghiên cứu của Vizza(15) và cộng sự, tỷ lệ suy
thất phải (định nghĩa khi EF thất phải <45%) đặc
biệt cao trên nhóm tăng áp phổi so với nhóm
bệnh phổi giai đoạn cuối. Việc tăng áp phổi lâu
ngày sẽ làm biến đổi cấu trúc mạch máu phổi,
hay còn gọi là hiện tượng tái cấu trúc mạch máu
(vascular remodeling). Bình thường, các tiểu
động mạch phổi có thành mỏng, khi tăng áp
phổi lâu ngày, có hiện tượng tăng sinh các tế
bào cơ trơn thành mạch, đồng thời lớp ngoại
mạc cũng dày lên do các nguyên bào sợi tăng
sinh làm tăng sinh lóp mô liên kết. Hậu quả là
thành mạch dày lên. Đây là cơ chế bảo vệ của
thành mạch đối với hiện tượng tăng áp lực
trong lòng mạch.
Hiện nay trên thế giới có nhiều phương
pháp điều trị tăng áp phổi. Một số biện pháp
thông dụng như sau:
- Thông khí cơ học kết hợp với việc cho bệnh
nhân an thần đầy đủ được xem là 1 trong những
biện pháp kiểm soát tăng áp phổi. Tuy nhiên,
nếu điều chỉnh không tốt thể tích khí lưu thông
(Tidal Volume) và nhất là áp lực dương PEEP
thì có thể làm tăng kháng lực mạch máu phổi,
và làm cho tình trạng suy thất phải trầm trọng
thêm. Người ta khuyến cáo rằng nên kiểm soát
thông khí cho những bệnh nhân tăng áp phổi
với thể tích khí thường lưu và PEEP tương đối
thấp, nhưng tránh không được để xảy ra tình
trạng ứ đọng thán khí (hypercapnia) vì như vậy
sẽ làm tăng áp lực phổi. Trong 1 nghiên cứu trên
18 bệnh nhân phẫu thuật mạch vành, người ta
thấy rằng tăng thán khí sẽ làm tăng sức cản
mạch máu phổi 54% và làm tăng áp lực phổi
trung bình lên 30%.
Hình 1: Sinh lý bệnh tăng áp phổi ĐMP: động mạch
phổi; TP: thất phải; LLMMV: lưu lượng máu mạch
vành; CLT: cung lượng tim; TTCTTrgTT: thể tích
cuối tâm trương thất trái; ALCTTrgTT: áp lực cuối
tâm trương thất trái; ALCTTrgTP: áp lực cuối tâm
trương thất phải; TTCTTrgTP: thể tích cuối tâm
trương thất phải.
- Trong các thuốc inotrope, chỉ có
Dobutamine và Milrinone là 2 thuốc có tác dụng
giảm sức cản mạch máu phổi. Nhiều nghiên
cứu(3,1) khuyên rằng liều dùng dobutamine trong
tăng áp phổi không nên vượt quá 5μg/kg/phút
và nên phối hợp với các thuốc dãn mạch phổi
khác. Milrinone là chất ức chế men
phosphodiesterase-3, vừa có tác dụng inotrope,
vùa làm dãn mạch. Khi phối hợp với Nitric
oxide, người ta thấy Milrinone có tính dãn mạch
phổi chọn lọc trên những trẻ em được phẫu
thuật tim bẩm sinh. Tuy nhiên, vì Milrinone có
tác dụng dãn mạch nên nó cũng làm giảm huyết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 66
áp, vì vậy nên thận trọng khi dùng nhất là trong
những trường hợp huyết động không ổn định.
Hình 2: Cơ chế tác dụng của những thuốc dãn mạch
phổi
Các thuốc dãn mạch phổi chọn lọc
NO dùng qua đường hô hấp đã chứng minh
được hiệu quả trên tăng áp phổi trong nhiều
nghiên cứu. Trong tăng áp phổi lâu ngày, NO
làm giảm đáng kể áp lực động mạch phổi trung
bình (mPAP) và sức cản mạch máu phổi (PVR)
mà không làm ảnh hưởng trên sức cản mạch
máu ngoại vi (SVR) và cung lượng tim (CO)(16).
Tuy vậy, sử dụng NO cũng cần chú ý đến
những biến chứng, nhất là tình trạng
Methemoglobin máu khi dùng NO kéo dài với
nồng độ thuốc cao. Và khi ngưng thuốc phải
giảm dần nồng độ thuốc, không ngưng thuốc
đột ngột tránh hiện tượng tăng áp phổi dội
ngược (rebound).
Iloprost có thể sử dụng dưới 2 dạng là
truyền tĩnh mạch và phun khí dung là thuốc
thuộc nhóm prostacyclin. Gần đây có nhiều
nghiên cứu chứng minh Iloprost có hiệu quả
trên mPAP và trên PVR, cũng như làm cải thiện
cung lượng tim và thuốc đã chứng tỏ có hiệu
quả khi dùng dưới cả 2 dạng: khí dung và
truyền tĩnh mạch
Dạng truyền tĩnh mạch
Trong một nghiên cứu hồi cứu trên 45 bệnh
nhân tăng áp phổi nguyên phát từ 1995 – 2002
(trong đó có 35 nữ, tuổi trung bình 45) dùng
Iloprost truyền tĩnh mạch. 42 trong số 45 bệnh
nhân được tiến hành thông tim đo các chỉ số
huyết động học trước và sau khi dùng Iloprost
như: CI (cardiac index), PVR (pulmonary
vascular resistance), mPAP (mean pulmonary
arterial pressure), MAP (mean arterial pressure)
và SvO2. Kết quả cho thấy liều Iloprost lý tưởng
trong nghiên cứu này là 1,5 ± 0,8 (0.5 – 4)
ng/kg/phút, với liều này người ta thấy CI, PVR,
PAPm và SvO2 cải thiện một cách đáng kể
(p=0,001) và huyết áp trung bình MAP hầu như
không thay đổi (80 mmHg so với 77mmHg sau
điều trị, p=0,11)(5). Dạng iloprost truyền tĩnh
mạch trong nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ giảm
tỷ lệ tử vong trên các bệnh nhân tăng áp phổi
nặng. Tuy nhiên, khi dùng qua đường truyền
tĩnh mạch, thuốc có thể ảnh hưởng đến huyết
áp, nhất là trong những trường hợp huyết động
không ổn định. Ngoài ra, dùng lâu ngày có thể
xảy ra tình trạng dung nạp thuốc và tình trạng
nhiễm khuẩn catheter nên ít nhiều cũng có
những hạn chế nhất định.
Dạng phun khí dung
Trong nghiên cứu AIR-Study(11) (Aerolized
Iloprost Randomized), người ta so sánh hiệu
quả khi dùng iloprost dạng hít liều 2,5 -
5μg/kg/lần (dùng 6 – 9 lần/ngày, trung bình 30
μg/ngày) so với placebo. Tổng số có 203 bệnh
nhân tăng áp động mạch phổi nặng với NYHA
III-IV tham gia nghiên cứu. Tiêu chí của nghiên
cứu này đạt được khi sau 12 tuần điều trị,
NYHA tăng ít nhất 1 bậc hoặc chiều dài đoạn
đường mà bệnh nhân đi bộ trong 6 phút tăng ít
nhất 10%, mà không có những rối loạn lâm sàng
nguy hiểm. Kết quả có 16,8% số bệnh nhân
dùng iloprost đạt được tiêu chí nghiên cứu, so
với nhóm chứng placebo là 4,9% (p=0,007).
Chiều dài đoạn đường đi bộ trong 6 phút tăng
36,4m ở nhóm iloprost (p=0,004). Các chỉ số
huyết động học cải thiện rất đáng kể sau 12 tuần
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 67
điều trị thở khí dung iloprost (p<0,001), trong
khi nhóm chứng các chỉ số huyết động học đều
xấu hơn. Ngoài ra, các lợi ích lâm sàng khác của
điều trị iloprost là cải thiện NYHA (p=0,03), cải
thiện tình trạng khó thở (p=0,015), và cải thiện
chất lượng cuộc sống (p=0,026). (Hình 3)
Về hiệu quả lâu dài của iloprost, nghiên cứu
AIR-2(10) tiến hành trên 63 bệnh nhân có NYHA
II – IV điều trị khí dung iloprost trong 2 năm.
Nghiên cứu xác nhận độ an toàn trong chỉ định
và cải thiện khả năng vận động của iloprost.
Tuy nhiên, kết quả quan trọng của nghiên cứu
này lại nằm ở chỗ iloprost có thể cải thiện khả
năng sống còn lâu dài cho bệnh nhân. Khả năng
sống còn của các bệnh nhân trong nghiên cứu
lên đến 91,4% so với tỷ lệ dự đoán là 63,1%.
Cần lưu ý dạng iloprost khí dung chỉ có
hiệu quả khi sử dụng với những bộ phun khí
dung nebulizer đạt tiêu chuẩn cho kích cỡ của
hạt phun sương là 3,5μm. Có thể dùng bộ phun
khí dung sử dụng sóng siêu âm như Opti-Neb,
Co. NEBU-TEC med. Product hoặc Multisonic,
Otto Schill GmbH & Co. KG, Probstzella. Ngày
nay, có 1 số bộ phun khí dung được gắn với
máy thở và có thể trigger vào thời kỳ hít vào của
bệnh nhân để đưa thuốc vào đường hô hấp
bệnh nhân.
Hình 3: Hiệu quả của iloprost khí dung và placebo
dựa trên quãng đường đi bộ trong 6 phút
Tóm lại, dựa trên nhiều bằng chứng có
được, iloprost dạng khí dung dùng điều trị tăng
áp phổi an toàn, hiệu quả và dung nạp tốt. Một
nhược điểm của nó là thời gian tác dụng tương
đối ngắn, cần phải sử dụng 6 – 9 lần/ngày, điều
này gây khó khăn ít nhiều trong điều trị. Hơn
nữa, hiệu quả trên huyết động của thuốc giảm
sau 30 -90 phút sau khi phun.
Sildenafil là chất ức chế men
phosphodiesterase-5 có hiệu quả trên huyết
động trong các trường hợp tăng áp phổi. Mới
đây, Sildenafil đã được chấp thuận như là 1
trong những thuốc điều trị tăng áp phổi. Trong
1 mô tả hồi cứu 8 trường hợp bệnh nhân người
lớn được sửa van 2 lá hoặc đặt dụng cụ hỗ trợ
thất có tăng áp phổi, người ta thấy rằng dùng
Sildenafil làm giảm đáng kể huyết áp ĐMP
trung bình (mPAP) và kháng lực mạch máu
phổi (PVR) nhưng chỉ làm giảm huyết áp không
đáng kể. Trên những bệnh nhân ổn định, dùng
Sildenafil đơn độc hoặc phối hợp với NO hay
Iloprost đều giúp giảm mPAP và PVR và tăng
cung lượng tim. Trên bệnh nhân tăng áp phổi
nguyên phát, Sildenafil cũng giúp cải thiện cung
lượng tim rất đáng kể. Thêm vào đó, có vài tác
giả còn cho rằng Sildenafil có thể cải thiện tuần
hoàn phổi và tưới máu cơ tim sau phẫu thuật
bắc cầu mạch vành. Tác giả Trachte(14) và cộng
sự trong 1 báo cáo mới xuất bản gần đây đã cho
thấy rằng sildenafil có tác dụng dãn mạch phổi
rất tốt khi sử dụng chung với những thuốc dãn
mạch phổi khác cho những bệnh nhân tăng áp
phổi sau phẫu thuật tim. Tác giả dùng sildenafil
với liều 25 – 50mg cho các bệnh nhân người lớn
đã có sử dụng milrinone, nitroglycerine hoặc
sodium nitroprusside truyền tĩnh mạch và NO
nhằm cai các thuốc này. Sau liều đầu tiên
sildenafil 25 – 50mg, tác giả ghi nhận áp lực
động mạch phổi trung bình giảm 20% sau 30
phút và 22% sau 60 phút (p<0,05). Sức cản mạch
máu phổi PVR giảm 49% sau 30 phút và 44%
sau 60 phút (p<0,05). Tác giả còn ghi nhận
sildenafil không có ảnh hưởng trên cardiac
index CI, trên huyết áp trung bình MAP và trên
sức cản mạch máu hệ thống SVR. Sildenafil
không những có tác dụng dãn mạch phổi mà nó
còn giúp cai dần các thuốc dãn mạch phổi khác
dùng qua đường hô hấp hoặc truyền tĩnh mạch
như NO, iloprostNgoài ra, còn nhiều tác giả
như Bentlin MR(2), Nemoto S(9) cũng có những
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 68
báo cáo về việc sử dụng thành công sildenafil để
điều trị tăng áp phổi sau mổ
Bosentan là thuốc đối kháng receptor
endothelin, có tác dụng làm dãn mạch phổi và
chống lại sự tăng sinh quá phát cơ trơn thành
động mạch phổi. Nhiều nghiên cứu lâm
sàng(5,6) chứng minh bosentan có hiệu quả làm
giảm áp lực động mạch phổi, giảm PVR, cải
thiện huyết động học cho bệnh nhân, cải thiện
khả năng vận động, cải thiện khả năng sống
còn. Theo guidelines mới đây của ACCP về
điều trị tăng áp phổi, người ta khuyến cáo
dùng bosentan cho các bệnh nhân NYHA III –
IV mà không dùng được ức chế canxi. Tuy
nhiên hiện tại giá thành bosentan ở Việt Nam
vẫn còn khá cao, điều này làm cho bệnh nhân
khó tiếp cận được với điều trị.
Các biện pháp khác
Oxygen có thể làm giảm áp lực phổi và cải
thiện cung lượng tim trên những bệnh nhân
tăng áp phổi. Trên những bệnh nhân nặng ở
ICU, tình trạng giảm oxy máu có thể làm co thắt
các mạch máu phổi, làm nặng thêm tình trạng
tăng áp phổi. Do đó, cần chú ý cung cấp oxy
đầy đủ trên các bệnh nhân có tăng áp phổi.
Thuốc lợi tiểu từ lâu được xem như là 1
thuốc kinh điển để điều trị các trường hợp tăng
áp phổi, cho dù tăng áp phổi do bệnh lý mạch
máu phổi hay do suy thất trái. Mục tiêu của việc
dùng thuốc lợi tiểu là để giảm tải tình trạng ứ
dịch trên thất phải khi thất phải đã căng dãn và
suy giảm chức năng do tăng áp phổi
Điều trị Digoxin trên những bệnh nhân suy
tim phải do tăng áp phổi hiện còn nhiều tranh
cãi. Trong 1 nghiên cứu(13) trên 17 bệnh nhân bị
tăng áp phổi nguyên phát được điều trị với
Digoxin, người ta thấy cung lượng tim có cải
thiện một phần và lượng catecholamine trong
máu giảm, nhưng kháng lực mạch máu phổi
không thay đổi và mPAP lại tăng. Hơn nữa, do
có nhiều thuốc hiệu quả hơn Digoxin để điều trị
suy thất phải và nhịp nhanh kịch phát trên thất,
nên Digoxin ít được sử dụng cho mục đích này
trong ICU.
Không có nghiên cứu nào ủng hộ cho việc
dùng thuốc ức chế Canxi cho những bệnh nhân
tăng áp phổi đang nằm ở khoa hồi sức, bởi vì
chính tác dụng inotrope âm tính của nó có thể
làm nặng thêm tình trạng suy tim phải. Tuy
nhiên, ức chế Canxi được dùng để điều trị tăng
áp phổi mãn tính. Sử dụng loại thuốc này có thể
giúp kiểm soát nhịp tim, nhưng cần tránh dùng
các thuốc có tác dụng inotrope âm tính quá
mạnh như Verapamil.
Warfarin được khuyến cáo và sử dụng
rộng rãi trên bệnh nhân tăng áp phổi. Có
nhiều lý do để dùng Warfarin: các bệnh nhân
tăng áp phổi thường có tình trạng tăng đông,
giải phẫu bệnh lý các trường hợp tăng áp
phổi cho thấy có tỷ lệ cao huyết khối tại chỗ.
Có 2 nghiên cứu hồi cứu(4,12) cho thấy những
bệnh nhân có dùng thuốc kháng đông có tỷ lệ
sống còn cao hơn những bệnh nhân không
dùng kháng đông. Khi dùng Warfarin, nên
giữ INR trong khoảng từ 2 – 2,5.
Trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam, ngoài
Milrinone, chỉ có 2 thuốc là khả dĩ có thể sử
dụng trong hồi sức để điều trị tăng áp động
mạch phổi là Iloprost và Sildenafil.
KẾT LUẬN
Điều trị tăng áp động mạch phổi hiện vẫn
còn là một thử thách cho các nhà lâm sàng trong
ICU. Để có được 1 phương cách điều trị thích
hợp, chúng ta cần phải kiểm soát thông khí thật
tốt, xác định rõ nguyên nhân gây tăng áp phổi
và xử trí các nguyên nhân này nếu có thể được.
Trong các thuốc dãn mạch phổi chọn lọc, NO đã
được sử dụng từ lâu và có hiệu quả tốt. Tuy
nhiên, trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam,
chúng tôi nhận thấy chỉ có 3 loại thuốc khả dĩ có
thể sử dụng tốt cho các bệnh nhân tăng áp phổi,
nhất là cho các bệnh nhân hậu phẫu tim, đó là:
Milrinone, Iloprost và Sildenafil. Trong đó,
iloprost cả dạng truyền tĩnh mạch và dạng phun
khí dung đều chứng tỏ có hiệu quả trong điều
trị tăng áp phổi sau mổ. Việc phối hợp các thuốc
này đúng cách trong lâm sàng sẽ mang lại hiệu
quả khá tốt, trong điều kiện hiện tại.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Badesch DB, Abman SH, Ahearn GS, Barst RJ, Douglas C (2004).
McCrory, Gerald Simonneau and Vallerie V. McLaughlin.
Medical Therapy For Pulmonary Arterial Hypertension: ACCP
Evidence - Based Clinical Practice Guidelines. Chest;126;35-62.
2. Bentlin MR, Saito A, De Luca AK, et al (2005): Sildenafil for
pulmonary hypertension treatment after cardiac surgery. J
Pediatr (Rio J) 81:175-178,
3. Bradford KK, Deb B, Pearl RG (2000): Combination therapy
with inhaled nitric oxide and intravenous dobutamine during
pulmonary hypertension in the rabbit. J Cardiovasc Pharmacol;
36:146–151.
4. Fuster V, Frye RL, Gersh BJ et al (1984). Primary pulmonary
hypertension: natural history and the importance of thrombosis.
Circulation;70:580-7.
5. Higenbottam TW, Butt AY, Dinh-Xaun AT et al (1998).
Treatment of pulmonary hypertension with the continuous
infusion of a prostacyclin analogue, iloprost. Heart;79:175-179
6. Kerbaul F, Rondelet B, Motte S, et al (2004): Effects of
norepinephrine and dobutamine on pressure load–induced right
ventricular failure. Crit Care Med; 32:1035–1040
7. Liu C, Cheng J (2005). Endothelin receptor antagonists for
pulmonary arterial hypertension. Cochrane Database Syst. Rev.
Jan 25;(1):CD004434: 1–18.
8. McLaughlin VV, Sitbon O, Badesch DB, et al (2005). Survival
with first-line bosentan in patients with primary pulmonary
hypertension. Eur Respir J; 25: 244–249.
9. Nemoto S, Umehara E, Ikeda T, et al (2004): Oral sildenafil
citrate as an effective alternate in the treatment of postoperative
pulmonary hypertensive crisis after congenital heart surgery.
Kyobu Geka 57:842- 845,
10. Olschewski et al (2003). Long-term survival in patients with
pulmonary hypertension inhaling iloprost, Eur. Heart J;24:p. 482
11. Olschewski H, Simonneau G, Galie N et al (2002). Inhaled
iloprost for severe pulmonary hypertension. NEJM; 347:322-329.
12. Rich S, Kaufmann E, Levy PS (1992): The effect of high doses of
calcium channel blockers on survival in primary pulmonary
hypertension. NEJM;327:76-81.
13. Rich S, Seidlitz M, Dodin E, et al (1998): The short-term effects of
digoxin in patients with right ventricular dysfunction from
pulmonary hypertension. Chest; 114: 787–79
14. Trachte AL, Lobato EB, Urdaneta F, et al (2005). Oral sildenafil
reduces pulmonary hypertension after cardiac surgery. Ann
Thorac Surg 79:194-197,
15. Vizza CD, Lynch JP, Ochoa LL, et al (1998). Right and left
ventricular dysfunction in patients with severe pulmonary
disease. Chest;113:576–83.
16. Vizza CD, Rocca GD, Roma AD, et al (2001): Acute
hemodynamic effects of inhaled nitric oxide, dobutamine, and a
combination of the two in patients with mild to moderate
secondary pulmonary hypertension. Crit Care; 5:355–361.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xu_tri_tang_ap_dong_mach_phoi_sau_phau_thuat_thong_lien_that.pdf