Trình độ của đội ngũ giải quyết tranh
chấp hiện nay còn những hạn chế nhất định,
đặc biệt về khả năng ngoại ngữ, để có thể
hiểu và áp dụng pháp luật nước ngoài theo
sự thoả thuận giữa các bên. Thực tiễn pháp
lý Việt Nam trong thời gian qua cho thấy,
hầu như rất hiếm trường hợp pháp luật nước
ngoài được áp dụng. Tòa án Việt Nam chỉ áp
dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh
chấp mà không viện dẫn lý do tại sao lại áp
dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết các
tranh chấp đó31. Hơn nữa, mặc dù theo quy
định tại khoản 1 Điều 481 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 có quy định về nghĩa vụ
của các bên trong trường hợp có thoả thuận
chọn luật, nhưng nghĩa vụ đó chỉ liên quan
đến việc cung cấp pháp luật nước ngoài,
còn việc hiểu và giải thích nội dung pháp
luật nước ngoài lại thuộc về thẩm phán, dựa
trên các nguyên tắc được quy định từ Điều
664 - 670 BLDS năm 2015. Điều này có thể
dẫn đến sự lúng túng trong việc tiếp cận xác
định nội dung của pháp luật nước ngoài làm
31 Nguyễn Khánh Ngọc và một số tác giả, Báo cáo tóm tắt đề tài: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật TPQT, Đề tài
Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, năm 2015, tr. 19.
cơ sở giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài. Chính những yếu tố này có thể
khiến cho quy định tưởng chừng như rất cởi
mở trong việc tôn trọng quyền tự định đoạt
của các bên tranh chấp lại không được thực
thi trên thực tế.
- Hạn chế được vấn đề lẩn tránh pháp
luật: Điều này có thể xảy ra khi các bên cố
tình lẩn tránh pháp luật Việt Nam, lựa chọn
pháp luật nước ngoài nhằm trốn tránh một
nghĩa vụ nào đó. Bởi lẽ, có những trường
hợp, nếu các bên không có thoả thuận chọn
luật thì pháp luật Việt Nam sẽ phải được áp
dụng và khi đó, có thể sẽ làm phát sinh nghĩa
vụ của một trong hai bên tranh chấp hoặc cả
hai bên tranh chấp với Nhà nước Việt Nam
hoặc với bên thứ ba có quyền và lợi ích
hợp pháp.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 295 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Yêu cầu về "mối liên hệ gắn bó" trong thỏa thuận chọn luật theo pháp luật một số nước và những nội dung có thể tham khảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
YEÂU CAÀU VEÀ “MOÁI LIEÂN HEÄ GAÉN BOÙ” TRONG THOAÛ THUAÄN
CHOÏN LUAÄT THEO PHAÙP LUAÄT MOÄT SOÁ NÖÔÙC
VAØ NHÖÕNG NOÄI DUNG COÙ THEÅ THAM KHAÛO
Phan Hoài Nam*
Tóm tắt:
Thoả thuận chọn luật là một vấn đề phức tạp trong tư pháp quốc tế.
Mặc dù các quốc gia gần như có quan điểm giống nhau khi ghi nhận
quyền thoả thuận chọn luật của các bên, song vẫn có sự khác biệt
không nhỏ trong quy định về điều kiện hiệu lực của thoả thuận, đặc
biệt là yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó” của nguồn luật được lựa chọn
với tranh chấp. Bài viết nêu những kinh nghiệm từ các nước đối với
yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó”, từ đó đưa ra những kiến nghị mang
tính tham khảo cho Việt Nam.
Abstract:
The agreement on law selection for application is a complex matter
in international justice. Although several countries have almost the
same viewpoint as the recognition of the parties’ rights to choose the
law, there are significant differences in the terms of validity of the
agreement, The term of “closely connection” of the source of the
law is chosen with the dispute. This article outlines experiences from
other countries on the need for “closely connection “, which provides
a reference for Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: mối liên hệ gắn bó, thoả
thuận chọn luật, tư pháp quốc tế
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 14/04/2017
Biên tập: 15/06/2017
Duyệt bài: 22/06/2017
Article Infomation:
Keywords:
close connection, agreement on law
selection, international justice.
Article History:
Received: 14 Apr. 2017
Edited: 15 Jun 2017
Appproved: 22 Jun 2017
* ThS, GV Khoa Luật Quốc tế, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
1. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó” trong
thoả thuận chọn luật theo pháp luật Liên
minh Châu Âu và một số quốc gia thành
viên
Nguyên tắc đồng thuận giữa các bên
1 Felix Maultzsch, Party Autonomy in European Private International Law: Uniform Principle or Context-Dependent
Instrument? - “Parteiautonomie im Internationalen Privat- und Zivilverfahrensrecht” (bằng tiếng Đức) trong tài liệu:
J v Hein & G Rühl, Kohärenz im Europäischen Internationalen Privat- und Ver-fahrensrecht, Nxb Tübingen, Mohr
Siebeck, Đức, năm 2015 tr. 1-2.
trong hợp đồng đã thu hút được sự chú ý
của giới nghiên cứu và những nhà làm luật
EU trong thời gian gần đây, đặc biệt là trong
quá trình thống nhất tư pháp quốc tế (TPQT)
EU1. Trong đó, việc thống nhất các nội dung
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
53Số 12(340) T6/2017
được thể chế hoá từ nguyên tắc tự định đoạt
của các bên trong TPQT tại EU được xác
định là tương đối khó. Bởi vì quyền tự định
đoạt sẽ bị những giới hạn mang tính ràng
buộc với các vấn đề liên quan đến quyền tài
phán, lợi ích công cộng gắn với yếu tố chủ
quyền quốc gia hoặc những giá trị khác mà
nhà nước của các quốc gia thành viên mong
muốn bảo vệ... Điều đó có nghĩa là những
thoả thuận đó không thể ngăn được toà án
của các quốc gia có thể từ chối sự thoả thuận
trên cơ sở quyền tự định đoạt với những lý
do liên quan đến chính sách công, những
nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật
của từng quốc gia thành viên2. Bên cạnh đó,
những sự khác biệt về các lĩnh vực, phạm vi
của sự đồng thuận được cho phép cũng
trở thành rào cản lớn cho quá trình này.
Tuy nhiên, trong những chừng mực
nhất định, các quyền này đã được thừa nhận
dựa trên việc đảm bảo tính dung hoà với lợi
ích của các quốc gia thành viên, và đã được
cụ thể hoá trong các văn bản pháp quy mà
EU đã ban hành. Cụ thể, theo khoản 1 Điều
3 Nghị định Rome I3, quy định về sự ưu tiên
áp dụng nguồn luật theo sự thoả thuận giữa
các bên trong tranh chấp hợp đồng mà không
đặt ra yêu cầu về sự kết nối giữa nguồn luật
được lựa chọn với tranh chấp hoặc các bên
trong tranh chấp. Thực tiễn của EU cũng cho
thấy, điều kiện về mối liên hệ gắn bó không
được đề cập mà chỉ đặt ra yêu cầu về tính
hiệu lực hiện hành của nguồn luật được lựa
chọn4. Tuy nhiên, một cách gián tiếp, thông
2 Jürgen Basedow, Exclusive Choice-of-Court Agreements as a Derogation from Imperative Norms, Tạp chí Max Planck
Private Law Research Paper, năm 2013, số 14 (1), tr. 17.
3 Nghị định 593/2008 của EU về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng.
4 Michael Bogdan, Concise Introduction to Eu Private International Law, Nxb. Europa Law Publishing, Đức, năm 2006,
tr. 122.
5 Bùi Thị Thu, Thống nhất hóa nguyên tắc chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng theo Quy tắc Rome I, hướng hoàn thiện
cho pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 10, năm 2013, tr. 48.
qua các quy định khác điều chỉnh về các điều
kiện có hiệu lực của thoả thuận chọn luật tại
Nghị định Rome I cũng như giải thích của
Toà án Công lý Châu Âu (ECJ), yêu cầu về
mối liên hệ gắn bó có thể xảy ra trong các
trường hợp sau:
Thứ nhất, khoản 3 Điều 3 quy định:
“Nếu tại thời điểm ký kết hợp đồng, tất cả
các yếu tố liên quan đến vụ việc được xác
lập tại một quốc gia không phải là nơi có
luật áp dụng thì luật của quốc gia đó sẽ được
áp dụng bất kể thoả thuận của các bên”5.
Điều này có nghĩa là, khi tất cả các yếu tố
có liên quan đến quan hệ hợp đồng tại thời
điểm hợp đồng được ký như nơi cư trú, nơi
đặt trụ sở, nơi có tài sản là đối tượng của hợp
đồng đều toạ lạc tại cùng địa điểm với nơi
giao kết hợp đồng đó thì luật nơi giao kết
hợp đồng đó sẽ được áp dụng, bất kể giữa
các bên đã có thoả thuận chọn luật. Như vậy,
trong trường hợp này, nguồn luật có sự gắn
bó với tranh chấp sẽ được áp dụng thay cho
nguồn luật theo sự thoả thuận giữa các bên.
Thứ hai, theo quy định của Điều 9 và
Điều 21, kể cả các bên có thoả thuận chọn
luật áp dụng nhưng sự thoả thuận đó trái với
các điều khoản bắt buộc (mandatory rules)
và chính sách công (public policy hay còn
gọi là ordre public) trong pháp luật của các
quốc gia thành viên thì sự thoả thuận đó
cũng sẽ không được chấp nhận. Việc đặt ra
quy định này nhằm hướng đến việc bảo vệ
những lợi ích công cộng liên quan đến các
yếu tố về chính trị, kinh tế, xã hội của quốc
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
54 Số 12(340) T6/2017
gia có toà án thụ lý tranh chấp. Những điều
khoản bắt buộc trong pháp luật quốc nội của
các quốc gia thành viên có thể chỉ cho phép
các bên được quyền lựa chọn pháp luật theo
sự chỉ định cụ thể dựa trên yêu cầu về mối
liên hệ gắn bó với tranh chấp.
Thứ ba, nguồn luật theo sự thoả thuận
sẽ bị hạn chế trong quan hệ hợp đồng vận
chuyển và hợp đồng bảo hiểm6. Theo đó,
các bên trong tranh chấp chỉ được quyền lựa
chọn hệ thống pháp luật có sự kết nối nhất
định đối với tranh chấp hoặc các bên trong
tranh chấp theo sự liệt kê của Nghị định. Cụ
thể, đối với hợp đồng vận chuyển, các bên
chỉ được quyền thoả thuận lựa chọn pháp
luật nơi cư trú của bên thuê vận chuyển hoặc
pháp luật của nước nơi bên vận chuyển cư
trú, hoặc pháp luật của nước nơi bên vận
chuyển có trung tâm quản lý hành chính,
hoặc pháp luật của nước nơi hàng hoá được
chuyển đi, hoặc pháp luật của nước nơi hàng
hoá được chuyển đến. Đối với hợp đồng bảo
hiểm, các bên chỉ được thỏa thuận chọn luật
áp dụng là pháp luật của quốc gia thành viên
nơi mà rủi ro xảy ra vào thời điểm hợp đồng
được ký kết, hoặc pháp luật của quốc gia nơi
bên mua bảo hiểm cư trú, hoặc đối với bảo
hiểm nhân thọ, pháp luật của quốc gia thành
viên nơi bên mua bảo hiểm là công dân.
Thứ tư, đối với hợp đồng tiêu dùng và
hợp đồng lao động, mặc dù không giới hạn
nguồn luật được lựa chọn phải có sự gắn kết
nhất định với tranh chấp hoặc các bên tranh
chấp, nhưng với mục tiêu bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng và người lao động, nếu
6 Theo Điều 5 và Điều 7 Nghị định Rome I.
7 Theo Điều 6 và Điều 8 Nghị định Rome I.
8 Nghị định 864/2007 của EU về luật áp dụng đối với nghĩa vụ ngoài hợp đồng.
9 Bành Quốc Tuấn, Thoả thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong pháp luật quốc tế và
Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số 01, năm 2017, tr. 74.
hậu quả của việc áp dụng nguồn luật được
lựa chọn lại làm mất đi sự bảo hộ đối với
người tiêu dùng, người lao động thì sự thỏa
thuận sẽ không được công nhận7.
Những nội dung trên cũng được diễn
đạt tương tự cho việc giới hạn quyền chọn
luật áp dụng đối với các tranh chấp ngoài
hợp đồng như bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, hưởng lợi không có căn cứ pháp luật,
trách nhiệm tiền hợp đồng hoặc thực hiện
công việc không có uỷ quyền tại khoản 2
Điều 14 Nghị định Rome II8.
Tóm lại, pháp luật EU không đặt ra
bất kỳ yêu cầu nào về mối liên hệ gắn bó
giữa nguồn luật được lựa chọn bởi các bên
trong thoả thuận với các yếu tố của tranh
chấp. Tuy nhiên, bằng cách đặt ra các giới
hạn khác nhau liên quan đến nguồn luật
được lựa chọn, chúng ta có thể thấy yêu cầu
mang tính gián tiếp đối với một số loại hợp
đồng đặc thù như hợp đồng vận chuyển, hợp
đồng tiêu dùng và hợp đồng bảo hiểm. Các
yêu cầu này được đặt ra nhằm hướng đến
việc tăng cường sự can thiệp của nhà nước
trong việc bảo vệ lợi ích cho các bên yếu
thế9. Hoặc yêu cầu về mối liên hệ gắn bó
sẽ có khả năng xuất hiện khi áp dụng các
điều khoản bắt buộc trong pháp luật của các
quốc gia thành viên mà pháp luật của các
quốc gia đó lại có yêu cầu bắt buộc về mối
liên hệ gắn bó. Như vậy, với những giới hạn
của quyền thoả thuận chọn luật giữa các bên
nhằm bảo vệ lợi ích công và cả các lợi ích tư
(bảo vệ lợi ích của các chủ thể yếu thế), có
thể thấy, mối liên hệ gắn bó giữa nguồn luật
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
55Số 12(340) T6/2017
được lựa chọn với các yếu tố của tranh chấp
cũng được xem là một yêu cầu cụ thể để cho
một thoả thuận chọn luật được chấp nhận,
mặc dù, yêu cầu này chỉ mang tính gián tiếp.
Đối với các quốc gia thành viên EU,
quy định tương tự như trên cũng sẽ được
tìm thấy trong pháp luật của một số quốc gia
nhằm điều chỉnh mối quan hệ trong lĩnh vực
TPQT với bên thứ ba, không đến từ các quốc
gia thành viên EU như Điều 27 của Đạo luật
Xung đột pháp luật Đức (EGBGB)10, Điều
32 Luật TPQT Estonia11, khoản 5 Điều 10
BLDS Tây Ban Nha12 Tuy nhiên, một số
quốc gia thành viên lại có quy định khác,
với việc yêu cầu về mối liên hệ gắn bó nhất
định với các yếu tố của tranh chấp. Cụ thể,
tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật TPQT 2004 của
Bỉ, điều khoản giải thoát (escape clause) quy
định: trong một tranh chấp, nếu nguồn luật
được xác định theo pháp luật hiện hành của
Bỉ chỉ có sự kết nối rất nhỏ với quốc gia có
pháp luật được chỉ định, nhưng lại có sự kết
nối chặt chẽ với một quốc gia khác thì pháp
luật của quốc gia khác đó sẽ được áp dụng.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định trên sẽ
được loại trừ trong trường hợp nguồn luật
được xác định dựa trên thoả thuận lựa chọn
của các bên tranh chấp theo quy định tại
10 Các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật được quy định từ Điều 3 đến Điều 46 của the Einführungsgesetz zum
Bürgerlichen Gesetzbuche (EGBGB - Civil Code (Introduction) Act, tạm dịch là Đạo luật Xung đột pháp luật của Đức),
được ban hành năm 1994, sửa đổi bổ sung lần gần nhất 2015. Nguồn: website Bộ Tư pháp và Bảo vệ Người tiêu dùng
của Đức (truy cập ngày 18/3/2017);
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2015, các quy định về giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến nghĩa vụ hợp đồng từ điều
27 - 37 của Đạo luật này đã bị huỷ bỏ. Thay vào đó, sẽ áp dụng trực tiếp các quy định của Nghị định Rome I. Xem thêm:
Applicable law - Germany tại website:
(truy cập ngày 02/11/2016).
11 Luật TPQT Estonia ban hành năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2004, 2009, 2016.
12 Được ban hành năm 1889, sửa đổi bổ sung lần gần nhất vào năm 2011.
13 Mặc dù Anh là thành viên EU nhưng các nguyên tắc nằm trong Nghị định Rome I và Rome II chỉ có giá trị ràng buộc
khi tranh chấp dân sự, thương mại có yếu tố nước phát sinh giữa các chủ thể Anh với các chủ thể đến từ các quốc gia
thành viên EU khác. Còn lại, Anh vẫn có các nguyên tắc TPQT riêng để điều chỉnh quan hệ phát sinh với các chủ thể
đến từ các quốc gia không phải là thành viên EU. Đặc biệt, với việc rút khỏi EU trong tương lai, các nguyên tắc này có
thể trở thành các nguyên tắc chung cho TPQT của Anh.
khoản 2 của điều khoản này. Như vậy, với
cách quy định tại Điều 19, có thể thấy, một
cách gián tiếp, pháp luật Bỉ đã đặt ra yêu
cầu về sự kết nối của nguồn luật được xác
định trong trường hợp có sự thoả thuận giữa
các bên là phải có sự kết nối nhất định (dù
là nhỏ) với các yếu tố của tranh chấp. Hoặc
theo khoản 1 Điều 53 Luật TPQT Estonia
quy định, đối với các tranh chấp ngoài hợp
đồng, nếu xuất hiện nguồn luật có sự kết nối
chặt chẽ hơn so với các nguồn luật được xác
định theo đạo luật về TPQT thì nguồn luật
có sự kết nối hơn sẽ được áp dụng.
2. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó”
trong thoả thuận chọn luật theo pháp luật
Anh và một số quốc gia bị ảnh hưởng từ
pháp luật Anh
Theo những án lệ sớm nhất của Anh
được công bố13, sự đồng thuận của các bên
về nguồn luật nơi hợp đồng được giao kết
bắt đầu được ghi nhận vào khoảng giữa thế
kỷ 18. Vào giữa thế kỷ 19, pháp luật của nơi
ký kết hợp đồng được tái khẳng định trong
sự đồng thuận của các bên nhằm giải quyết
các vấn đề của hợp đồng. Tuy nhiên, cũng
trong thời gian này, Toà án Anh bắt đầu tìm
kiếm những câu trả lời liên quan đến sự thể
hiện rõ ràng của một sự thoả thuận hay một
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 12(340) T6/2017
sự ngầm định của các bên, với ý định hướng
đến một nguồn luật cụ thể nhằm điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng giữa họ. Vào khoảng
những năm 30 của thế kỷ 20, vấn đề thoả
thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp
đồng được chính thức thừa nhận trong pháp
luật Anh bằng nguyên tắc pháp lý được ra
đời từ án lệ Vita Food Products Inc v Unus
Shipping Co Ltd [1939] AC 27714 (thường
được gọi tắt là Nguyên tắc Vita Food).
Vụ việc liên quan đến vận chuyển
hàng hoá bằng đường biển từ Newfoundland
(Canada) đến New York (Hoa Kỳ). Trong
vận đơn được cấp phát tại Newfoundland
có quy định rõ ràng về việc áp dụng luật
của Anh và một số nội dung để loại trừ
nghĩa vụ của bên chuyên chở. Đạo luật về
chuyên chở hàng hoá bằng đường biển của
Newfoundland và Hoa Kỳ đều quy định một
nghĩa vụ tối thiểu dành cho nhà chuyên chở,
do đó Toà án đã xác định điều khoản loại
trừ trong Vận đơn là không có giá trị. Tuy
nhiên, Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh, dựa
trên sự tôn trọng quyền thoả thuận giữa các
bên, đã tuyên bố điều khoản loại trừ vẫn có
giá trị và luật của Anh sẽ được áp dụng trong
vụ việc này, mặc dù sự kết nối giữa yếu tố
lãnh thổ của Anh trong quan hệ hợp đồng
này là hầu như không có. Cụ thể, các thẩm
phán cho rằng, hợp đồng có thể được điều
chỉnh bởi nguồn luật do các bên lựa chọn,
trừ khi sự lựa chọn đó là không hợp pháp
hoặc gian lận và không có lý do để từ chối
dựa trên các cơ sở về chính sách công. Điều
này có nghĩa là một thoả thuận chọn luật áp
dụng của các bên tranh chấp sẽ được pháp
luật Anh chấp nhận khi nó thoả mãn được
14 Xem: George A. Zaphiriou, Choice of Forum and Choice of Law Clauses in International Commercial Agreements, Tạp
chí Maryland Journal of International Law, số 3 (2), năm 1978, tr. 312.
15 Nguồn: (truy cập ngày 02/5/2016).
ba điều kiện: hợp pháp, không gian lận và
không trái với chính sách công.
Án lệ nói trên đã có ảnh hưởng rất
lớn đến quyền thoả thuận chọn luật áp
dụng cho hợp đồng tại các nước thuộc Khối
Thịnh vượng chung, trong đó có Singapore.
Singapore cũng không có bất kỳ quy định
nào để từ chối nguồn luật theo sự thoả thuận
của các bên nếu nó không có sự gắn bó với
tranh chấp15. Vào khoảng giữa thế kỷ 20,
cũng có một số quan điểm cho rằng, cần tính
đến mối quan hệ gắn bó giữa các yếu tố của
tranh chấp với yếu tố lãnh thổ của quốc gia
có hệ thống pháp luật được lựa chọn vì như
thế sẽ tránh được tình trạng các bên lẩn tránh
áp dụng pháp luật Singapore. Tuy nhiên
quan điểm này đã không được thừa nhận và
bị bác bỏ bằng tuyên bố mạnh mẽ của Thẩm
phán Toà án Phúc thẩm Singapore trong án
lệ Peh Teck Quee v Bayerische Landesbank
Girozentrale, [2000] 1 SLR 148 (CA) khi
chính thức thừa nhận và xác định lại nội
dung của nguyên tắc Vita Food bằng ba
điều kiện quan trọng để xác định liệu rằng
một thoả thuận chọn luật giữa các bên có có
mang tính hợp pháp hay không:
(i). Việc lựa chọn luật đó không nhằm
lẩn tránh pháp luật với sự chủ đích của các
bên hoặc thậm chí là do yếu tố khách quan;
(ii). Nguồn luật được các bên lựa chọn
mang tính hợp pháp và không trái với chính
sách công cơ bản của Singapore;
(iii). Việc lựa chọn luật không rơi vào
trường hợp có sự gian dối trong thoả thuận.
Việc bác bỏ quan điểm yêu cầu về mối
quan hệ gắn bó còn xuất phát từ việc các
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 12(340) T6/2017
thẩm phán cho rằng, quyền tự do thoả thuận
giữa các bên phải được ưu tiên, chỉ khi nào
thoả thuận chọn luật không đáp ứng được
ba điều kiện trên thì mới xem xét đến nguồn
luật của quốc gia có mối quan hệ gắn bó mật
thiết và thật sự với tranh chấp hoặc với các
bên trong tranh chấp16.
Mặc dù vậy, để chứng minh được thoả
thuận chọn luật áp dụng giữa các bên trong
tranh chấp có rơi vào một trong ba trường
hợp trên hay không thì Toà án Anh lẫn Toà
án Singapore cũng phải xác định mối quan
hệ gắn bó giữa yếu tố lãnh thổ và các yếu
tố cụ thể của tranh chấp, đặc biệt là vấn đề
lẩn tránh pháp luật hay có sự gian dối trong
thoả thuận.
3. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó”
trong thoả thuận chọn luật theo pháp luật
Hoa Kỳ
Theo điểm a, Khoản 2 Điều 187 của
The Second Restatement of Conflict of
Laws 197117 và Mục 1.301 Bộ luật Thương
mại thống nhất của Hoa Kỳ (UCC) - bản
điều chỉnh năm 200118, thoả thuận chọn luật
áp dụng giữa các bên phải đảm bảo rằng
tiểu bang hoặc quốc gia có pháp luật được
lựa chọn phải có mối liên hệ thiết yếu với
các bên hoặc phải có cơ sở hợp lý cho sự
lựa chọn đó. Các mối liên hệ thiết yếu này
được thể hiện thông qua các yếu tố gắn kết
về địa lý và tình tiết cụ thể của tranh chấp.
16 Yeo Tiong Min, Choice of Law Agreements, Tạp chí Singapore Academy of Law Journal, số 20, năm 2008, tr. 726.
17 Trong khoa học pháp lý Hoa Kỳ, Restatement of Law là tập hợp các chuyên luận về các vấn đề pháp lý nhằm mục đích
thông báo cho thẩm phán cũng như các luật sư về các nguyên tắc chung của hệ thống án lệ. Các tuyển tập này chủ yếu
là tập hợp những học thuyết pháp lý phổ biến đã được áp dụng qua thời gian tại các tòa án Hoa Kỳ. Restatement không
có giá trị ràng buộc các bang phải tuân thủ, tuy nhiên những học thuyết được trình bày mang tính thuyết phục cao vì
được xây dựng bởi kinh nghiệm của các giáo sư, luật sư và thẩm phán, do đó được sử dụng rộng rãi và bao phủ gần hết
các lĩnh vực của Common Law. Trong lĩnh vực xung đột pháp luật, Hoa Kỳ đã công bố hai phiên bản Restatement: The
First Restatement of Conflict of Laws được công bố vào năm 1934; The Second Restatement of Conflict of Laws được
công bố năm 1971. Xem thêm: Lê Thị Nam Giang & Trần Ngọc Hà, Từ kinh nghiệm của pháp luật các nước, kiến nghị
sửa đổi Điều 769 BLDS năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01, năm 2014, tr. 55.
18 Nguồn: https://www.law.cornell.edu/ucc/1/1-301 (truy cập ngày 07/11/2016).
Điều này có nghĩa rằng, phải tồn tại một
mối liên hệ nhất định giữa tiểu bang hoặc
quốc gia có pháp luật được lựa chọn với bên
hoặc các bên tranh chấp, ví dụ như tiểu bang
hay quốc gia có pháp luật được lựa chọn là
nơi ký kết hoặc thực hiện hợp đồng, hoặc là
nơi cư trú hoặc là nơi các bên có hoạt động
thương mại chính... Sự giới hạn này được
đặt ra nhằm ngăn chặn các bên trong việc
cố tình lẩn tránh pháp luật lẽ ra phải được
áp dụng đối với họ. Ví dụ, dựa theo án lệ
Countour Design, Inc. v. Chance Mold Steel
Co., Ltd., 693 F.3d 102 (1st Cir. 2012), Toà
Phúc thẩm Số 01 của Hoa Kỳ đã từ chối thoả
thuận chọn luật áp dụng của các bên chỉ vì
mối quan hệ gắn bó duy nhất của nguồn luật
được các bên thoả thuận với tranh chấp và
các bên trong tranh chấp là bản thảo hợp
đồng được soạn tại tiểu bang đó.
Lưu ý rằng, các điều khoản trên cũng
cho phép các bên được chọn luật của tiểu
bang hoặc quốc gia không có mối liên hệ
mật thiết, miễn là họ có thể chứng minh
được “cơ sở hợp lý khác” của việc lựa chọn
như nguồn luật được lựa chọn là nguồn luật
quen thuộc đã được các bên tiến hành lựa
chọn nhiều lần trong thực tiễn quan hệ giữa
các bên. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể thực
hiện được với một vai trò rất lớn của các
thẩm phán trong quá trình giải thích và vận
dụng án lệ vào trong các vụ việc khi chúng
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 12(340) T6/2017
có tình tiết tương tự.
Thực tiễn pháp luật Hoa Kỳ cho thấy,
yêu cầu về mối liên hệ gắn bó trong các vụ
tranh chấp có yếu tố nước ngoài không đòi
hỏi tính chặt chẽ và mật thiết nhiều bằng các
vụ việc nội địa. Điều này xuất phát từ vấn
đề tôn trọng quyền tự định đoạt giữa các bên
trong tranh chấp, cũng như tiếp nhận cách
quy định từ pháp luật EU19. Hơn nữa, hiện
nay, với xu hướng ngày càng đề cao nguyên
tắc tự định đoạt và quyền tự do ý chí của các
bên, một số tiểu bang của Hoa Kỳ đã không
còn đặt ra yêu cầu về mối liên hệ gắn bó
của nguồn luật được lựa chọn với tranh chấp
hoặc các bên tranh chấp mà cho phép các
bên được quyền tự do lựa chọn luật áp dụng
cho quan hệ hợp đồng giữa các bên, điển
hình như tiểu bang Oregon và Louisiana.
Tuy nhiên, một số tiểu bang, mặc dù cũng
quy định theo hướng đó, nhưng lại giới hạn
đối với loại vụ việc. Ví dụ, các bên tranh
chấp được tự do thoả thuận chọn luật áp
dụng miễn là các tranh chấp đó có giá trị
dưới 250.000 USD, quy định này được tìm
thấy trong pháp luật của tiểu bang California,
Illinois và New York, hoặc dưới 1.000.000
USD đối với tiểu bang Texas20
4. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó”
trong thoả thuận chọn luật theo pháp luật
một số quốc gia Châu Á
4.1. Theo pháp luật Trung Quốc
Quyền tự do thoả thuận chọn luật áp
dụng của các bên trong hợp đồng được pháp
luật Trung Quốc ghi nhận cụ thể tại Điều
41 Luật về Xung đột pháp luật năm 2010
19 Ruhl, Giesela, Party Autonomy in the Private International Law of Contracts: Transatlantic Convergence and Economic
Effiency,Tạp chí Comparative Research in Law & Political Economy, Canada, số 4 năm 2007, tr. 14-15. Nguồn: http://
digitalcommons.osgoode.yorku.ca/clpe/227 (truy cập ngày 18/3/2017).
20 Điều 3540 BLDS Louisiana, mục 120 Section 81 Revised Statutes của tiểu bang Oregon. Xem thêm: Ruhl, Giesela
(2007), tlđd.
(quy định này được kế thừa từ Điều 126 của
Luật Hợp đồng năm 1999). Theo đó, nguồn
luật theo sự thoả thuận giữa các bên sẽ được
ưu tiên áp dụng, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Nếu các bên không có thoả
thuận, nguồn luật được áp dụng sẽ là luật nơi
cư trú thường xuyên của bên thực hiện nghĩa
vụ chính của hợp đồng hoặc nguồn luật khác
có sự kết nối chặt chẽ nhất với quan hệ hợp
đồng đó. Điều này có nghĩa rằng, không có
bất kỳ một yêu cầu cụ thể nào liên quan đến
mối quan hệ gắn bó giữa nguồn luật được
lựa chọn với tranh chấp hoặc với các bên
trong tranh chấp. Tuy nhiên, theo Điều 42
của Đạo luật này, đối với hợp đồng tiêu
dùng, thì chỉ cho phép người tiêu dùng chọn
luật của một quốc gia cụ thể, là nơi hàng hoá
hoặc dịch vụ được cung cấp. Quy định này
được đặt ra nhằm hướng đến bảo vệ quyền
lợi cho người tiêu dùng, được xem là “chủ
thể yếu thế” (weakness party) trong quan hệ
hợp đồng với bên cung cấp hàng hoá hoặc
dịch vụ.
Mặc dù không tìm thấy quy định liên
quan đến yêu cầu về mối quan hệ gắn bó,
tuy nhiên, căn cứ quy định của các Điều 4,
5 Luật về Xung đột pháp luật năm 2010,
nguồn luật theo sự thoả thuận giữa các bên
có thể bị từ chối nếu sự thoả thuận đó trái
với các điều khoản bắt buộc điều chỉnh về
các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các
lợi ích công cộng - xã hội của Trung Quốc.
Hơn nữa, mặc dù pháp luật quy định nguồn
luật thể hiện sự kết nối gắn bó với hợp đồng
chỉ được áp dụng khi các bên không lựa
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 12(340) T6/2017
chọn luật áp dụng hoặc sự lựa chọn là vô
hiệu. Tuy nhiên, Tòa án Trung Quốc đôi
khi bỏ qua điều kiện tiên quyết này để ưu
tiên nguồn luật có sự gắn bó hơn. Điển hình
như vụ: Global Promotion Business Ltd v.
Huahan Jiayi Business & Trade Ltd and
YANG Pixiang, mặc dù giữa hai bên đã thoả
thuận chọn luật áp dụng nhưng Toà án lại áp
dụng nguồn luật có tính gắn bó chặt chẽ nhất
với hợp đồng, từ chối áp dụng nguồn luật do
các bên thoả thuận; hoặc trong vụ Beijing
Xuanlian Food Ltd v. Beijing Branch of
China Bank Co., Ltd and Youli Bank Co.,
Ltd, Toà án lại dùng luật của nơi có sự gắn
bó chặt chẽ nhất với hợp đồng để xác định
tính hiệu lực của thoả thuận chọn luật áp
dụng21. Đây có thể xem là trường hợp gián
tiếp từ chối áp dụng nguồn luật theo sự thoả
thuận để áp dụng nguồn luật thể hiện tính
gắn bó nhất đối với quan hệ hợp đồng.
4.2. Theo pháp luật Thái Lan
Theo pháp luật Thái Lan, nguyên tắc
tự định đoạt giữa các bên thông qua quyền
thoả thuận chọn luật nhằm áp dụng trong các
vấn đề liên quan đến nội dung của hợp đồng
được xem là nguyên tắc ưu tiên hàng đầu
được thừa nhận trong Luật Xung đột Thái
Lan ban hành năm 1938. Điều 13 của đạo
luật này quy định, câu hỏi về luật áp dụng
đối với việc xem xét các yếu tố cơ bản hoặc
hiệu lực của hợp đồng sẽ được xác định bởi
ý định của các bên có liên quan. Quy định
21 Shuhong Yu, Yongping Xiao & Baoshi Wang, The Closest Connection Doctrine in the Conflict of Laws in China, Tạp
chí Chinese Journal of International Law, Anh, số 8 (2), năm 2009, tr. 423-439.
Nguồn: https://academic.oup.com/chinesejil/article-lookup/doi/10.1093/chinesejil/jmp018 (truy cập ngày 19/3/2017).
22 Khoản 1 Điều 683 BLDS 2015 quy định: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng
đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này”
23 Điều 686 BLDS 2015 quy định: “Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc thực hiện công việc
không có ủy quyền”
24 Khoản 1 Điều 687 BLDS 2015 quy định: “Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng”
25 Bộ Tư pháp (2015), “Bản Thuyết minh Dự thảo BLDS (sửa đổi)”, tr. 84.
này thể hiện sự tôn trọng quyền tự do giao
kết hợp đồng của các bên và nó đã trở thành
nguyên tắc phổ biến hiện nay trên thế giới.
Mặc dù pháp luật không đặt ra yêu cầu về
tính gắn bó của nguồn luật được lựa chọn,
nhưng trên thực tế, hệ thống pháp luật được
các bên lựa chọn sẽ phải là pháp luật của
nước có sự kết nối nhất định với hợp đồng.
Nếu không, sẽ khó được Toà án Thái Lan
chấp nhận như là có sự lựa chọn mang tính
ngầm định hay từ ý định của các bên.
5. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Quyền thoả thuận chọn luật áp dụng
trong việc giải quyết các tranh chấp dân
sự có yếu tố nước ngoài được quy định tại
khoản 2 Điều 664 Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 2015: “Trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên
hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có
quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được
xác định theo lựa chọn của các bên”. Quyền
thoả thuận này không chỉ được chấp nhận
trong lĩnh vực hợp đồng22, mà còn được mở
rộng cho cả các tranh chấp ngoài hợp đồng
như thực hiện công việc không có uỷ quyền23
và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng24 trên
cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm lập pháp
của Nhật Bản, Thái Lan, Nga và EU25. Bên
cạnh đó, các nguồn luật chuyên ngành cũng
có những quy định nhằm khẳng định quyền
thoả thuận chọn luật áp dụng cho các quan
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 12(340) T6/2017
hệ đặc thù có yếu tố nước ngoài26.
Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật
kể trên, chỉ tìm thấy được một số ít điều kiện
liên quan đến yếu tố chủ thể hoặc phạm vi
của sự thoả thuận, còn lại hầu như không
tồn tại bất kỳ quy định cụ thể nào khác để
điều chỉnh về điều kiện có hiệu lực của thoả
thuận, đặc biệt là điều kiện liên quan đến
mối liên hệ gắn bó của nguồn luật được lựa
chọn với tranh chấp hoặc với các bên trong
tranh chấp, trừ các tranh chấp liên quan đến
hợp đồng tiêu dùng và hợp đồng lao động.
Điều này có nghĩa rằng, các bên hoàn toàn
có thể thoả thuận bất kỳ nguồn luật nước
nào để điều chỉnh quan hệ hợp đồng hoặc
ngoài hợp đồng, kể cả nguồn luật của quốc
gia không có bất kỳ mối liên hệ cụ thể với
hợp đồng hoặc quan hệ ngoài hợp đồng có
tranh chấp. Điều này có thể gây ra những
hiện tượng mang tính tiêu cực trong quá
trình giải quyết tranh chấp như vấn đề lẩn
tránh pháp luật hoặc nguồn luật theo sự thoả
thuận mang tính áp đặt từ phía đối tác nước
ngoài và phía Việt Nam buộc phải chấp nhận
vì mong muốn hợp đồng được ký kết một
cách nhanh chóng
Nghiên cứu pháp luật các nước về vấn
đề này cho thấy, mặc dù có những cách thức
khác nhau trong việc quy định về mối liên
hệ gắn bó giữa nguồn luật được lựa chọn với
tranh chấp hoặc các bên trong tranh chấp,
nhưng xét cho cùng đều hướng đến việc ràng
26 Điều 5 Luật Thương mại 2005 quy định quyền chọn luật của các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài;
Khoản 4 Điều 4 Luật Đầu tư 2014 cho phép các bên chọn luật áp dụng đối với các vấn đề hợp đồng trong đó có ít nhất
một bên tham gia là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này; Khoản 2
Điều 4 Bộ luật Hàng hải 2005 cho phép các bên trong hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải được quyền lựa chọn
luật áp dụng; Khoản 3 Điều 4 Luật Chuyển giao Công nghệ năm 2006 cho phép các bên được quyền thoả thuận chọn
luật trong phạm vi hợp đồng chuyển giao công nghệ có yếu tố nước ngoài...
27 Theo tính toán của Giáo sư Symeon C. Symeonides, hiện nay, nếu tính luôn EU và các quốc gia thành viên, có 52/94 quốc
gia có quy định về sự ràng buộc bởi các điều khoản bắt buộc. Xem: Symeon C. Symeonides, Codifying Choice of Law
Around the World - An International Comparative Analysis, Nxb. Oxford Unviersity Press, Anh, năm 2014, tr. 148, 158.
buộc điều kiện này theo hai cách thức trực
tiếp hoặc gián tiếp. Cách thức quy định trực
tiếp có thể tìm thấy trong các án lệ của Hoa
Kỳ, Thái Lan hoặc gián tiếp như EU cùng
các nước thành viên như Bỉ, Đức, Estonia,
Tây Ban Nha hoặc Singapore, Trung Quốc...
Cách thức quy định trực tiếp mang tính
rõ ràng, thông qua sự ràng buộc bằng các
quy định của pháp luật và án lệ. Còn đối
với cách quy định gián tiếp, các quốc gia
thường thực hiện cách thức này thông qua
việc quy định về sự tuân thủ bắt buộc các
điều khoản bắt buộc (mandatory provisions
hoặc mandatory rules) trong luật quốc nội,
cụ thể như Điều 9 của Nghị định Rome I,
Điều 16 Nghị định Rome II, khoản 3 Điều
32 Luật TPQT Estonia, Điều 20 Bộ luật
TPQT Bỉ, Điều 4 Luật Xung đột pháp luật
Trung Quốc27 Điều này xuất phát từ quan
điểm cho rằng, nếu quyền thoả thuận chọn
luật của các bên được tôn trọng tuyệt đối thì
những giá trị mà các điều khoản bắt buộc
được quốc gia quy định sẽ không thể phát
huy được mục đích của mình. Lưu ý rằng,
các điều khoản bắt buộc là các điều khoản
có liên quan mật thiết đến các lợi ích công
cộng, về vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội gắn
với yếu tố chủ quyền quốc gia và mang tính
hướng nội, được áp dụng theo chiều hướng
tích cực để bảo vệ các giá trị công bằng, đạo
đức và trật tự công cộng, bảo vệ lợi ích nhà
nước đồng thời cũng bảo vệ các lợi ích tư
trong xã hội. Để xác định nội dung này, Toà
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 12(340) T6/2017
án thường phải xem xét đến ý định và mục
đích của những giá trị mà nhà nước muốn
bảo vệ trong các đạo luật28.
Pháp luật Việt Nam hầu như không
điều chỉnh về vấn đề này mà chỉ đề cập đến
“các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”. Cụ thể, theo quy định của điểm a,
khoản 1 Điều 670 BLDS năm 2015, nếu hậu
quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài
được các bên lựa chọn trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp
luật nước ngoài đó sẽ không được áp dụng.
Vậy có thể dùng điều khoản này với nội
hàm tương tự như các điều khoản bắt buộc
hay không? Cho đến thời điểm hiện nay, chỉ
duy nhất Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao về Hướng dẫn thi hành một số quy
định Luật Trọng tài thương mại có đề cập
đến “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam”. Tuy nhiên, Nghị quyết này vẫn
chưa làm rõ nội hàm của “các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Bên cạnh
đó, Nghị quyết 01 chỉ có giá trị áp dụng cho
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài, không có
giá trị chung cho việc giải quyết các tranh
chấp khác và thực tiễn xét xử của Toà án
cũng chưa từng nhắc đến việc áp dụng tương
tự pháp luật cho trường hợp này. Ở đây cũng
lưu ý rằng, nội dung của các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Việt Nam hay trật tự
công (public order), chính sách công (public
policy) là khái niệm liên quan đến chính
sách quốc gia, mang tính hướng ngoại, được
28 Nygh, Peter, Autonomy in International Contracts, Nxb. Oxford University Press, Anh, năm 1999, tr. 29.
29 Franco Ferrari & Stefan Leibe (eds), Rome I Regulation – The Law Applicable to Contractual Obligations in Europe,
Nxb. European Law Publishers, năm 2009, tr. 297, 298.
30 Theo tính toán của Giáo sư Symeon C. Symeonides, hiện nay, ngoài EU và các quốc gia thành viên, có khoảng trên 40
quốc gia không quy định trực tiếp về yêu cầu mối liên hệ gắn bó giữa nguồn luật được lựa chọn với các yếu tố liên quan
đến tranh chấp. Xem: Symeon C. Symeonides (2014), tlđd, tr. 120.
áp dụng với chiều hướng nhằm hạn chế áp
dụng pháp luật nước ngoài29. Nếu xét về
trình tự xác định tính hợp pháp của luật
nước ngoài được lựa chọn thì việc xem xét
thoả thuận có vi phạm các điều khoản bắt
buộc hay không sẽ được các thẩm phán xác
định trước tiên, nếu không, các thẩm phán
mới dựa trên các yếu tố liên quan đến chính
sách công (trật tự công) để xác định. Do đó,
không thể sử dụng điểm a, khoản 1 Điều 670
BLDS năm 2015 với ý nghĩa bao trùm cho
khái niệm các điều khoản bắt buộc.
Bên cạnh đó, mặc dù, xu thế chung
của các nước đang hướng đến vấn đề mở
rộng tối đa quyền tự do ý chí của các bên30,
nhưng điều đó hoàn toàn không phù hợp
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Việc thừa
nhận sự ràng buộc về mối liên hệ gắn bó
giữa các yếu tố của tranh chấp với pháp luật
nước ngoài được các bên lựa chọn được cho
là cần thiết dựa trên một số cơ sở sau:
- Vị trí yếu thế cũng như trình độ hạn
chế của cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam
khi tham gia các giao dịch với đối tác nước
ngoài: Khi tham gia vào các giao dịch có
yếu tố nước ngoài, các cá nhân, cơ quan, tổ
chức của Việt Nam thường ở vị trí yếu thế,
cơ hội để đàm phán mang tính bình đẳng với
các đối tác nước ngoài rất hiếm, mặc dù về
nguyên tắc, các bên đều bình đẳng với nhau
trong việc thiết lập hợp đồng. Điều này xuất
phát từ áp lực để ký được hợp đồng, các đối
tác Việt Nam đôi khi phải chấp nhận nguồn
luật theo yêu cầu từ phía nước ngoài, mà
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 12(340) T6/2017
nguồn luật này thường là nguồn luật quen
thuộc đối với họ, hướng đến bảo vệ quyền
và lợi ích của họ nhiều nhất, thậm chí có thể
không có bất kỳ sự kết nối nào với yếu tố
lãnh thổ của quốc gia có pháp luật được lựa
chọn. Đây là một thực tế khá phổ biến từ
trước đến nay ở Việt Nam, đặc biệt thường
xảy ra trong hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế, vận tải hàng hóa quốc tế của các
doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, việc quy
định về mối liên hệ gắn bó này, ở một mức
độ nào đó, pháp luật Việt Nam sẽ phát huy
được vai trò bảo vệ cho các cá nhân, cơ
quan, tổ chức Việt Nam khi thực hiện các
giao dịch với đối tác nước ngoài.
- Trình độ của đội ngũ giải quyết tranh
chấp hiện nay còn những hạn chế nhất định,
đặc biệt về khả năng ngoại ngữ, để có thể
hiểu và áp dụng pháp luật nước ngoài theo
sự thoả thuận giữa các bên. Thực tiễn pháp
lý Việt Nam trong thời gian qua cho thấy,
hầu như rất hiếm trường hợp pháp luật nước
ngoài được áp dụng. Tòa án Việt Nam chỉ áp
dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh
chấp mà không viện dẫn lý do tại sao lại áp
dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết các
tranh chấp đó31. Hơn nữa, mặc dù theo quy
định tại khoản 1 Điều 481 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 có quy định về nghĩa vụ
của các bên trong trường hợp có thoả thuận
chọn luật, nhưng nghĩa vụ đó chỉ liên quan
đến việc cung cấp pháp luật nước ngoài,
còn việc hiểu và giải thích nội dung pháp
luật nước ngoài lại thuộc về thẩm phán, dựa
trên các nguyên tắc được quy định từ Điều
664 - 670 BLDS năm 2015. Điều này có thể
dẫn đến sự lúng túng trong việc tiếp cận xác
định nội dung của pháp luật nước ngoài làm
31 Nguyễn Khánh Ngọc và một số tác giả, Báo cáo tóm tắt đề tài: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật TPQT, Đề tài
Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, năm 2015, tr. 19.
cơ sở giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài. Chính những yếu tố này có thể
khiến cho quy định tưởng chừng như rất cởi
mở trong việc tôn trọng quyền tự định đoạt
của các bên tranh chấp lại không được thực
thi trên thực tế.
- Hạn chế được vấn đề lẩn tránh pháp
luật: Điều này có thể xảy ra khi các bên cố
tình lẩn tránh pháp luật Việt Nam, lựa chọn
pháp luật nước ngoài nhằm trốn tránh một
nghĩa vụ nào đó. Bởi lẽ, có những trường
hợp, nếu các bên không có thoả thuận chọn
luật thì pháp luật Việt Nam sẽ phải được áp
dụng và khi đó, có thể sẽ làm phát sinh nghĩa
vụ của một trong hai bên tranh chấp hoặc cả
hai bên tranh chấp với Nhà nước Việt Nam
hoặc với bên thứ ba có quyền và lợi ích
hợp pháp.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho
rằng, việc ràng buộc về mối liên hệ gắn bó
(dù là nhỏ) giữa nguồn luật được lựa chọn
với tranh chấp hoặc các bên trong tranh chấp
là điều cần thiết cho Việt Nam hiện nay. Sự
ràng buộc này sẽ được thực hiện thông qua
việc tuyên bố các thoả thuận chọn luật phải
đảm bảo không được trái với các nguyên tắc
cơ bản trong pháp luật Việt Nam và đặc biệt
là các điều khoản bắt buộc theo pháp luật
Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh BLDS
năm 2015 vừa mới được triển khai thi hành,
việc sửa đổi là điều bất khả thi ngay tại thời
điểm này, do đó, vấn đề yêu cầu về mối liên
hệ gắn bó nên được trao cho Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao trong việc đưa
ra ý kiến hướng dẫn cho Toà án các cấp
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 12(340) T6/2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Minh Ngọc và một số tác giả
(2015), Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
trong điều kiện sửa đổi BLDS, Đề tài nghiên
cứu khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Felix Maultzsch, Party Autonomy
in European Private International
Law: Uniform Principle or Context-
Dependent Instrument? - “Parteiautonomie
im Internationalen Privat- und
Zivilverfahrensrecht” (bằng tiếng Đức)
trong tài liệu: J v Hein & G Rühl, Kohärenz
im Europäischen Internationalen Privat-
und Ver-fahrensrecht, Nxb Tübingen, Mohr
Siebeck, Đức, năm 2015.
3. Jürgen Basedow, Exclusive Choice-
of-Court Agreements as a Derogation from
Imperative Norms, Tạp chí Max Planck
Private Law Research Paper, năm 2013,
số 14 (1).
4. Michael Bogdan, Concise
Introduction to Eu Private International
Law, Nxb. Europa Law Publishing, Đức,
năm 2006.
5. Bùi Thị Thu, Thống nhất hóa
nguyên tắc chọn luật áp dụng điều chỉnh
hợp đồng theo Quy tắc Rome I, hướng hoàn
thiện cho pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật
học, số 10, năm 2013.
6. Bành Quốc Tuấn, Thoả thuận chọn
luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có yếu tố
nước ngoài trong pháp luật quốc tế và Việt
Nam, Tạp chí Luật học, Số 01, năm 2017.
7. George A. Zaphiriou, Choice of
Forum and Choice of Law Clauses in
International Commercial Agreements, Tạp
chí Maryland Journal of International Law,
Số 3 (2), năm 1978.
8. Yeo Tiong Min, Choice of Law
Agreements, Tạp chí Singapore Academy of
Law Journal, số 20, năm 2008.
9. Lê Thị Nam Giang & Trần Ngọc Hà,
Từ kinh nghiệm của pháp luật các nước,
kiến nghị sửa đổi Điều 769 BLDS năm
2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01,
năm 2014, tr. 55.
10. Ruhl, Giesela, Party Autonomy in
the Private International Law of Contracts:
Transatlantic Convergence and Economic
Effiency, Tạp chí Comparative Research in
Law & Political Economy, Canada, số 4,
năm 2007.
Nguồn:
osgoode.yorku.ca/clpe/227(truy cập ngày
18/3/2017).
11. Shuhong Yu, Yongping Xiao &
Baoshi Wang, The Closest Connection
Doctrine in the Conflict of Laws in China,
Tạp chí Chinese Journal of International
Law, Anh, số 8 (2), năm 2009.
12. Prasit Pivavatnapanich, Choice
of Law in Contract and Thai Private
International Law: A Comparative Study,
Tạp chí Law Journal of Thailand Bar
Society, số 7 (1), năm 2004.
13. Symeon C. Symeonides, Codifying
Choice of Law Around the World - An
International Comparative Analysis, Nxb.
Oxford Unviersity Press, Anh, năm 2014,
tr. 148, 158.
14. Nygh, Peter, Autonomy in
International Contracts, Nxb. Oxford
University Press, Anh, năm 1999, tr. 29.
15. Franco Ferrari & Stefan Leibe
(eds), Rome I Regulation - The Law
Applicable to Contractual Obligations in
Europe, Nxb. European Law Publishers,
năm 2009, tr. 297, 298.
16. Nguyễn Khánh Ngọc và một số tác
giả, Báo cáo tóm tắt đề tài: Cơ sở lý luận
và thực tiễn xây dựng Luật TPQT, Đề tài
Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp,
năm 2015.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 12(340) T6/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- yeu_cau_ve_moi_lien_he_gan_bo_trong_thoa_thuan_chon_luat_the.pdf