Bài giảng học phần Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do nhân dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở chỗ: - Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội- cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. - Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng chính phủ (nay gọi là chính phủ). - Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật. - Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân (thông qua Quốc hội do dân bầu ra).

doc51 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng học phần Tư Tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính Nhà nước ta. 3. Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ a. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức Tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập ra Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức của Nhà nước mới. Có được một Nhà nước hợp hiến thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân như vậy thì nước ta mới có cơ sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng Minh, mới có một quan hệ quốc tế bình đẳng, mới thiết lập được cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ của một Nhà nước pháp quyền hợp pháp. Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ngày 2-31946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta. b. Hoạt động quản lý Nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống - Quản lý Nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng nhất là Hiến pháp- đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản Hiến pháp 1946, 1959 đã để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới. - Theo Hồ Chí Minh, phải đưa Hiến pháp và pháp luật rồi nhưng không đưa được vào trong cuộc sống. Dân chủ đích thực bao giờ cũng gắn liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến Pháp và pháp luật. Các cơ quan Nhà nước phải gương mẫu chấp hành một cách nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. - Hồ Chí Minh cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn tới trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, biết thực hành dân chủ. - Trong việc thực thi Hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý cả hai mặt vừa có lý, vừa có tình, vừa nghiêm khắc vừa tăng cường các biện pháp giáo dục pháp luật. Hồ Chí Minh quan niệm pháp luật phải lấy chữ "Nhân” làm trọng, nghĩa là các chế định ngặt nghèo của luật pháp, từ bản Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước nhà đến các luật đều do con người và vì con người, vì hạnh phúc, tự do, ấm no của con người, vì sự nghiệp giải phóng con người. c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán bộ nói chung "là cái gốc của mọi công việc”, "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Để xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Theo Người đội ngũ này phải là những người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này được tổ chức hợp lý, có hiệu quả. Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu cơ bản sau để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: Một: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ này. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hai: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ với lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu, đội ngũ này phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý Nhà nước, do vậy phải được đào tạo và tự mình phải luôn luôn học hỏi. Ba: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Người nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lãng phí của công, phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục vụ quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Bốn: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, "thắng không kiêu, bại không nản”. Đó là những người sẵn sàng làm công bộc, làm đầy tớ của dân, những người cần, kiệm, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Năm: Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, bộ máy Nhà nước phải gọn nhẹ, có hiệu lực, phù hợp với từng giai đoạn để phục vụ đắc lực cho mục tiêu hoạt động của Nhà nước, tất cả vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của Tổ quốc của nhân dân, không vì lợi ích của cá nhân nào. Chức vụ, quyền hạn của cán bộ công chức trong bộ máy của Nhà nước là do dân ủy thác, ủy quyền để làm việc cho ích quốc lợi dân, không vì chủ nghĩa cá nhân. 4. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả a. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời việc làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ phải chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp bức, bóc lột nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những "ông quan cách mạng”. Hồ Chí Minh chỉ ra 6 căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Hồ Chí Minh nhắc nhở: "chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ "công bình chính trực” vào lòng ”. Hồ Chí Minh đã dùng những cụm từ "công bộc”, "đầy tớ” để chỉ trách nhiệm của người cán bộ công chức trong xây dựng Nhà nước mới- Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục: - Đặc quyền, đặc lợi. - Tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là "giặc nội xâm”, "giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người "lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiếnTội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. - "Tư túng”, "Chia rẽ”, "kiêu ngạo”. Những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. b. Tăng cường tính nghiêm minh của Pháp luật đi đôi đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp lụât với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử (kết hợp nhuần nhuyễn cả "đức trị” và "pháp trị”). III. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ về Nhà nước của dân do dân, vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ, Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học tập quán triệt tư tưởng này để xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần thiết. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước đó được xây dựng trên cơ sở lý luận nền tảng Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những điều kiện thực tế hiện nay của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản: a.Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. b. Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước. c. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Chương VII TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ 1. Khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh a. Định nghĩa về văn hoá 8- 1943, khi còn trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa về văn hoá. Định nghĩa của Người có rất nhiều điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hoá. Người viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng những nhu cầu đời sống va đòi hỏi của sự sinh tồn”. Định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được những nhược quan điểm phiến diện về văn hoá trong lịch sử và hiện tại. Trên thực tế, văn hoá bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài người. b. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra 5 điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. Xây dựng chính trị: dân quyền. Xây dựng kinh tế. Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm tới văn hóa, đã thấy rõ vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Vì vậy, ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa a. Quan điểm về vai trò và vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội Một là: Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Ngay sau thắng lợi cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm này. Ở đây, Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang tầm với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau. Cho nên trong công cuộc xây dựng đất nước, cả bốn vấn đề này phải được coi trọng như nhau. Trong quan hệ với chính trị, xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: "Xã hội thế nào thì văn nghệ thế ấyDưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị kìm hãm, không thể phát triển lên được”. Trong quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá. Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Như vậy, kinh tế phải đi trước một bước. Người viết: "Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước” Hai là: Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Người cho rằng: văn hóa có tính tích cực, chủ động đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và chính trị. Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quan điểm "văn hóa cũng là một mặt trận”; "kháng chiến văn hóa, văn hóa hoá kháng chiến” mà Người đưa ra, đã tạo nên một phong trào văn hóa, văn nghệ sôi động chưa từng thấy. Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. b. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa. Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới. Nhiều vấn đề về văn hóa đã được đặt ra và giải quyết ngay trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, như giải quyết nạn dốt, nạn mù chữ, giáo dục nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm chính; cấm hút thuốc phiện, lương giáo đoàn kết và tự do tín ngưỡngNhư vậy, nền văn hóa mới ra đời đã gắn liền với nước Việt Nam mới. Nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là nền văn hóa kháng chiến, nền văn hóa dân chủ mới. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền văn hóa được xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn bao hàm ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa học, tính đại chúng. Tính dân tộc của nền văn hóa được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái niệm, như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh tới bản chất rất đặc trưng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Người cho rằng, để được như vậy, phải "trau dồi cho văn hóa nghệ thuật có tinh thần thuần túy Việt Nam”, phải "lột tả cho hết tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, khát vọng độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc. Tính dân tộc của nền văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước. Tính khoa học của nền văn hóa mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại. Tính đại chúng của nền văn hóa được thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói: "Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa”. c. Quan điểm về chức năng của văn hóa Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ba chức năng chính sau đây: Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nâng cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, văn hóa phải đặc biệt quan tâm tới những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc. Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hóa là phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm thế nào cho ai cũng có "có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng’. Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người; yêu tính trung thực, chân thành thủy chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự xa đọaTình cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ, thông qua những mối quan hệ tốt đẹp, văn hóa phải góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, tin vào lý tưởng, tin vào nhân dân và tin vào tiền đồ của cách mạng. Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí. Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức của người dân. Vấn đề nâng cao dân trí thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã được giải phóng, toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân. Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có thể có những điểm chung và điểm riêng. Song, tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng "biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Đó cũng là mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng ta đã vạch ra trong công cuộc đổi mới. Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con người tới chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân. Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, thói quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất, trong đó có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tùy theo nghề nghiệp, vị trí công tác. Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối sống sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong đời sốngCăn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới phẩm chất đạo đức- chính trị. Vì nếu không có những phẩm chất này thì họ không thể hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lý tưởng thành hiện thực. Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Văn hóa giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ. Hồ Chí Minh: Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. 3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa a. Văn hóa giáo dục Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ nhiều công sức phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến (từ chương, kinh viện, xa rời thực tế, bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ) và thực dân (ngu dân, đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát), chuẩn bị tư tưởng cho việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này. Nền giáo dục mới của nước Việt Nam được Hồ Chí Minh chuẩn bị từ những lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng trong những năm hai mươi, thực sự ra đời sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ "làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Trong quá trình xây dựng nền văn hóa giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh về giáo dục, định hướng cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. b. Văn hóa văn nghệ Văn nghệ (bao hàm cả văn học và nghệ thuật) là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng mà còn là một chiên sĩ tiền phong trong sáng tạo văn nghệ. Trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn nghệ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quan điểm lớn. Sau đây là 3 quan điểm chủ yếu. Một là, văn hóa- văn nghệ là một mặt trận, nghệ sỹ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa là một mặt trận, tức là khẳng định vai trò, vị trí của văn hóa- văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế. Ở một tầm sâu xa hơn, Hồ Chí Minh còn coi mặt trận văn hóa như một "cuộc chiến khổng lồ” giữa chính và tà, giữa cách mạng và phản cách mạng. Cuộc chiến đó sẽ rất quyết liệt, rất lâu dài, song rất vẻ vang. Trong cuộc chiến đó, "người nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí” đấu tranh. Mặt trận văn nghệ lúc này còn cam go hơn, quyết liệt hơn, bởi thắng đế quốc thực dân đã khó, thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó hơn nhiều. Hồ Chí Minh yêu cầu: "chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường vững, tư tưởng đúngđặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết” Hai là, văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. Thực tiễn đời sống của nhân dân rất phong phú, bao gồm thực tiễn lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng đời sống mới. Đây là nguồn nhựa sống, là sinh khí và chất liệu vô tận cho văn nghệ sáng tác. Hồ Chí Minh yêu cầu các văn nghệ sỹ phải "thật hòa mình vào quần chúng”, phải "từ trong quần chúng ra, trở về nơi quần chúng”, phải "liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân”, để hiểu thấu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân, học tập nhân dân và "miêu tả cho hay cho chân thật và cho hùng hồn” thực tiễn đời sống của nhân dân. Bởi vì nhân dân không chỉ là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất, và tinh thần. Họ còn là người hưởng thụ và đánh giá các tác phẩm văn học- nghệ thuật một cách trung thực, khách quan và chính xác nhất. Ba là, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc. Mục tiêu của văn nghệ là phục vụ quần chúng. Để thực hiện mục tiêu này, các tác phẩm văn nghệ phải đạt tới sự thống nhất hài hòa giữa nội dung và hình thức. Một tác phẩm hay là tác phẩm diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, ai đọc cũng hiểu được và khi đọc xong phải suy ngẫm. Tác phẩm đó phải kế thừa được những tinh hoa văn hóa dân tộc, mang được hơi thở của thời đại, vừa phản ánh chân thật những gì đã có trong đời sống, vừa phê phán cái dở, cái xấu, cái sai, hướng nhân dân tới cái chân, cái thiện, cái mĩ, vươn tới cái lý tưởng- đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Để thực hiện tính hướng đích này, các tác phẩm văn nghệ phải chân thật về nội dung, đa dạng, phong phú về hình thức thể loại. c. Văn hóa đời sống Văn hóa là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt tinh thần ấy không phải là cái gì cao siêu, trừu tượng, mà lại được thể hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Đó chính là văn hóa đời sống. Gắn việc xây dựng nền văn hóa mới với xây dựng đời sống mới thực sự là một cách nhìn, một giải pháp rất độc đáo của Hồ Chí Minh. Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới, được Hồ Chí Minh nêu ra với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung này có mối quan hệ mật thiết, trong đó đạo đức mới giữ vai trò chủ yếu. Bởi vì, chỉ có dựa trên một nền đạo đức mới, thì mới xây dựng được lối sống mới và nếp sống mới. Đến lượt mình, đạo đức mới cũng chỉ có thể thể hiện trong lối sống và nếp sống. Đạo đức mới: Để xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo đức mới. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị "mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm chính”. Sau này, nhiều lần Người đã khẳng định: "Nếu không giữ được Cần, kiệm, liêm chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”, "Nêu cao và thực hành Cần, kiệm, liêm chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”. Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức. Đó còn là lối sống văn minh, đạo đức, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Con người muốn tồn tại, phải làm sao cho có ăn, có mặc, ở, đi lại và làm việc. Phải làm sao cho mỗi hoạt động đó đều mang tính văn hóa. Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh, là phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức - quyền – danh - lợi. Trong quan hệ với nhân dân bạn bè, đồng chí, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu tình yêu thương, quý mến, trân trọng con người; với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người thì độ lượng, khoan dung. Phong cách làm việc, theo Hồ Chí Minh là phải sửa đổi sao cho có tác phong quần chúng, tác phong tập thể- dân chủ, tác phong khoa học. Sửa đổi phong cách làm việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cán bộ làm công tác quản lý lãnh đạo. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, đã là cán bộ cách mạng phải có phong cách sống và phong cách làm việc tốt, để làm gương mẫu cho nhân dân. Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới- nếp sống văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành thói quen, thành phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Xây dựng văn hóa đời sống mới, nhằm biến Việt Nam, từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia văn minh và phú cường là một công việc lâu dài và phải có phương pháp tốt. Công việc đó đòi hỏi quyết tâm của cả cộng đồng dân tộc, song trước hết, phải được bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình, với tư cách là một tế bào của xã hội. II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC 1. Nôi dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức a. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức - Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Khi đánh giá về vai trò của đạo đức trong đời sống, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của song suối. Người cho rằng, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, "sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ "viết lên trán hai chữ "cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức”. "Vì muốn giải phóng dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?” Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hóa biến chất của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải là "là đạo đức, là văn minh”. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Như vậy, trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài; hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu quả hành động. - Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực. Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch. b. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng - Trung với nước, hiếu với dân Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm "trung, hiếu” trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc và đưa vào đó một nội dung mới: "Trung với nước, hiếu với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Người nói: "Đạo đức cũ như người đầu ngược dưới đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư Cũng như khái niệm "trung, hiếu”, "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Cần là siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh. Kiệm là tiết kiệm của dân, của nước. "Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm là "luôn tôn trọng của công và của dân”. Phải "trong sạch, không tham lam” tiền của địa vị, danh tiếng. Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm liêm, chính, có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người nói, trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Đối với một quốc gia, cần kiệm liêm chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, kiệm, liêm chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Chí công vô tư, là công bằng, công tâm, không thiên tư thiên vị; làm việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là lối sống ích kỷ, chỉ biết có riêng mình. Nó là đồng minh của đế quốc; là một thứ vi trùng rất độc. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phíĐó "là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân. - Thương yêu con người, sống có tình nghĩa Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại độc lập tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc cho con người. Tình yêu thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh emnó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. - Có tinh thần quốc tế trong sáng Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân. Nó nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc gia dân tộc. Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, yêu thương và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanhNgười chủ trương giúp bạn là tự giúp mình. Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần: bốn phương vô sản đều là anh em. c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới - Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Nói đi đôi với làm, theo Hồ Chí Minh là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Nó đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm. Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh: "Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng tiền phong, mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình. Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hàng ngày của toàn xã hội. - Xây đi đôi với chống. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Trong đời sống hàng ngày, cái thiện và cái ác, tốt- xấu đen xen nhau. Vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; phù hợp với từng lứa tuổi, từng ngành nghề, giai cấp, tầng lớp; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai cái xấu, cái vô đạo đức trong đời sống hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là "một cuộc chiến đấu khổng lồ” giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh trong sạch về đạo đức. - Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ để trở thành con người mới không phải là một công việc dễ dàng Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ được rõ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, không tự huyễn hoặc, lừa dối. Hồ Chí Minh: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. 2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân Đạo đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công bằngđược xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa con người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa con người với xã hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát vọng hướng tới chân, thiện, mỹ nhằm hoàn thiện bản thân. Để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người phải tự tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy, đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người. Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò vô cùng quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn. Vì họ là "người chủ tương lai của nước nhà”; là cái cầu nối giữa các thế hệ. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định: "thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm gì có ích cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài, ví như ông Bụt, không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người”. Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh giúp họ vượt qua khó khăn thử thách. Hồ Chí Minh không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ, trong xã hội mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. - Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh. Cũng như với càn bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh viên, thanh niên tri thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ 2 (7-5-1958) những phẩm chất đó được Người tóm tắt tróng "sáu cái yêu” Yêu tổ quốc Yêu nhân dân Yêu chủ nghĩa xã hội Yêu lao động Yêu khoa học và kỹ thuật Theo Người để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình: "không phải là hỏi nước nhà đã làm cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?” Trong học tập rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Một là: Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hai là: Học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Ba là: Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người. Bốn là: Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích của cuộc sống. Trong tình hình hiện nay, để phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu gương của mọi người trong xã hội, của bố mẹ trong gia đình của cán bộ, đảng viên, của các thầy cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn. III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể - Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mĩ. - Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữbao gồm cả tính người - mặt xã hội và tính bản năng - mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người có tốt, có xấu, nhưng "dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”. b. Con người cụ thể, lịch sử Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm "con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp ("phẩm giá con người”, "giải phóng con người”, "người ta”), nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp; theo giới tính (thanh niên, phụ nữ), lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (công nhân, nông dân, trí thức); trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể, cảm tính, khách quan. c. Bản chất con người mang tính xã hội - Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau, xác lập các mối quan hệ giữa người với người. - Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược "trồng người” a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người - Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, "vô luận việc gì, đều do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm. Người phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đầy, hy sinh đến việc dân nhường cơm, xẻ áo, chở che, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng cán bộ và bộ đội cách mạng. Nhân dân là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng. "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi” - Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc và phát huy nguồn lực con người. Vì sống gần dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911, giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, Người ra đi với ý chí "quyết giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu tôn giáo; ngược lại, Người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người. Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy- ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân- dù nhỏ mấy- ta phải hết sức tránh. Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nhận rõ: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa” "có dân thì có tất cả”. Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận tức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết. Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người cộng sản thì phải tin vào nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh "xa nhân dân, khinh nhân dân (cho là "dân ngu cu đen”, không hiểu được chính trị lý luận cao xa như mình), sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân”. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm- bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng việc”. Con người là động lực của cách mạng được nhìn trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh lấy công- nông- trí làm nền tảng. Không phải mọi con người đều là trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam Chính trị, văn hóa, là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược "trồng người” - "Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói tới "lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. - Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa + Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. + Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội ” và "con người xã hội chủ nghĩa” + Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh dể làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. - Chiến lược "trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện được chiến lược "trồng người” phải coi trọng sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Để thực hiện chiến lược "trồng người” có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục- đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng tới thanh niên. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mĩ, phải đặt đạo đức, lý tưởng, tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau. "Trồng người” là công việc "trăm năm”, không thể nóng vội "một sớm một chiều”. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một ngày mà quên giáo dục thì lùi gần về thú tính. Hồ Chí Minh: "Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”. III. KẾT LUẬN Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn là vì những đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại. Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước. Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức học mác xit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi lạc được thế giới thừa nhận. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Nhìn chung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập tư tưởng đạo đức, văn hóa Hồ Chí Minh, cũng như noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức mà là trách nhiệm chính trị của cả dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập cùng nhân loại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_giang_tthcm_9847.doc