Bàn về thanh toán điện tử qua ngân hàng trong sự phát triển của thương mại điện tử

- Nhóm biện pháp bảo vệ. Các biện pháp bảo vệ được sử dụng nhằm làm cho sự xâm nhập từ bên ngoài vào một trong những cấu phần của hệ thống thanh toán điện tử bị ngăn cản trước khi một gian lận có thể thực hiện được. Các thiết bị điện tử được sử dụng trong các phương tiện thanh toán điện tử trước tiên phải chống lại sự xâm phạm từ bên ngoài. Đối với hệ thống thẻ, việc xử lý liên quan đến sự an toàn được thiết kế phần bên trong của thẻ, chẳng hạn như các thẻ thông minh chứa một mạch vi xử lý có chức năng này. Các thiết bị đảm bảo an toàn cho người bán cũng có thể là một thể thông minh. Một cấu phần máy tính có chức năng an toàn được cài đặt vào thiết bị ngoại vi xử lý thanh toán của người bán, Mật mã là một trong những cấu phần quan trọng nhất trong việc ngăn chặn gian lận trong tất cả hệ thống tiền điện tử hiện hành. Các hệ thống tiền điện tử có thể đưa ra nhiều tầng bảo vệ bổ sung nhằm chống lại các hành vi gian lận, ngăn ngừa sự cố thiết bị, Các biện pháp phát hiện. Tại hầu hết các hệ thống, bản thân thiết bị lưu lại thông tin đầy đủ hoặc vắn tắt về những giao dịch đã thực hiện. Các thông tin được thực hiện này sau đó có thể đọc được từ một hệ thống trung tâm hoặc những giao dịch có nghi ngờ để có thể kiểm tra bất thường

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về thanh toán điện tử qua ngân hàng trong sự phát triển của thương mại điện tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẤN ĐỀ HÔM NAY 10Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 1. Thương mại điện tử Trước hết cần xác lập chính thống, thống nhất quan niệm về thương mại điện tử [1]. Khái niệm “Thương mại điện tử” (Electronic commerce) ra đời cùng sự phát triển của Công nghệ thông tin, với nhiều tên gọi khác, như: “Thương mại trực tuyến” (Online trade), “Thương mại điều khiển học” (Cyber trade), “Kinh doanh điện tử” (Electronic business), “Thương mại phi chứng từ” (Paperless commerce), Theo Ủy ban về luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (Ucitral), thì theo nghĩa rộng, thuật ngữ “Thương mại” bao gồm các vấn đề phát sinh từ các mối quan hệ mang tính chất thương mại (có hay không có hợp đồng), như các giao dịch, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, bao thanh toán, cho thuê tài chính, xây dựng công trình, tư vấn, đầu tư, cấp vốn, ngân hàng, bảo hiểm, thỏa thuận khai thác, chuyển nhượng, liên doanh, chuyên chở hàng hóa, hành khách, v.v. Theo Ủy ban Châu Âu (EU), thì “Thương mại điện tử” là hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu dưới dạng chữ, âm thanh, hình ảnh. BÀN VỀ THANH TOÁN ĐIỆN TỬ QUA NGÂN HÀNG TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ PGS. TS. Mai Văn Bạn * Tóm tắt: Trong điều kiện công nghệ số và nền tảng cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang mở ra một nền công nghệ kỹ thuật cao thì thanh toán qua ngân hàng với các phương tiện, phương thức thanh toán hiện đại cũng phát triển mạnh mẽ, tương thích với nền công nghệ cao đó. Mục đích của bài viết làm rõ thế nào là thương mại điện tử, thanh toán điện tử qua ngân hàng trong thương mại điện tử, cũng như những rủi ro có thể xảy ra trong thanh toán điện tử qua ngân hàng và những biện pháp chủ yếu nhằm hạn chế những rủi ro, tổn thất có thể xảy ra. Từ khóa: thương mại điện tử, thanh toán điện tử, thanh toán ngân hàng Abstract: In the context of digital technology and fourth industrial revolution which have been ushering in a high-tech technology, the payment via banks with modern means is developing vigorously.compatible with the high-tech technology. The article aims at clarifying what e-commerce is, what electronic payment via banks in e-commerce as wel as possible risks in electronic payment via banks is, and the fundamental measures to restrict possible losses and risks. Keywords: E-commerce, electronic payment, bank payment * Phó Chủ nhiệm khoa Ngân hàng - Trường ĐH KD và CN Hà Nội VẤN ĐỀ HÔM NAY 11Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử” bao gồm sản xuất, quảng cáo, bán hàng, phân phối sản phẩm, thanh toán trên mạng internet, nhưng được giao nhận hữu hình các sản phẩm cụ thể, cũng như thông tin số hóa qua mạng internet. Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD), “Thương mại điện tử” là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua mạng truyền thông internet. Như vậy, nội dung chủ yếu của “Thương mại điện tử” là việc trao đổi thông tin thương mại hoặc thực hiện các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử, mà không cần in ra giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bộ giao dịch. 2. Điều kiện thực hiện thương mại điện tử - Về nhận thức, khi thực hiện thương mại điện tử sẽ làm thay đổi cách thức giao dịch, vận hành giữa các thành viên trong xã hội, từ người sản xuất tới người tiêu thụ sản phẩm, vận hành hệ thống các nhà công nghệ và phát triển sản phẩm, các cơ quan quản lý. Vì thế, cần phải nhận thức đầy đủ, đúng mức rằng thương mại điện tử mang tính “cách mạng” về mọi “giao dịch”; phải hiểu, phải quen thuộc, phải có khả năng thành thạo vận hành và có đội ngũ chuyên gia am hiểu công nghệ. khi triển khai và phát triển thương mại điện tử. - Về hạ tầng công nghệ, phải đảm bảo các điều kiện hiện đại, tương thích về viễn thông, internet, điện tử, cùng đội ngủ nhân lực được đào tạo, tổ chức đào tạo và tiêu chuẩn công nghệ. 3. Thanh toán điện tử Thanh toán điện tử là khâu cuối cùng, quan trọng nhất trong thương mại điện tử và bản thân thanh toán cũng là một hình thái hoạt động của thương mại điện tử. Thanh toán điện tử là việc thực hiện lệnh, hoàn tất lệnh từ người trả tiền cho tới người nhận tiền hoàn toàn tự động và phi chứng từ. Ngược lại, thương mại điện tử chỉ tồn tại khi đã tồn tại một cơ chế thanh toán cho phép thực hiện các giao dịch thanh toán hoàn toàn tự động. Ngoài những điều kiện trên, thương mại điện tử muốn phát triển cần có các điều kiện khác rất quan trọng, như bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền tiêu dùng, tiêu chuẩn hàng hóa công nghệ, thương mại, an ninh, an toàn thương mại điện tử, bảo vệ mạng thông tin, các dữ liệu trên mạng, giải quyết tranh chấp, an ninh quốc gia, 4. Thanh toán ngân hàng Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử [2] cũng đang thay đổi, phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu với nhiều phương tiện, phương thức thanh toán hiện đại, với tốc độ nhanh và độ an toàn cao. Hiểu một cách giản đơn, thanh toán là việc chuyển quyền về sở hữu tài sản từ một bên này sang một bên khác. Việc chuyển giao có thể thực hiện bằng cách chuyển giao giá trị định lượng bằng giấy bạc ngân hàng hoặc số dư tiền gửi tại một định chế tài chính hoặc Ngân hàng trung ương. Thanh toán có thể thực hiện dưới những hình thức vô cùng giản đơn tồn tại dưới dạng trao đổi vật chất, như hàng đổi hàng, chi trả bằng tiền mặt, hoặc thực hiện một giao dịch thanh toán phi vật chất, thanh toán điện tử phi chứng từ. Thanh toán điện tử được hiểu là việc thanh toán liên thông qua một thông điệp điện tử thay cho tiền mặt (đối với thanh toán bằng tiền mặt) hoặc chứng từ giấy. Sự mở rộng việc xử lý điện tử trong toàn VẤN ĐỀ HÔM NAY 12Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 bộ công đoạn của quá trình thanh toán – quyết toán đến khách hàng dẫn tới sự phát triển của một phương tiện thanh toán mới – Tiền điện tử. Đồng thời với những lợi ích mới, phương tiện điện tử cũng mang theo những rủi ro, tổn thất mới, những vấn đề về pháp lý mới, cũng như những vấn đề khác có liên quan phải giải quyết. Trong quá trình phát triển thương mại điện tử, thanh toán điện tử ngân hàng đóng vai trò ngày càng quan trọng, bởi vì không ai khác, ngoài ngân hàng, có thể cung ứng các phương thức thanh toán được thừa nhận rộng rãi với chức năng trung gian thanh toán nói chung và hoạt động thương mại điện tử nói riêng. Thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử có những đặc trưng riêng, khác với những phương thức thanh toán ngân hàng truyền thống về kết cấu sản phẩm, dịch vụ, những rủi ro liên quan và những vấn đề xảy ra khác. a) Nội dung chủ yếu của thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử Gồm những vấn đề sau: - Phương tiện thanh toán trong thương mại điện tử cũng có chức năng trung gian trong việc chuyển giao giá trị từ sở hữu của người này sang sở hữu của người khác. Những điểm khác biệt căn bản của phương tiện thanh toán sử dụng trong thương mại điện tử là giá trị chuyển giao là giá trị điện tử được lưu trữ phi vật chất trên các thiết bị điện tử. Phương tiện thanh toán đặc trưng nhất trong thanh toán thương mại điện tử có tên gọi thông dụng là “Tiền điện tử”. Bản chất của tiền điện tử được xác định là sản phẩm giá trị lưu trữ hoặc giá trị trả trước, trong đó ghi lại số tiền hoặc số tiền dành cho người sử dụng được lưu trữ trên một thiết bị điện tử thuộc sở hữu của người đó. Giá trị điện tử được sử dụng “mua bán” giá trị điện tử này được khấu trừ khi khách hàng sử dụng các thiết bị điện tử này trong việc trả tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc rút từ các máy ATM, hoặc thực hiện các giao dịch khác. - Kỹ thuật thanh toán ngân hàng. Về mặt lý thuyết, kỹ thuật có thể cho phép các sản phẩm tiền điện tử có những đặc tính giống như tiền mặt, nhưng không để lại dấu vết giao dịch thanh toán, là công cụ thanh toán không ghi danh người sở hữu, có thể chuyển nhượng giá trị cho bất cứ người nào khác trong bất kỳ tình huống nào, mà không có sự can thiệp hoặc tham gia của bất cứ bên thứ ba nào khác. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có một sản phẩm nào như vậy tồn tại và tiền điện tử mặc dù mang một số đặc tính chung như tiền mặt, song lại có những điểm khác biệt lớn so với tiền mặt, nếu xét trên góc độ thiết kế sản phẩm, cách thức thực hiện giao dịch như lưu trữ giá trị, chuyển nhượng giá trị, những ứng dụng của sản phẩm, cơ cấu phát hành, cấp phép trực tuyến, ghi nhận thông tin giao dịch, ứng dụng thiết bị, đồng tiền thanh toán, phát hành và truy nạp, thanh toán và chi trả, b) Thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử Có ba mô hình: Thứ nhất, mô hình chung, gồm ba khu vực khác nhau trong hệ thống thanh toán điện tử: + Khu vực thanh toán bù trừ và quyết toán, trong đó có các định chế tài chính, trung tâm thanh toán bù trừ và Ngân hàng trung ương hoàn tất các nghĩa vụ tài chính liên ngân hàng. + Khu vực phát hành, thanh toán, vận hành, trong đó có một cấu trúc cho việc phát hành, thanh toán các giá trị điện tử và tương tác với khu vực thanh toán bù trừ và quyết toán. VẤN ĐỀ HÔM NAY 13Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 + Khu vực bán lẻ, trong đó các lưu chuyển về giá trị điện tử giữa những người sử dụng diễn ra dưới các hình thức nạp tiền (hoặc phát hành), thanh toán, gửi tiền. Thứ hai, mô hình hệ thống một nhà phát hành tiền điện tử: các luồng lưu chuyển giá trị tương tự như trong các hệ thống thanh toán thông thường liên quan đến một định chế phát hành (như Ngân hàng trung ương, hệ thống ngân hàng thương mại, hệ thống mua bán lẻ). Một nhà phát hành duy nhất tạo ra tiền điện tử và và phát hành cho các định chế tham gia. Thứ ba, mô hình hệ thống đa nhà phát hành: các chủ thể chính trong khu vực phát hành/ thanh toán / vận hành là các nhà phát hành, ngân hàng thanh toán, nhà vận hành hệ thống. Trên thực tế, một định chế tài chính thường có cả chức năng phát hành và thanh toán. c) Điều kiện thực hiện thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử - Điều kiện kinh tế là các yếu tố làm phát sinh những động lực của các chủ thể trên thị trường khiến các chủ thể này tham gia vào hoạt động thanh toán ngân hàng. Những chủ thể khác nhau tham gia thị trường sẽ có những động cơ khác nhau khi tham gia thanh toán ngân hàng. Đối với các nhà phát hành tiền điện tử, thì động lực thúc đẩy là các khoản thu nhập từ việc thu được các loại phí, từ đầu tư vốn. Đối với các nhà ngân hàng còn là việc tiết giảm những chi phí bảo quản, vận chuyển và kiểm đếm tiền mặt nếu tiền điện tử có khả năng thay thế tiền mặt với khối lượng lớn. Đối với người sử dụng tiền điện tử, nhu cầu sử dụng tiền điện tử trước hết tùy thuộc vào khả năng đáp ứng được yêu cầu của họ, như phí sử dụng tiền điện tử, khả năng an toàn, bảo mật, sự thuận lợi, dễ dàng trong sử dụng các thiết bị điện tử, sự sẵn sàng chấp nhận phương tiện điện tử trong thanh toán. Đối với người bán hàng, mức độ sẵn sàng chấp nhận tiền điện tử của họ trong chi trả hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phí phải trả cho nhà phát hành, nhà vận hành hệ thống, chi phí cho các thiết bị ngoại vi và mức độ tiết kiệm chi phí so với giữ tiền mặt, và khả năng chấp nhận kỹ thuật mới của người bán. - Điều kiện về cơ chế chính sách và cơ sở pháp lý. Đây là yếu tố rất quan trọng để phát triển thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử. Về chính sách, cơ sở pháp lý bảo vệ người tiêu dùng là khung pháp lý phù hợp, khuyến khích các hành vi trung thực, tạo cơ sở cho các thỏa thuận giữa các bên liên quan trong thanh toán tiền điện tử, đến rủi ro trong thanh toán tiền điện tử, độ an toàn, bảo mật, tính minh bạch, công khai thông tin. Về cơ chế chính sách và cơ sở pháp lý phòng chống tội phạm, phải xây dựng khung pháp lý như cấm giả mạo, lừa đảo, chống rửa tiền, Cơ chế chính sách và điều kiện pháp lý đối với các định chế thanh toán trong thương mại điện tử. Có hai xu hướng pháp lý đối với các định chế phát hành tiền điện tử, như việc phát hành tiền điện tử có thể xem như nhận tiền gửi không kỳ hạn và các quy định về giám sát việc nhận tiền gửi áp dụng chung cho cả tiền điện tử. Việc phát hành tiền điện tử được coi như một hình thức hoạt động đặc biệt, nên phải có những quy định đặc biệt. - Rủi ro có thể xảy ra đối với thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử thường được phân thành hai loại cơ bản, tùy thuộc nguồn gốc phát sinh: + Rủi ro từ hành vi cố tình gian lận (chủ quan), như sao chép thiết bị, sửa đổi VẤN ĐỀ HÔM NAY 14Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 hoặc sao chép phần mềm, dữ liệu, sửa đổi bức điện, lấy trộm thiết bị, không ghi lại giao dịch,... + Rủi ro do sự cố ngẫu nhiên trong hoạt động hoặc bị mất các dữ liệu trên thiết bị, một chức năng nào đó ngừng hoạt động do nhiều nguyên nhân gây ra,... + Rủi ro đối với người tiêu dùng tham gia thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử. Ngoài những rủi ro mất an toàn khi sử dụng phương tiện điện tử để thanh toán thì có thể gặp rủi ro như chi tiết giao dịch không ghi lại đầy đủ, sai sót, nhà phát hành lâm vào phá sản, hoặc mất khả năng chi trả, người sử dụng do không thể hoàn tất với số tiền, thời gian và nơi nhận như dự định chẳng hạn do sử dụng thẻ tín dụng quá hạn mất hiệu lực, séc cá nhân bị từ chối, v.v., người sử dụng có thể gặp vấn đề về bảo mật thông tin, bị gian lận. + Rủi ro đối với các nhà phát hành tiền điện tử là khi phát hành tiền điện tử đồng nghĩa với sự hình thành tài sản nợ trên bảng cân đối của nhà phát hành, đó chính là những khoản mà nhà phát hành phải trả theo mệnh giá phát hành cho các chủ thể chấp nhận tiền điện tử trong thanh toán – Điều đó là yếu tố tạo ra rủi ro hoạt động và rủi ro mất khả năng thanh toán của nhà phát hành. Ngoài ra nhà phát hành còn chịu rủi ro về tín dụng, rủi ro thị trường, các rủi ro tài chính khác có liên quan đến phát hành tiền điện tử. + Khả năng bị lợi dụng do các hoạt động gian lận, phi pháp, như tội phạm tấn công vào hệ thống an toàn của thanh toán ngân hàng, tội phạm lợi dụng hệ thống thanh toán để rửa tiền, trốn thuế, đánh bạc phi pháp, v.v. d) Kết quả hoạt động hệ thống thanh toán điện tử Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS) của Việt Nam thời gian qua thực chất là hệ thống thanh toán điện tử quốc gia. Ngoài hệ thống này sử dụng trong thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam, không có hệ thống thanh toán điện tử nào khác. Nhà nước giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì thực hiện thanh toán điện tử liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán này kết nối tất cả các tổ chức, các định chế tài chính có tham gia thanh toán (các đơn vị cung ứng dịch vụ thanh toán) trên phạm vi toàn quốc. Đây là hệ thống thanh toán điện tử trực tuyến, hiện đại, xây dựng theo chuẩn quốc tế, là kênh thanh toán nhanh nhất, thời gian của một lệnh thanh toán chỉ diễn ra không quá 10 giây. Hệ thống bắt đầu được xây dựng từ năm 1995 và khai trương hoạt động từ năm 2002 tại trụ sở chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 5 chi nhánh ngân hàng tỉnh, thành phố. Năm 2008 hoàn tất giai đoạn II của Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán, đáp ứng nhu cầu cơ bản của các tổ chức tín dụng về thanh toán, tốc độ dung lượng xử lý giao dịch, độ an toàn, bảo mật. Đây là cơ sở để các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh toán cho khách hàng, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Mạng lưới hoạt động của IBPS gồm một trung tâm thanh toán quốc gia (NPSC) đặt tại số nhà 64 phố Nguyễn Chí Thanh và một trung tâm dự phòng đặt tại Ba Vì, TP Hà Nội. Các trung tâm hoạt động 24/24 giờ. Có 5 trung tâm xử lý khu vực (RPC) đặt tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được thiết lập hoạt động xử lý thanh toán đồng thời gồm ba tiểu hệ thống: Tiểu hệ thống thanh toán giá trị cao (HVSS) VẤN ĐỀ HÔM NAY 15Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 với giá trị xử lý thanh toán trên 500 triệu đồng, Tiểu hệ thông giá trị thấp với giá trị thanh toán dưới 500 triệu đồng không đòi hỏi cấp thiết về thời gian, Tiểu hệ thống xử lý tài khoản thanh toán (tiểu hệ thống xử lý quyết toán vốn). Thành viên tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng là tất cả các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trong toàn quốc và phải tuân thủ các điều kiện nhất định của hệ thống thanh toán này. Theo báo cáo tại cuộc họp báo của Ngân hàng Nhà nước ngày 7/1/2019, thì hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã và đang vận hành với hiệu quả tốt, đảm bảo an toàn, thông suốt, thanh toán bù trừ đã hoàn thiện và đưa vào vận hành chính thức từ năm 2008. Cuối tháng 12/2018, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã xử lý 137.544 giao dịch với giá trị 73 triệu tỷ đồng, gấp 13 lần, GDP tương ứng tăng 25% so với năm 2017 tăng 24%. Số lượng và giá trị giao dịch bình quân hệ thống xử lý đạt trên 544.000 giao dịch/ngày với trên 289.000 tỷ đồng/ngày. Đến cuối tháng 9/2018, toàn quốc đã cài đặt 18.173 máy ATM, 296.000 máy POS tăng tương ứng 4,5% và tăng 13,5% so cùng kỳ năm 2017. Thanh toán thẻ nội địa đạt 167 triệu giao dịch, tăng 21% so cùng kỳ năm 2017, với giá trị giao dịch đạt 442.000 tỷ đồng. Về thanh toán điện tử qua internet, tính đến tháng 9/2018, số lượng giao dịch tài chính trên mạng đạt 178 triệu giao dịch, với giá trị 11 triệu tỷ đồng, tương ứng tăng 33% và tăng 18% so với cùng kỳ năm 2017. Giao dịch qua kênh điện thoại di động là 122 triệu giao dịch, với giá trị 1,1 triệu tỷ đồng, tăng 29% về số lượng giao dịch và giá trị tăng 128% so với cùng kỳ năm 2017. e) Những biện pháp chủ yếu nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro Nhiều biện pháp khác nhau được sử dụng nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán điện tử. Có thể chia thành ba nhóm chính: - Nhóm biện pháp bảo vệ. Các biện pháp bảo vệ được sử dụng nhằm làm cho sự xâm nhập từ bên ngoài vào một trong những cấu phần của hệ thống thanh toán điện tử bị ngăn cản trước khi một gian lận có thể thực hiện được. Các thiết bị điện tử được sử dụng trong các phương tiện thanh toán điện tử trước tiên phải chống lại sự xâm phạm từ bên ngoài. Đối với hệ thống thẻ, việc xử lý liên quan đến sự an toàn được thiết kế phần bên trong của thẻ, chẳng hạn như các thẻ thông minh chứa một mạch vi xử lý có chức năng này. Các thiết bị đảm bảo an toàn cho người bán cũng có thể là một thể thông minh. Một cấu phần máy tính có chức năng an toàn được cài đặt vào thiết bị ngoại vi xử lý thanh toán của người bán, Mật mã là một trong những cấu phần quan trọng nhất trong việc ngăn chặn gian lận trong tất cả hệ thống tiền điện tử hiện hành. Các hệ thống tiền điện tử có thể đưa ra nhiều tầng bảo vệ bổ sung nhằm chống lại các hành vi gian lận, ngăn ngừa sự cố thiết bị, Các biện pháp phát hiện. Tại hầu hết các hệ thống, bản thân thiết bị lưu lại thông tin đầy đủ hoặc vắn tắt về những giao dịch đã thực hiện. Các thông tin được thực hiện này sau đó có thể đọc được từ một hệ thống trung tâm hoặc những giao dịch có nghi ngờ để có thể kiểm tra bất thường . Các biện pháp kiềm chế. Các danh sách nóng ghi lại số seri của các thiết bị có nghi ngờ do nhà vận hành hệ thống cung VẤN ĐỀ HÔM NAY 16Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 cấp và nó cũng có thể được cung cấp cho người bán để ngăn chặn các khoản chi trả từ các thiết bị có nghi ngờ. - Nhóm biện pháp quản lý rủi ro đối với người tham gia thanh toán. Các khách hàng tham gia thanh toán điện tử phải áp dụng các biện pháp tự bảo vệ, như đảm bảo an toàn thẻ, máy tính cá nhân có lưu thiết bị điện tử, các chìa khóa mật mã, mã số nhận dạng để truy cập, giới hạn số tiền mà họ lưu giữ, - Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro đối với nhà phát hành tiền điện tử. Các nhà phát hành thiết lập một cơ chế kiểm soát nội bộ đủ mạnh để ngăn chặn sự gian lận nội bộ, thiết kế các biện pháp và thủ tục đảm bảo an toàn nghiêm ngặt, ngăn chặn sự lừa đảo, đảm bảo an toàn Ngày nhận bài: 20/7/2019 Tài liệu tham khảo 1. Chính phủ. Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không dùng tiền mặt. Hà Nội, 2012. 2. Tạp chí Ngân hàng số 22. Hà Nội, 2018. 3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Báo cáo kết quả thanh toán điện tử ngân hàng tại cuộc họp ngày 7/1/2019. Hà Nội, 2017. 4. Đề tài khoa học cấp ngành. Mã số KNH-2001-15.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfban_ve_thanh_toan_dien_tu_qua_ngan_hang_trong_su_phat_trien.pdf
Tài liệu liên quan