Chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu trong thực tiễn thương mại Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC Lời nói đầu 01 Chương I : Chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu : Những vấn đề cơ bản 03 I. Sự hình thành và phát triển của chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu 03 1. Chế độ độc quyền ngoại thương và sự hình thành chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu a) Chế độ độc quyền ngoại thương. b) Sự hình thành chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu 03 08 2. Sự phát triển của chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu qua từng thời kỳ a) Trước năm 1986 b) Từ năm 1986 đến năm 1989 c) Từ năm 1989 đến nay II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU 1. Uỷ thác xuất nhập khẩu trong nền kinh tế tập trung 10 2. Uỷ thác xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước a) Bản chất của uỷ thác xuất nhập khẩu 11 b) Chủ thể tham gia quan hệ uỷ thác xuất nhập khẩu 14 c) Những thủ tục cần thiết để đi đến ký hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu 15 d) Trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên 16 e) Thanh toán trong uỷ thác xuất nhập khẩu 19 f) Mối quan hệ giữa hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu 21 Chương II : Nội dung pháp lý của uỷ thác xuất nhập khẩu 23 I. Luật điều chỉnh hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu 1. Luật điều chỉnh hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu trong nền kinh tế tập trung a) Điều lệ tạm thời về hoạt động kinh doanh ngày 10 tháng 4 năm 1957 23 b) Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ngày 4 tháng 1 năm 1960 24 c) Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ngày 10 tháng 3 năm 1975 25 d) Thông tư số 03 – BNgT/XNK ngày 11 tháng 1 năm 1984 Quy định chi tiết về chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá 25 2. Luật điều chỉnh hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN a) Chỉ thị số 20 – BNgT/CSXNK ngày 3/7/1987 về việc áp dụng phương thức uỷ thác xuất khẩu sang thị trường XHCN đối với một số mặt hàng địa phương sản xuất 26 b) Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 và các văn bản hướng dẫn thi hành 27 c) Quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước ngày 22/9/1994 29 d) Luật thương mại ngày 10/5/1997 và các văn bản hướng dẫn thi hành 32 II. HỢP ĐỒNG UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU 1. Khái niệm về hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu 37 2. Đặc điểm của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu a) Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu là hợp đồng kinh tế 3838 b) Đặc điểm cơ bản của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu 43 CHƯƠNG III : xu hướng phát triển của hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu I. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ CHẾ ĐỘ UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU 1. Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng của XHCN 51 2. Chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu 52 II. SO SÁNH CHẾ ĐỘ UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CHẾ ĐỘ XUẤT NHẬP KHẨU TRỰC TIẾP 1. Sự giống nhau 5455 2. Sự khác nhau 56 3. Mối quan hệ giữa uỷ thác xuất nhập khẩu và xuất nhập khẩu trực tiếp 58 III. Xu hướng phát triển của uỷ thác xuất nhập khẩu trong điều kiện thương mại Việt nam hội nhập khu vực và thế giới 59 1. Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới và sự thích ứng của pháp luật Việt Nam 59 2. Xu hướng phát triển của chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu 66 3. Một số kiến nghị về chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu trong điều kiện thương mại hiện nay 68 Kết luận 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc83 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1947 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu trong thực tiễn thương mại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bên B phải tạo điều kiện cho A được tham gia cùng giao dịch đàm phán với bên nước ngoài về việc chào bán hàng hoá của mình. Mỗi lô hàng này bên A cam đoan chỉ uỷ thác cho bên B là đơn vị có chức năng xuất nhập khẩu tiến hành chào hàng và xuất nhập khẩu từ ngày ..... tháng ....... năm ..........., nếu sau đó bên A lại chuyển sở hữu lô hàng uỷ thác này cho đơn vị khác hoặc dựng nú để gán nợ, để thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản trongcỏc HĐKT khác mà không được sự đồng ý của bên B thỡ bờn A phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Điều 4: Vận chuyển, giao dịch xuất khẩu số hàng đã uỷ thác: 1. Bên A có trách nhiệm vận chuyển hàng tới địa điểm và theo đúng thời gian bên B hướng dẫn là: - Địa điểm: ............................................................................................................ - Thời gian: Hàng phải có trước ................... giê ngày ......................................... 2. Bên B có trách nhiệm khẩn trương giao dịch xuất khẩu hàng hoá trong thời gian ....................... ngày (kể từ ngày bên A bỏo đó chuẩn bị đầy đủ các yêu cầu về hàng hoá thoả thuận với bên B). Nếu không giao dịch được trong thời gian nói trên, bên B phải thông báo ngay với cho bên A để xử lý lô hàng đó. 3. Bên B có trách nhiệm xuất khẩu hàng hoá với điều kiện có lợi nhất cho bên A (về giá cả cao, khả năng thanh toán bằng ngoại tệ mạnh ...). Điều 5: Thanh toán tiền hàng: 1. Bên B có trách nhiệm cung cấp cho Ngân hàng (ngoại thương) ...... tại ...... những tài liệu cần thiết để tạo thuận lợi cho bên A nhận được ngoại tệ do bên nước ngoài thanh toán một cách nhanh chóng nhất. 2. Bên A được quyền sử dụng ngoại tệ đó theo quy định của Nhà nước, bên B không có quyền trong việc sở hữu ngoại tệ này. Điều 6: Giải quyết rủi ro: Bên A phải chịu thiệt thòi về những rủi ro trong quá trình uỷ thác xuất khẩu lô hàng trên nếu bên B chứng minh được họ không có lỗi và đã làm đầy đủ mọi trách nhiệm đòi bồi thường ở người thứ ba (là người có lỗi gây rủi ro như làm đổ vỡ, cháy, ... hàng hoá uỷ thác XNK). Trường hợp này người thứ ba thực hiện nghĩa vụ bồi thường trực tiếp cho bên A. Điều 7: Trả chi phí uỷ thác: 1. Bên A phải thanh toán cho bên B tổng chi phí uỷ thác theo mức quy định của Nhà nước (có thể do hai bên thoả thuận). - Sè tiền chi phí uỷ thác mặt hàng ...... (thứ nhất) là ..... đồng. - Sè tiền chi phí uỷ thác mặt hàng ...... (thứ hai) là ..... đồng. Tổng chi phí uỷ thác là ..... đồng (bằng chữ) ................................. 2. Thanh toán theo phương thức: ............... Điều 8: Trách nhiệm của các bên trong thực hiện hợp đồng: 1. Trường hợp hàng hoá bị khiếu nại do những sai sót của bên A thỡ bờn A phải chịu bồi thường thiệt hại khi khách hàng nước ngoài theo kết quả giải quyết cùng với bên B. 2. Bên B có trách nhiệm làm đầy đủ những công việc cần thiết hợp lý để giải quyết những khiếu nại khi khách hàng nướcngoài phát đơn, kể cả trường hợp có tổn thất vì gặp rủi ro. Bên B có lỗi trong các trường hợp bị khiếu nại hoặc gặp rủi ro trên, cũng phải chịu trách nhiệm vật chất theo phần lỗi của mình. 3. Khi xác định trách nhiệm vật chất thuộc trách nhiệm của bên A thì bên có nghĩa vụ gửi những tài liệu pháp lý chứng minh đến ngân hàng ngoại thương khu vực là ... (nơi bên A mở tài khoản để nhận thanh toán ngoại tệ) để ngân hàng này trích tài khoản của bên A, trả bồi thường cho khách hàng nước ngoài, đồng thời bên B phải thông báo cho bên A biết. 4. Nếu bên B thực hiện nội dung hướng dẫn không cụ thể về hàng hoá sai yêu cầu mà khách hàng đưa ra, gây thiệt hại cho bên A thỡ bờn B có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại thực tế đã gây ra cho bên A do hàng hoỏ khụng xuất khẩu được. 5. Bên A không chấp hành đúng thời gian và địa điểm giao nhận hàng theo hướng dẫn của bên B, dẫn đến hậu qủa khách hàng nước ngoài phạt hợp đồng với bên B và bắt bồi thường các chi phí khác như: Cảng phí, tiền thuê phương tiện vận tải, ... thỡ bờn A chịu trách nhiệm bồi thường thay cho bên B. Nếu lỗi này do bên B hướng dẫn sai thỡ bờn B phải chịu bồi thường trực tiếp cho phía nước ngoài. 6. Nếu bên A vi phạm nghĩa vụ thanh toán chi phí uỷ thác do trả chậm so với thoả thuận bên B được áp dụng mức phạt lãi suất tín dụng quá hạn theo quy định của ngân hàng nhà nước là .....% ngày (tháng) tính từ ngày hết hạn thanh toán. 7. Bên nào đã ký hợp đồng mà không thực hiện hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị phạt tới .....% giá trị hợp đồng đã ký (cao nhất là 12%). 8. Những vi phạm trong hợp đồng này mà hai bên gây ra cho nhau (nếu không liên quan đến bồi thường vật chất cho bên nước ngoài) xảy ra, trường hợp có một bên gây ra nhiều loại vi phạm thì chỉ phải chịu một loại phạt có số tiền phạt ở mức độ cao nhất theo các mức phạt mà hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Điều 9: Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng: 1. Hai bên cần chủ động thông báo cho nhau tiến độ thực hiện hợp đồng. Nếu có vấn đề gì bất lợi phát sinh các bên phải kịp thời thông báo cho nhau và tích cực bàn bạc giải quyết (cần lập biên bản ghi toàn bộ nội dung). 2. Trường hợp cỏc bờn khụng tự giải quyết được thì thống nhất sẽ khiếu nại đến trọng tài kinh tế là tổ chức có đủ thẩm quyền giải quyết những tranh chấp trong hợp đồng này. 3. Chi phí kiểm tra và trọng tài do bên có lỗi chịu. Điều 10: Các thoả thuận khác (nếu cần) Điều 11: Hiệu lực của hợp đồng Hợp đồng này có hiệu lực từ ngày ..... đến ngày ..... Hai bên sẽ tổ chức họp và lập biên bản thanh lý hợp đồng vào lóc ..... giê, ngày ..... Hợp đồng này được làm thành ..... bản, có giá trị như nhau, mỗi bên giữ ..... bản. ĐẠI DIỆN BÊN A ĐẠI DIỆN BÊN B Chức vô Ký tên (Đóng dấu) Chức vô Ký tên (Đóng dấu) Giống như hợp đồng uỷ thác xuất khẩu, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu cũng cú cỏc quy định về các điều khoản như trên. CHƯƠNG III : xu hướng phát triển của hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu I. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Cể SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ CHẾ ĐỘ UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU 1. Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986) là một mốc son lịch sử đánh dấu sự đổi mới căn bản từ tư duy đến hành động của Đảng ta. Đại hội đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, lấy dổi mới kinh tế làm trọng tâm, chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là gì ? Trước kia không chỉ nhiều người trong chủ nghĩa tư bản mà nhiều người ở các nước xã hội chủ nghĩa đã ngộ nhận rằng kinh tế thị trường thuộc về bản chất của chủ nghĩa tư bản. Nhưng thực ra nó là thành quả của lịch sử nhân loại gắn với sản xuất hàng hoá. Về bản chất, kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó con người thực hiện trao đổi lao động thông qua vật đổi vật ở giai đoạn đầu và tiền tệ ở giai đoạn sau. Như vậy, sản xuất và trao đổi hàng hoỏ trờn thị trường đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Vì tư bản sử dụng sức lao động như một hàng hoá đặc biệt, hàng hoá có khả năng tạo ra giá trị cao hơn bản thân nó để kiếm giá trị thặng dư, cho nên sự ra đời của kinh tế hàng hoá gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Sau này kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao các nhà kinh tế học mới gọi là kinh tế thị trường. Năm 1992, Hiến pháp ra đời, khẳng định việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam : “ Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trờn chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Đ15 –Hiến pháp 1992). Sỡ dĩ Hiến phỏp đó khẳng định như vậy vì chúng ta cũng nhận thấy rằng việc phát triển kinh tế kế hoạch tập trung làm cho tình hình kinh tế –xó hội hết sức khó khăn, lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm đi. 2. Chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN Trong nền kinh tế thị trường tất cả các quan hệ kinh tế đều nhằm mục tiêu lợi nhuận và quan hệ uỷ thác xuất nhập khẩu cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Để có thể thực hiện được vai trò quản lý của mình, khi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường Nhà nước cùng với Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương Mại) đã thành lập các Công ty, các tổng công ty trực thuộc có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu. Đây là các đơn vị kinh tế đã được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Các đơn vị này vừa thực hiện việc xuất nhập khẩu hàng hoá để kinh doanh vừa thực hiện việc uỷ thác xuất nhập khẩu của các đơn vị kinh tế khác để thực hiện việc xuất nhập khẩu đã được thực hiện, nhưng bên nhận uỷ thác lại chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động này bằng cách ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong đó quy định những doanh nghiệp Nhà nước nào, có điều kiện gỡ thỡ mới được nhận uỷ thác xuất nhập khẩu và doanh nghiệp nào được uỷ thác xuất nhập khẩu. Với những quy định của pháp luật, hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu đã không ngừng tăng lên lên và tạo được lòng tin đối với bạn hàng nước ngoài cũng như bảo vệ lợi Ých của cỏc bờn uỷ thác và nhận uỷ thác, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đến năm 1994 sau mấy năm biến động kinh tế đối ngoại nói chung cũng như hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu nói riêng đã dần dần ổn dịnh trở lại và đi vào nề nếp, đặc biệt là sau khi có quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các thương nhân trong nước, ban hành kèm theo Quyết định 1172-TMXNK ngày 3/7/1994 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại. Từ đó đến nay, cùng với sự ra đời của Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành thì hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu không ngừng được tăng lên, thể hiện ở sự tăng lên của số lượng doanh nghiệp tham gia vào quan hệ xuất nhập khẩu uỷ thác cũng như sự tăng lên về kim ngạch XNK uỷ thác ở từng doanh nghiệp. Ví dụ ở Công ty Tradevico (Công ty thương mại và đầu tư) -18 Thi Sách Hà Nội, tình hình XNK uỷ thác mấy năm qua như sau: Năm 1998 1999 2000 Tổng kim ngạch xuất khẩu uỷ thác 6.198.822 4.775.999 9.990.318 Tổng kim ngạch xuất khẩu 10.566.487 4.493.487 10.718.703 Tổng kim ngạch nhập khẩu uỷ thác 5.882.960 15.372.968 14.973.258 Tổng kim ngạch nhập khẩu 8.951.980 18.296.173 17.827.410 (Trích báo cáo tổng kết kim ngạch xuất nhập khẩu uỷ thác của Phòng kinh doanh – kế hoạch, ngày 20/ 10/ 2001) Căn cứ vào Bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu uỷ thác của Công ty hàng năm vẫn tăng. Cụ thể là: năm 1998 kim ngạch XNK uỷ thác chiếm 61,85% tổng kim ngạch XNK và năm 1999 là 78,15%, năm 2000 là 87,45% Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước uỷ thác xuất nhập khẩu vẫn diễn ra và có chiều hướng tăng lên. Có những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nhờ vào việc XNK uỷ thác, chẳng hạn như Công ty Tradevico ở trên. Đó là các doanh nghiệp kinh doanh bằng chính khả năng của mình và đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vì mục đích kiếm lời mà không Ýt các doanh nghiệp lợi dụng uỷ thác XNK để hoạt động trái pháp luật như gian lận thương mại và trèn thuế….. Do đó, nếu không có những biện pháp quản lý, giám sát chặt chẽ đối với hoạt động uỷ thác XNK trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là giai đoạn hiện nay thỡ nú sẽ bị những kẻ làm ăn phi pháp lợi dụng để thực hiện trèn thuế và gian lận thương mại. Ii . So sánh chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu và chế độ xuất nhập khẩu trực tiếp Sự tồn tại của uỷ thác XNK những năm qua cũng như xu thế phát triển của hoạt động này trong tương lai ra sao, không những cần phải chứng minh về mặt lý luận mà còn phải xem xét cả ở mặt thực tế để có những tác động thích hợp. Về mặt vĩ mô, sự tồn tại của uỷ thác XNK song song với XNK trực tiếp sẽ đem lại hiệu quả gì cho nền kinh tế quốc dân, cũng như tạo điều kiện cho nền kinh tế nhà nước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế ra sao. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà kinh doanh xem xét và có những so sánh giữa hai chế độ trên. Đối với mỗi đơn vị kinh tế khi có nhu cầu XNK hàng hoá (họ đã được quyền XNK trực tiếp theo quy định của luật thương mại) thì vấn đề đặt ra là họ sẽ chọn XNK uỷ thác hay tự mình tiến hành hoạt động XNK. Trong những trường hợp đú cỏc đơn vị kinh tế cần phải so sánh xem uỷ thác hay trực tiếp XNK sẽ đem lại cho họ nhiều lợi nhuận hơn: Uỷ thác XNK là hành vi thương mại theo đú bờn được uỷ thác thực hiện XNK, nhập khẩu hàng hoá theo danh nghĩa của mình theo các điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận phí uỷ thác. XNK trực tiếp được hiểu là các dơn vị kinh tế có nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá tự mình tiến hành hoạt động này theo quy định của pháp luật. Ta có thể biểu diễn hai chế độ trên theo sơ đồ sau: XNK trực tiếpXNK uỷ thác XNK uỷ thác Biờn giới Biên giới Biên giới HĐMBNT HĐUTXNK HĐMBNT HĐUTXNK HĐMBNT 1 . Sù giống nhau. Thứ nhất : Cả hai chế độ trên đều có sự xuất hiện của hoạt động XNK hàng hoá. Đó là hoạt động mua bán hàng hoỏ của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hoỏ.(Khoản 1 điều 2, NĐ 57-1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 Quy định chi tiết thi hành luật thương mại). Trong đó : Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước để bán cho một nước khỏc trờn cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam rồi làm thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam mà không qua gia công, chế biến. Chuyển khẩu được hiểu là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam. Như vậy chế độ uỷ thác XNK và chế độ XNK trực tiếp đều đề cập đến hợp đồng mua bán ngoại thương, có sự hiện diện của yếu tố nước ngoài. Kéo theo đó là sự giống nhau về các vấn đề liên quan đến luật lệ và tập quán thương mại quốc tế như: thanh toán quốc tế, vận tải quốc tế… Thứ hai : Hoạt động XNK uỷ thác được tiến hành trên cơ sở hợp đồng uỷ thác XK, NK. Các hoạt động XNK trực tiếp được tiến hành trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương. Cả hai loại hợp đồng này theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam đều phải được ký kết bằng văn bản. Thứ ba : Đối tượng là hàng hoá trong cả uỷ thác XNK và XNK trực tiếp đều phải không thuộc diện Nhà nước cấm xuất, nhập khẩu. Nếu thuộc diện hàng hoá XNK có điều kiện thì phải có hạn ngạch của Bộ thương mại hoặc giấy phép của Bộ quản lý và phù hợp với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Thứ tư : Trong hợp đồng mua bán ngoại thương cỏc bờn Việt Nam đều nhân danh chính mình và do đó họ là người trực tiếp có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương mà họ ký. 2. Sự khác nhau. Thứ nhất : Để uỷ thác XNK và XNK trực tiếp đáp ứng được yêu cầu và mục đích của cỏc bờn thỡ nỗi chế độ lại cần có sự tham gia của các chủ thể khác nhau. - Đối với XNK trực tiếp thì chỉ cần cú bờnViệt Nam và bên nước ngoài. Bên Việt Nam : Là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc là doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh XNK tại Cục hải quan tỉnh, thành phố. Bên nước ngoài : là thể nhân hoặc pháp nhân có quốc tịch nước ngoài (tuy nhiên, hiện nay xu hướng theo quan điểm : bên nước ngoài là bên có trụ sở thương mại ở nước ngoài.) - Đối với XNK uỷ thác. Bởi vì hoạt động uỷ thác XNK có bản chất là hoạt động dịch vụ thương mại, là hoạt động hỗ trợ cho việc XNK. Do đó, trong chế độ uỷ thác XNK lại có sự hiện diện của: bên uỷ thỏc, bờn nhận uỷ thác và bên nước ngoài. Bên nhận uỷ thác ở đõy chỉ giữ vai trò trung gian cho hoạt động XNK của bên uỷ thác với bên nước ngoài được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và hiệu quả. Do đó theo quy định của pháp luật thỡ bờn uỷ thác phải trao cho bên nhận uỷ thỏc phớ uỷ thác. Đó là một khoản tiền cụ thể hay tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị lô hàng xuất( nhập) khẩu mà bên uỷ thác phải trả cho bên nhận uỷ thác như hai bên đã thoả thuận. Còn trong XNK trực tiếp sở dĩ bên xuất, nhập khẩu không phải bỏ ra một khoản chi phí nào bởi vì chính họ là người tham gia vào hoạt động XNK và vì họ đã tính toán chi phí khi họ xuất khẩu trực tiếp nhỏ hơn khoản chi phí mà họ trả cho bên nhận uỷ thác hay họ muốn thiết lập quan hệ làm ăn với nước ngoài để có nhiều cơ hội thu lợi nhuận hơn… Thứ hai : XNK uỷ thác có cơ sở pháp lý là hợp đồng uỷ thác XNK. Do đó nó là một hợp đồng trong nước, còn hợp đồng XNK trực tiếp lại có cơ sở pháp lý là hợp đồng mua bán ngoại thương. Những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng uỷ thác XNK sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam, còn những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương sẽ được cỏc bờn thương lượng hoà giải hoặc yêu cầu toà án hoặc tổ chức trọng tài giải quyết theo thoả thuận của cỏc bờn. Từ đó nhận thấy rằng, mặc dù là ở trong trường hợp uỷ thác XNK hay XNK trực tiếp thì đều có sự xuất hiện của hợp đồng mua bán ngoại thương. Nhưng hợp đồng mua bán ngoại thương trong XNK trực tiếp là cơ sở pháp lý của hoạt động này, còn trong trường hợp uỷ thác XNK chỉ là cơ sở pháp lý của quan hệ XNK giữa bên nhận uỷ thác với bên nước ngoài chứ không phải là cơ sở pháp lý của hoạt động uỷ thác XNK. Hợp đồng mua bán ngoại thương trong XNK trực tiếp, người hưởng lợi là người ký kết và thực hiện hợp đồng, còn trong uỷ thác XNK thì người hưởng lợi là bên uỷ thác chứ không phải là bên nhận uỷ thỏc. Chớnh vỡ có quan hệ trung gian, hỗ trợ này mà mọi vấn đề khiếu nại liên quan đến hàng hoá XNK bên uỷ thác sẽ không làm việc trực tiếp với người thứ ba (bên nước ngoài hoặc người vận tải) mà không thông qua người nhận uỷ thác và ngược lại. Hay nói cách khác, mặc dù có tên và là người thụ hưởng trong hợp đồng mua bán ngoại thương nhưng bên uỷ thác không thể là nguyên đơn hay bị đơn trong vụ kiện giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương. Thứ ba, Trong chế độ XNK trực tiếp do thương nhân Việt Nam trực tiếp mua bán hàng hoá với nước ngoài nên họ có điều kiện tìm hiểu thị trường quốc tế cũng như bạn hàng nước ngoài, từ đó có thể tìm được những cơ hội làm ăn tốt. Bên cạnh đó, do thị trường quốc tế rất phức tạp và phía nước ngoài thường rất sành sỏi trong kinh doanh nên nếu không có đội ngò cán bộ có trình độ tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương thì rất dễ bị thua thiệt. Trong khi đó, trong xuất khẩu uỷ thỏc bờn uỷ thác thông qua không phải là người có quyền và nghĩa vụ phát sinh trực tiếp từ hợp đồng mua bán ngoại thương mà bên nhận uỷ thác ký kết với bên nước ngoài. Do đó, có thể nói XNK uỷ thác thường mang lại rủi ro Ýt hơn cho bên uỷ thác so với việc họ trực tiếp tiến hành hoạt động XNK. Tuy nhiên, bên uỷ thác sẽ không có điều kiện tìm hiểu bạn hàng nước ngoại và thị trường quốc tế. 3. Mối quan hệ giữa uỷ thác xuất nhập khẩu và xuất nhập khẩu trực tiếp. Nếu như uỷ thác XNK hình thành từ chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thì XNK trực tiếp phản ánh sự bình đẳng của các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường đã trao cho các đơn vị kinh tế quyền hoàn toàn tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình và như đã nêu trên thì mọi việc một thương nhân có quyền tham gia hoạt động XNK, quyết định trực tiếp tham gia vào hoạt động này hay uỷ thác cho thương nhân khác mua bán hàng hoá cho mình là họ đã tính toán. Do đó, nếu thương nhân đó trực tiếp XNK thỡ khụng uỷ thác và ngược lại. Xột trờn phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì hoạt động XNK uỷ thác tăng lên thì hoạt động XNK trực tiếp giảm đi và ngược lại. Đây là mối quan hệ cơ bản nhất giữa uỷ thác XNK và XNK trực tiếp trong nền kinh tế thị trường hiện nay. III. Xu hướng phát triển của uỷ thác xuất nhập khẩu trong điều kiện thương mại Việt nam hội nhập khu vực và thế giới 1. Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới và sự thích ứng của pháp luật Việt Nam a. Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới: Hội nhập quốc tế là sự tham gia của một nước và quá trình phân công lao động quốc tế, là một yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế dựa trờn sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Hội nhập quốc tế là kết quả của một hoạt động chính trị có mục đích của một nước này hay nước khác nhằm thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường cho sản phẩm và dịch vụ của mình. Gia nhập WTO và tham gia Khu vực mậu dịch tự do AFTA năm 2006 cũng chính là tính tất yếu của xu thế nền kinh tế toàn cầu, điều đó đã đặt ra những thách thức và cơ hội đối với sự hội nhập của Việt nam cả trong những chính sách của nhà nước và thích ứng của doanh nghiệp. Đây rõ ràng là một cơ hội lớn khi biết rằng chúng ta đã ở trong một thời gian dài các hoạt động xuất nhập khẩu và uỷ thác xuất nhập khẩu chỉ tập trung quanh những nước Đông Âu cũ và phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách phân bổ theo hạn ngạch của Nhà nước. Còn hiện nay, cơ hội cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, giữa các thành phần kinh tế được phép tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hay uỷ thác tạo nên một sự cạnh tranh bình đẳng có lợi cho doanh nghiệp. Khả năng nhận thức và nắm bắt những luật lệ thương mại quốc tế được cập nhật thường xuyên giúp doanh nghiệp hoà cùng với xu thế hội nhập của thế giới. Lợi Ých kinh tế thể hiện thật rõ khi chóng ta nhận thấy rằng các hoạt động xuất nhập khẩu và uỷ thác xuất nhập khẩu là một động lực tác động vào sự phát triển kinh tế, sử dụng những đồng ngoại tệ quý giá qua hoạt động xuất khẩu để nhập những máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Đồng thời nhập những nhu yếu phẩm thiết yếu cho nhu cầu của nhân dân mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng được. Thật vậy, sự chuyên nghiệp hoá trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tập trung vào hoạt động kinh doanh và uỷ thác cho các doanh nghiệp chuyên môn thực hiện trên cơ sở phân chia lợi nhuận thích hợp và cũng như việc kiểm soát một số những mặt hàng nằm trong danh mục do nhà nước quản lý liên quan đến an ninh – trật tự xã hội. * Quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với hội nhập quốc tế : Vấn đề hội nhập quốc tế dã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Trong các nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước đã chỉ rõ : “Chỳng ta cần phải hội nhập. Trước hết là vì toàn cầu hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ, muốn không bị tụt hậu chúng ta phải hội nhập. Hội nhập quốc tế thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, khai thác hết tiềm năng của đất nước về con người và tự nhiên; được hưởng ưu đãi, chiếu cố về vấn đề chuyển giao công nghệ và thậm chí cả quan thuế; tạo điều kiện góp phần đảm bảo an ninh quốc gia. Sau đó là vì Việt Nam đang cần có yếu tố nước ngoài”. (Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX) Xột trên hoạt động kinh tế đối ngoại Đảng và Nhà nước ta đang tranh thủ sự phát triển khoa học công nghệ áp dụng vào điều kiện của Việt nam theo chủ trương “đi tắt đón đầu”. Đặc biệt khái niệm kinh tế tri thức xuất hiện không những chỉ trên thế giới mà ngay ở cả Việt nam. Điều này giúp cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá sớm thành công mà trong đó hoạt động xuất nhập khẩu và uỷ thác xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong nhiệm vụ này. Ngay trong nghị quyết Trung ương VIII và IX, Đảng ta cũng nhấn mạnh khai thông quan hệ và phát triển các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, các chính phủ phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Điều quan trọng hơn cả chính là sự phát huy sức mạnh nội lực của con người Việt nam qua các hoạt động giao thương. Chính sách hiện nay của chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu và đú chớnh là nhiệm vụ trọng tâm mà chúng ta cần thực hiện. *Tiến trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực và thế giới Tiến trình hội nhập của Việt nam mới được bắt đầu bằng việc Việt Nam tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) ngày 25/7/1995. ASEAN đang có những đóng góp hết sức quan trọng vào tiếng nói chung của cộng đồng quốc tế vì hoà bình và hỗ trợ cùng nhau phát triển kinh tế. Trên tinh thần đú, cỏc quốc gia ASEAN đã và đang là đối tác xuất nhập khẩu quan trọng của Việt nam chiếm trên 30% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với thế giới. Đặc biệt những chương trình chuyển giao công nghệ đang tiếp tục đi vào cuộc sống chớnh bởi vì sự tương đồng và gần gũi mà Việt nam đang tranh thủ khai thác và tận dụng. Đối với Việt Nam, khi tham gia tổ chức này chúng ta đã cam kết thực hiện đầy đủ với tư cách là thành viên và tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA- Asean Free Trade Area) thông qua chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT- Common Effective Perential Tariff). Việt Nam thực hiện CEPT từ 01/01/1996 và kết thúc vào năm 2006 với mục tiêu cắt giảm thuế quan cho phần lớn các mặt hàng nông sản xuống còn 0-5% và loại bỏ các biện pháp phi thuế quan. Việc tham gia thực hiện CEPT đã được Uỷ ban thường vụ quốc hội chính thức phê chuẩn vào cuối năm 1995 và thông qua một số nguyên tắc chủ đạo để xây dựng danh mục hàng hoá tham gia CEPT. Các danh mục hàng hoá này đã được đệ trình cho ASEAN tháng 12 năm 1995. Theo lịch trình CEPT, Việt Nam đã xây dựng các danh sách danh mục hàng hoỏ dựa trờn cơ sở gốc của biểu thuế nhập khẩu là: - Danh mục loại trừ hoàn toàn (được xây dựng phù hợp với điều 9 của CEPT). - Danh mục cắt giảm ngay. - Danh mục loại trừ hoàn toàn. - Danh mục hàng nhậy cảm. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN VI tháng 12/1997 đã đưa ra một số nội dung nhằm đẩy nhanh thực hiện AFTA. Đối với Việt Nam thì thời hạn hoàn thành vẫn không thay đổi là năm 2006, nhưng sẽ thực hiện tối đa dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2003 và tối đa dòng thuế suất 0% vào năm 2006. Như vậy, Việt Nam gia nhập ASEAN là hoàn toàn phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay. Sự hợp tác chuyên ngành thường xuyên được củng cố và phát triển đặc biệt là hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN, đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng ASEAN phát triển đồng đều, tạo thêm thế và lực mới cho Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam hội nhập quốc tế còn được đánh dấu bằng việc trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC- Asia Pacific Economic Co-operation) tháng 11/1998. Gia nhập APEC là một mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, nó thể hiện sự tin tưởng của các quốc gia đối với công cuộc đổi mới, đối với nền kinh tế thị trường đang chuyển mình của Việt Nam. Tham gia vào APEC, Việt Nam phải tham gia vào chương trình tự do hoá thương mại và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư với mốc hoàn thành là năm 2020 (vì Việt Nam là nước đang phát triển), tham gia vào các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật … Khác với ASEAN, APEC là tổ chức có nhiều thành viên có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Canađa … là cơ hội tốt để Việt Nam có thể hợp tác song phương lẫn đa phương, đặc biệt là về kinh tế và thương mại. Với tư cách là thành viên APEC, Việt Nam đã và đang chuẩn bị rất tích cực các điều kiện, triển khai thực hiện các chương trình của tổ chức, đảm bảo cho việc tham gia có hiệu quả. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã được ký kết giữa chính phủ hai nước đã mở đường cho Việt nam trong tiến trình đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà chính phủ ta đang cố gắng để trở thành thành viên chính thức vào năm 2004. Tóm lại, tiến trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới và với việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức, các diễn đàn và chế định quốc tế là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, hoàn toàn là quá trình cải cách thể chế của toàn bộ nền kinh tế xuất phát từ đòi hỏi của bản thân nền kinh tế nội địa. Những nỗ lực này của Việt nam đã thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu nói chung ngày càng phát triển mạnh mẽ. b. Sự thích ứng của pháp luật Việt Nam. Pháp luật là hệ thống các quy tắc ứng xử do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện bằng ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là sự thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng thành các quy định chung thống nhất trên quy mô toàn quốc. Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì nền kinh tế quốc dân không được thừa nhận là nền sản xuất hàng hoá mà là một nền kinh tế hiện vật và xã hội hoá trực tiếp trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung cao độ. Quản lý vĩ mô kinh tế và quản lý vi mô kinh tế được hoà vào làm một. Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là trung tâm quyền lực chính trị, vừa là chủ sở hữu duy nhất đối với tuyệt đại đa số các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì vậy Nhà nước vừa là chỉ huy, vừa là người trực tiếp tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế đó, pháp luật chủ yếu nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước. Đại hội Đảng IX năm 2001 đã phát huy thành công của các đại hội VI, VII, VIII trên cơ sở phát triển thêm nền kinh tế gồm 6 thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo sự định hướng của XHCN. Đó là sự đảm bảo dân chủ trong hoạt động kinh tế, sự bình đẳng cùng có lợi giữa các thành phần kinh tế trong hợp tác và cạnh tranh, thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu và quyền tự do cụng dõn… Yêu cầu trực tiếp đặt ra là Nhà nước không can thiệp thô bạo và sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế mà bằng chính sách lớn và pháp luật tạo ra môi trường lành mạnh, một hành lang vững chắc để các quan hệ kinh tế được xây dựng và thực hiện theo nguyên tắc tự do, bình đẳng cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình theo pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay khi toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì pháp luật lại càng có vai trò quan trọng, quyết định và đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế của quốc gia đú cú thành công hay không. Bởi vì pháp luật là công cụ để Nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Việt Nam gia nhập ASEAN và thực hiện CEPT từ tháng 1/ 1/ 1996 đến tháng 1/ 1/ 2006 theo đó Việt Nam đang cắt giảm dần thuế nhập khẩu với các mặt hàng theo danh mục của CEPT để đến năm 2006 thuế nhập khẩu AFTA chỉ còn 0%-5%. Luật thuế giá trị gia tăng (VAT) đã có hiệu lực từ ngày 01/ 1/ 2000 thay thế Thuế doanh thu là một bước chuyển đổi căn bản hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và phù hợp với Luật thuế của các nước trong khu vực như Singapore, Inđụnờsia… Từ năm 1990 đến nay Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi và bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tạo điều kiện để Việt nam trở thành môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn với các nhà đầu tư quốc tế. Luật thương mại (5-1997) có quy định hàng loạt chính sách đối với từng loại hình doanh nghiệp, trong đó vẫn dành ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo vai trò chủ đạo của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Với chính sách ngoại thương là khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của pháp luật, có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại, luật thương mại đã thể hiện được đường lối, dịnh hướng đẩy mạnh xuất khẩu của Đảng ta. Cụ thể hoá những quy định trong luật thương mại, chính phủ và Bộ thương mại đã ban hành nhiều nghị định và thông tư. Nghị định số 57-1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998 của Chính phủ, Thông tư số 18-1998/TT-BTM ngày 28/08/1998 của Bộ thương mại, tiếp theo đó là Nghị định số 44-2001/NĐ-CP ngày 02/08/2001 của Chính phủ (sửa đổi, bổ xung một số điều của Nghị định số 57-1998/NĐ-CP) và Thông tư số 20-2001/TT-BTM ngày 17/08/2001 của Bộ thương mại đã đánh dấu một bước chuyển biến mới trong chính sách ngoại thương của Đảng và Nhà nước ta. Đó là việc cho phép và khuyến khích tất cả các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động XNK theo quy định của pháp luật. Những quy định trên đây phù hợp với xu hướng tự do hoá ngoại thương –xu hướng tất yếu của một nền kinh tế mở. Tự do hóa ngoại thương là gạt bỏ những trãi buộc gây trở ngại đối với các hoạt động XNK, tạo điều kiện cho quy luật cạnh tranh phát huy một cách đầy đủ. Tóm lại sự thích ứng của pháp luật Việt Nam đối với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế được ghi nhận bằng sự ra đời của nhiều bộ luật và các văn bản pháp luật khác tạo ra một cơ chế đồng bộ đã điều chỉnh kịp thời các quan hệ kinh tế phát sinh trong cơ chế thị trường. Nội dung các văn bản pháp luật này đã tạo cho các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng như các hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động này. Tuy nhiên, để đảm bảo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thu được hiệu quả, về mặt pháp luật, bên cạnh việc kịp thời sửa đổi, bổ xung và thay thế những văn bản pháp luật bất cập như thời gian qua, cần phải xác lập và phát triển ngành luật so sánh vì tình trạng kém hiểu biết pháp luật nước ngoài ở nước ta là khá phổ biến, điều này sẽ rất bất lợi khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Mặt khác cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật của nước ta ra nước ngoài, đặc biệt là pháp luật về đầu tư nước ngoài để các nhà đầu tư tin tưởng và mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam. 2. Xu hướng phát triển của chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu Trong giai đoạn hiện nay, khi mà pháp luật thương mại có quy định thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nếu có nhu cầu XNK hàng hoá phù hợp với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đú thỡ họ có quyền trực tiếp tiến hành hoạt động này. Mặt khác các rào cản phi thuế quan đang dần dần được loại bỏ cùng với việc giảm dần mức thuế quan theo như cam kết với các tổ chức kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó là việc Nhà nước đang có những biện pháp tích cực nhằm khuyến khích XNK … Trong điều kiện như vậy chúng ta phải đặt câu hái : Xu thế của uỷ thác XNK trong nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển như thế nào? Như đã phân tích ở Chương I, phần II thì mặc dù uỷ thác XNK hình thành từ chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, gắn liền với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và đến nay cơ chế này không còn nhưng không có nghĩa là khi chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương mất đi thì uỷ thác XNK sẽ không còn tồn tại, vì uỷ thác XNK hiện nay đã mang một nội dung mới, bản chất là hành vi hỗ trợ cho việc mua bán hàng hoá với nước ngoài. Nú khụng đơn thuần chỉ nhằm thực hiện kế hoạch của nhà nước hay không phải là do đơn vị này có nhu cầu XNK hàng hoá mà không đủ điều kiện tham gia vào hoạt động XNK và uỷ thác mà ở bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác ký kết hợp đồng uỷ thác XNK, nhập khẩu hoàn toàn tự nguyện và vì mục tiêu lợi nhuận. Ta có : Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí (*) Từ (*) ta thấy nếu chi phí tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại (trong trường hợp doanh thu không đổi). Do đó trong cơ chế thị trường các đơn vị kinh tế đều tìm mọi cách để giảm chi phí. Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh có nhu cầu và có quyền XNK thì họ sẽ tính toán xem khi họ trực tiếp tiến hành XNK thì họ phải bỏ ra chi phí là bao nhiêu (Giả sử là C1) và khi uỷ thác XNK lô hàng thì họ phải bỏ ra bao nhiêu chi phí (Giả sử là C2). Nếu C1 > C2 thì chắc chắn doanh nghiệp sẽ tiến hành uỷ thác điều đó có nghĩa là không phải sau khi Nghị định 57-1998/NĐ-CP ra đời cho phép thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh XNK trực tiếp hàng hoá phù hợp với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì uỷ thác XNK không tồn tại. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay hay trong bất kỳ nền kinh tế nào, không phải mọi đơn vị kinh tế đều có khả năng tham gia vào hoạt động XNK hàng hoá do luật lệ và tập quán thương mại quốc tế cũng như thị trường quốc tế có nhiều phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề như bạn hàng, bảo hiểm, thanh toán quốc tế, vận tải quốc tế… Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường các đơn vị kinh tế tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thường là chuyên môn hoá. Nếu như doanh nghiệp xuất nhập khẩu không chuyên môn thì không thể nắm bắt được hết mọi vấn đề thuộc về kỹ thuật XNK thì họ sẽ gặp không Ýt khó khăn. Chính vì vậy khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu phải uỷ thác thông qua doanh nghiệp mang tính chuyên môn hoá cao để giảm bớt các chi phí cũng như để đảm bảo chất lượng công việc. Bên nhận uỷ thác là người thường xuyên tiến hành hoạt động XNK nên họ nắm vững luật lệ, tập quán thương mại quốc tế, họ có nhiều kinh nghiệm trong việc giảm tối đa chi phí đối với hoạt động này. Hợp đồng uỷ thác XNK được ký kết cũng có nghĩa là bên nhận uỷ thác thấy họ có thể thu được một khoản chênh lệch giữa phí uỷ thác mà bên uỷ thác trả cho họ so với những chi phí mà họ bỏ ra để thực hiện việc XNK theo uỷ thác. Như vậy, việc uỷ thác sẽ làm lợi cho cả hai bên, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Cỏc Mỏc. Ông cho rằng nhà tư bản thương nghiệp chuyên mua bán, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, tiết kiệm được phí lưu thông, chu chuyển hàng hoá nhanh hơn nên có lợi cả cho người sản xuất hơn là người sản xuất tự đi bán hàng của mình. Bên cạnh đó trong một số lĩnh vực dưới sự điều hành của Nhà nước vẫn còn tồn tại những ngành, mặt hàng chịu sự quản lý của chính phủ liên quan đến an ninh quốc phòng ổn định kinh tế – xã hội cần có sự kiểm soát chặt chẽ và nắm bắt kịp thời các hoạt động này. Chính vì thế hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu thường tập trung vào các doanh nghiệp có uy tín cũng như có tiềm lực về vốn và kinh nghiệm thuộc cơ quan trọng yếu của chính phủ. Những đơn vị này sẽ đại diện trong vấn đề giao dịch, đàm phán cho đến khi hàng nhập về Việt nam, thực hiện công việc xuất nhập khẩu trong diện quản lý của Nhà nước. 3. Một số kiến nghị về chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu trong điều kiện thương mại hiện nay Uỷ thác xuất nhập khẩu bên cạnh là hoạt động dịch vụ thương mại được tiến hành bởi các thương nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật là hoạt động thu lợi nhuận, còn là hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu, đến thương mại quốc tế. Mặt khác, tiến trình hội nhập của nền kinh tế Việt nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới đang được đẩy mạnh thì phải có cơ chế như thế nào để sự tồn tại của uỷ thác xuất nhập khẩu đem lại hiệu quả cao. a. Về phía nhà nước: Nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc và thông thoáng cho các đơn vị hoạt động trên lĩnh vực uỷ thác xuất nhập khẩu. - Nhà nước cần đưa ra các văn bản phù hợp với từng thời kỳ, phù hợp với xu thế hội nhập, giao lưu với thế giới. Những văn bản, chính sách phải đáp ứng được tính công bằng cho cả doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp ngoài nước cũng như các doanh nghiệp quốc tế. - Nhà nước cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và trang bị kiến thức cho đội ngò công chức tham gia công tác xuất nhập khẩu. Ở đây, chúng ta hiểu rằng đội ngò công chức chính là những người thực thi pháp luật, tác động trực tiếp vào hoạt động xuất nhập khẩu theo chủ trương của Nhà nước. Cũng chính đội ngò cán bộ công chức đóng vai trò rất quan trọng trong việc tác động đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Vì chúng ta đang cần nhập khẩu những nguyên liệu phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được, máy móc thiết bị hiện đại để sản xuất ra những mặt hàng tiêu dùng và hàng nhập khẩu. Cơ sở vật chất ở đây chính là: cảng, bến tàu, sân bay, biên giới, kho trạm hải quan, ... là những nơi phục vụ cho các công tác giao nhận hàng, bốc dỡ hàng. Những chi phí và những điều kiện thuận lợi phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu sẽ tác động rất lớn đến môi trường đầu tư tại Việt nam. Đặc biệt với vị trí giao thông của Việt nam như một trung tâm giao thương Đụng - Tõy sẽ chắc chắn giúp chúng ta thu lợi qua các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. * Cải cách thuế và các thủ tục hải quan: Biểu thuế xuất nhập khẩu mà Nhà nước ban hành dự cú chi tiết nhưng chưa thực sự bao trùm hết các vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tế và còn nhiều sơ hở khi đưa ra áp dụng. Vì vậy một số đơn vị lợi dụng tình hình này để trèn thuế gây thất thoát cho ngân sách nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc. Bản thân nhân viên trong ngành khi đánh thuế cũng không nắm rõ được mặt hàng cần đánh thuế thuộc nhóm hàng nào vì vậy đã đánh thuế trên cơ sở chủ quan, gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và có khi lại gây thất thu cho nhà nước. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh kêu ca rằng luật thuế nói chung ở Việt nam cũn khỏ chồng chéo, chưa thống nhất và có phần đối lập, đặc biệt là luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Có mặt hàng bị đánh thuế tới 2 dến 3 lần gây bất lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này. Chính vì vậy Nhà nước cần phải minh bạch hơn những vấn đề liên quan đến thuế, cần có sự sửa đổi luật thuế sao cho đơn giản, rõ ràng, phù hợp với tình hình mới tránh tình trạng thuế chồng chéo, khuyến khích hoạt động kinh doanh trong nước tạo điều kiện cho phát triển hoạt động xuất nhập khẩu. Thủ tục hải quan là thủ tục phiền hà, rắc rối và dễ gây tiêu cực nhất, chính vì vậy Nhà nước và các cơ quan chức năng nờn cú những biện pháp làm đơn giản thủ tục cấp giấy xuất nhập khẩu. Có thể ban hành một số văn bản cải tiến và giảm bớt một số thủ tục như chờ đợi làm thủ tục nhập khẩu có thể rút ngắn hơn nữa thay vào việc phải chờ đợi ba ngày như hiện nay. Hiện nay, tại một số thành phố lớn đã bắt đầu tiến hành cơ chế “một cửa một dấu”, như vậy sẽ tạo điều kiện giao dịch dễ dàng hơn và thời gian chờ đợi làm thủ tục sẽ nhanh chóng hơn. Chính vì vậy nên mở rộng hơn nữa cơ chế này để giảm thời gian làm thủ tục trong vài giê. Ngoài ra các cơ quan có thẩm quyền như Tổng cục hải quan cần có những biện pháp cụ thể, cải cách lại cơ cấu tổ chức, thủ tục hành chính để tránh tình trạng hàng hoá nhập về bị kiểm tra quá nhiều lần, nhân viên hải quan sách nhiễu. Điều quan trọng là Tổng cục hải quan và Bộ thương mại cần có sự phối hợp trong việc ban hành các văn bản quản lý sao cho thống nhất và kịp thời. Đồng thời nên trang bị những máy móc, thiết bị kiểm tra hiện đại hơn để giảm bớt thời gian kiểm tra hàng hoá, công việc tiến hành kiểm tra sẽ chính xác hơn. Nên thường xuyên tổ chức những líp học nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngò nhân viên hải quan. Điều này giúp cho cán bộ hải quan kịp thời nắm bắt, cập nhật được những chủ trương, chính sách của Đảng và những quy định của pháp luật trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. * Cải cách việc cấp hạn ngạch, cấp giấy phép: Trong chính sách hội nhập, việc giảm thuế sẽ buộc các Nhà nước phải có biện pháp phi thuế quan để hạn chế xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Hạn ngạch là một trong những biện pháp này. Chẳng hạn như trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào EU, liên minh EU đã sử dụng hạn ngạch một số mặt hàng để ra điều kiện Ên định hạn ngạch nhập khẩu cho Việt nam. Trên cơ sở đó Bộ thương mại sẽ phân bổ hay đấu thầu tùy theo mục đích cũng như quy định. Trước đây, chế độ cấp hạn ngạch được quy định bởi Quyết định số 276/CP ngày 06- 10- 1989 của Chủ tịch HĐBT, những quy định trong đó có rất nhiều điều chưa hợp lý, tạo nên một thị trường đen xung quanh việc cấp quota. Hiện nay, Nhà nước đã tổ chức bán đấu giá hạn ngạch xuất nhập khẩu công khai để những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu và khả năng đứng ra mua quota, để tạo ra thị trường cạnh tranh công bằng. Việc làm này đồng thời tăng thu ngân sách cho Nhà nước cũng như tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp nhà nước cũng như tư nhân đều có thể tham gia. Vấn đề là cần phải có những quy định chặt chẽ hơn nữa, đặc biệt là khõu xột chọn nhà thầu. b. Về phía doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh tham gia vào hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu: Để có thể tham gia tốt vào hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu thì trước hết bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác cần phải có đội ngò cán bộ thực sự có đủ trình độ, đặc biệt là nhận uỷ thỏc vỡ họ còn phải tham gia giao dịch ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương. Do đó cần phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bằng việc thường xuyên cử cán bộ đi học cỏc lớp ngắn hạn hoặc dài hạn để nâng cao nghiệp vụ cũng như kiến thức pháp lý. Cần phải đầu tư cơ sở vật chất cũng như những thiết bị thông tin liên lạc để phục vụ công tác giao dịch với khách hàng và đối tác được nhanh chóng và thuận tiện nhất. Đồng thời giúp cho đội ngò cán bộ làm xuất nhập khẩu cũng cập nhật được những thông tin thị trường thường xuyên. Có như vậy mới từng bước hoàn thiện công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường cũng như giữ chữ tín đối với bạn hàng nước ngoài ... Mặt khác, sự tồn tại của doanh nghiệp uỷ thác xuất nhập khẩu phụ thuộc vào bên nhận uỷ thác, do đó các doanh nghiệp nhận uỷ thác cần phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình để giữ vững mối quan hệ với bên nhận uỷ thác, thúc đẩy hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu phát triển. Đồng thời các doanh nghiệp nhận uỷ thỏc nờn khai thác lợi thế của mình để mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu với các doanh nghiệp quốc tế, khai thác thêm nhiều cơ hội để mở rộng hơn nữa các dịch vụ của mình. Trên đây là một số kiến nghị đối với nhà nước trong việc quản lý đối với hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu cũng như thúc đẩy hoạt động này phát triển. Kiến nghị đối với bản thân cỏc bờn tham gia vào hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu, đặc biệt là bên nhận uỷ thác, nhằm hướng cho các bên có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Tuy những kiến nghị trờn cũn nhiều thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng được góp tiếng nói của mình sau khi nghiên cứu vấn đề uỷ thác xuất nhập khẩu. Kết luận Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu ta thấy đây là một chế độ được hình thành từ trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, khi Nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương. Nhưng trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, thì uỷ thác xuất nhập khẩu có tồn tại nữa hay không. Nếu có thì cần phải có cơ chế nào để sự tồn tại của nó đem lại hiệu quả. Đây là nội dung trọng tâm mà chúng tôi muốn đề cập đến. Theo chúng tôi, sự tồn tại của uỷ thác xuất nhập khẩu là có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc. Mặc dù hiện nay, Nhà nước cho phép thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hoá theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nhưng không phải vì thế mà uỷ thác xuất nhập khẩu không tồn tại nữa vì hiện nay nú đó mang một nội dung hoàn toàn mới so với uỷ thác xuất nhập khẩu trước đây là nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. Đó là hành vi thương mại với bản chất là hành vi hỗ trợ cho việc mua bán hàng hoá với nước ngoài. Như vậy uỷ thác là một bộ phận không thể thiếu của hoạt động thương mại trong điều kiện thương mại hiện nay, khi mà bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác đều tìm thấy yếu tố lợi Ých khi tham gia vào quan hệ này. Hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu muốn tồn tại mà đem lại hiệu quả cần phải có sự điều chỉnh chặt chẽ hơn nữa của pháp luật. Cùng với luật thương mại (5 –1997) Bộ luật dân sự (10- 1995) và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số 57 –1998/NĐ-CP ngày 31/ 07/ 1998, Nghị định số 44-2001/ NĐ-CP ngày 02/ 08/ 2001 (sửa đổi, bổ xung một số điều của Nghị định số 57-1998/NĐ-CP) quy định chi tiết thi hành luật thương mại và thông tư số 18- 1998/TT-BTM ngày 28/ 08/ 1998, hướng dẫn nghị định 57 và Thông tư số 20-2001/TT-BTM ngày 17/08/2001 thì luật kinh tế, mà cụ thể là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25- 9- 1989 và các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ trực tiếp điều chỉnh hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là cần phải sửa đổi thêm và thay thế Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25- 9- 1989 và các văn bản hướng dẫn thi hành vỡ nú đó thể hiện những bất cập so với đặc điểm của hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung. Tóm lại, uỷ thác xuất nhập khẩu tồn tại trong điều kiện thương mại Việt nam hiện nay là phải phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế, nó thể hiện được quyền tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, VI, VII, VIII, IX Hiến pháp 1980 Hiến pháp 1992 Bộ luật Dân sự ngày 28- 10- 1995 Luật thương mại ngày 10- 05- 1997 Luật doanh nghiệp ngày 12- 06- 1999 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam ngày 12- 11- 1996 Luật thuế doanh thu ngày Luật thuế giỏ trị gia tăng (VAT) ngày Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25- 09- 1989 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16- 11- 1990. Hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh HĐ Kinh tế. Nghị định số 44 –1998/NĐ-CP của Chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp. Nghị định số 48- 1998/NĐ-CP ngày 11- 7- 1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định số 57-1998/NĐ-CP ngày 31- 7- 1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Nghị định số 44-2001/NĐ-CP ngày 02 -8- 2001 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ xung một số điều của Nghị định số 57-1998/NĐ-CP. Thông tư số 18- 1998/TT-BTM ngày 28- 8- 1998 của Bộ thương mại hướng dẫn thực hiện Nghị định số 57- 1998/NĐ-CP ngày 31- 7- 1998 của Chính phủ về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Thông tư số 20- 2001/TT-BTM ngày 17- 8- 2001 của Bộ thương mại hướng dẫn thực hiện Nghị định số 44- 2001/NĐ-CP ngày 02- 8- 2001 của Chính phủ. Thông tư số 03-BNgT/XNK ngày 11- 01- 1989 của Bộ ngoại thương quy định về uỷ thác xuất nhập khẩu. Quyết định số 1172 –TM/XNK ngày 22- 9- 1994 của Bộ trưởng Bộ thương mại ban hành quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước. Quyết định 381 –TM/XNK ngày 06- 05- 1996 của Bộ trưởng Bộ thương mại sủa đổi quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước , ban hành kèm theo quyết định 1172-TM/XNK ngày 22- 9- 1994. Giáo trình Luật Kinh tế Trường Đại học Ngoại thương Hà nội Tạp chí Luật học Tạp chí Thương mại Tạp chí kinh tế Châu á - Thái Bình Dương Tạp chí An ninh kinh tế và kinh tế thị trường Báo Pháp luật Báo cáo tổng kết kim ngạch XNK uỷ thác của công ty Tradevico ngày 20/ 10/ 2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 71.doc
Tài liệu liên quan