Chuyên đề Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng công thương Thanh hóa

Đến đây, do những hạn chế nhất định mà quan trọng nhất là thời gian để hoàn thành bài chuyên đề này cũng đã tới. Như vậy sau một thời gian nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng công thương Thanh Hóa về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Hương Lan em cũng đã mở mang thêm rất nhiều kiến thức bổ ích, đặc biệt là tri thức về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Qua quá trình nghiên cứu và thực tập viết chuyên đề em càng thấy yêu quí hơn nghề Ngân hàng, càng thấy sự quan trọng của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, của nền kinh tế, lợi ích to lớn cũng như những mạo hiểm, rủi ro có thể xẩy ra khi cho vay. Trong bài chuyên đề này em cũng đã xuất phát từ thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng công thương Thanh Hóa và được sự giúp đỡ rất nhiều của các cán bôn Ngân hàng công thương Thanh Hóa, em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng công thương Thanh Hóa, những kiến thức trong trường lớp và đặc biệt là những kiến thức mà em có được trong quá trình thực tập sẽ giúp ích em rất nhiều trong công việc.

doc74 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng công thương Thanh hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắn hạn 221.226 49,98% 360.018 56,48% 481.956 56,96% Dư nợ trung dài hạn 209.692 47,37% 294.466 46,19% 329.441 38,93% Dư nợ khác 11.743 2,65% 17.030 2,67% 34.788 4,11% Tổng dư nợ 442.661 637.454 846.185 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2000, 2001, 2002) Qua bảng trên, ta có thể thấy quy mô cho vay trung dài hạn của Chi nhánh ngày càng được mở rộng và phát triển cùng với sự tham gia vay vốn của nhiều khách hàng lớn như: Nhà máy mía đường Lam Sơn, Nhà máy Xi măng Nghi Sơn, Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, C.ty xuất nhập khẩu Thanh Hoá, C.ty may Việt Thanh... Đây chính là nguyên nhân dẫn đến doanh số cho vay trung dài hạn tăng lên hàng năm. Bên cạnh đó doanh số thu nợ trung dài hạn của Ngân hàng giảm là do các khoản vay thời hạn dài và chỉ mới được giải ngân trong 1-2 năm gần đây. Điều này cũng làm cho tổng dư nợ tăng lên. Những khách hàng lớn của Ngân hàng có dư nợ lớn là các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất có hiệu quả như: Nhà máy mía đường Lam Sơn, Nhà Xi măng Nghi Sơn, Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, C.ty xuất nhập khẩu Thanh Hoá, C.ty may Việt Thanh... Tìm được những dự án cho vay khả thi, thiết lập được mối quan hệ tốt với những khách hàng lớn truyền thống và đạt được những kết quả như trên, ta có thể phần nào khẳng định công tác tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá trong năm 2002 vẫn đạt được kết quả tích cực. * Về cơ cấu tín dụng. Xét cơ cấu tín dụng theo thời hạn cho vay, ta thấy tín dụng ngắn hạn thường xuyên có tỷ lệ cao (trên dưới 56%) và tỷ lệ này không có xu hướng giảm xuống mà còn tăng lên trong năm 2002 (56.96%). Tỷ trọng cho vay trung dài hạn tăng lên từ 46,19% năm 2001 lên 46,38% năm 2002, trong tổng dư nợ tín dụng do dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng nhanh hơn so với ngắn hạn. Việc tập trung cho vay chủ yếu vào các Công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài có mặt hàng và sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao, có khả năng xuất khẩu, có tình hình tài chính lành mạnh là nguyên nhân làm cho dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng nhanh và đó là một điều đáng khích lệ, thể hiện sự cố gắng vượt bậc của Chi nhánh NHCT Thanh Hoá. Xét theo cơ cấu loại tiền vay, tình hình hoạt động tín dụng trung dài hạn diễn ra như sau: Bảng IV: Cơ cấu tín dụng phân loại theo tiền vay Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Tổng dư nợ TDH 209.692 249.466 329.411 Cho vay bằng ngoại tệ quy vnĐ 22.081 10,53% 9.031 3,62% 7.412 2,25% Cho vay bằng VNĐ 187.611 89,47% 240.435 96,38% 321.999 97,75% (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh 2000, 2001, 2002) Tại thời điểm 31/12/2002, dư nợ tín dụng trung dài hạn đạt 329.411 triệu đồng, tăng 79.945 triệu đồng so với năm 2001. Trong đó dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ chỉ đạt 7.412 triệu đồng, giảm 1.619 triệu đồng so với năm 2001. Nguyên nhân của việc dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ giảm mạnh là do việc điều chỉnh lãi suất của NHCT, lãi suất cho vay giảm đã khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn bằng VNĐ thay vì bằng ngoại tệ. Mặt khác các doanh nghiệp khi vay vốn bằng ngoại tệ có tâm lý sợ rủi ro do biến động tỷ giá nên thích vay VNĐ để mua ngoại tệ mặc dù về tỷ giá ít được Ngân hàng xem xét khi thẩm định dự án đầu tư. Đây cũng là một thiếu sót trong quy trình thẩm định cho vay ở Ngân hàng công thươngThanh Hoá. * Xét cơ cấu tín dụng theo đối tượng cho vay. Bảng V: Cơ cấu tín dụng trung dài hạn theo đối tượng cho vay Đơn vị: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Tổng dư nợ 442.661 637.454 846.185 Doanh nghiệp quốc doanh 277.458 76,67% 389.675 61,13% 537.327 63,5% Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 165.113 23,33% 247.779 38,87% 308.858 36,5% Tổng dư nợ TDH 209.692 294.466 329.411 Doanh nghiệp quốc doanh 166.705 79,5% 229.359 77,89% 264.615 80,33% Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 42.987 20,5% 65.107 22,11% 64.796 19,67% (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh 2000, 2001, 2002) Khách hàng của Ngân hàng công thương Thanh Hoá bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau như: Doanh nghiệp Nhà nước; Hợp tác xã; Công ty liên doanh; Tư nhân và các tổ chức nước ngoài ở Việt Nam. Cho vay khu vực kinh tế Nhà nước chủ yếu tập trung vào cho vay các dự án khả thi, hiệu quả của các Công ty lớn như: Nhà máy mía đường Lam Sơn, Nhà Xi măng Nghi Sơn, Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, C.ty xuất nhập khẩu Thanh Hoá, C.ty may Việt Thanh... Sau sự chững lại của năm 2001, dư nợ tín dụng đối với khu vức quốc doanh năm 2002 lại có xu hướng tăng lên, đạt 537.327 triệu đồng, tăng 197.989 triệu đồng so với năm 2000. Đồng thời, dư nợ cho vay trung dài hạn cũng tăng ở cả hai khu vực với mức tăng ở khu vực quốc doanh là 166.705 triệu năm 2000 lên 264.615 triệu năm 2002; khu vực ngoài quốc doanh là 42.987 triệu năm 2000 lên 64.796 triệu năm 2002. Nhìn vào bảng trên ta thấy năm 2002, tỷ trọng dư nợ trung dài hạn khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sự giảm sút so với năm 2000 (từ 20,5% xuống còn 19,67%)... Nguyên nhân là do một số thực trạng của nền kinh tế như: môi trường pháp lý chưa đồng bộ, hiện tượng giảm phát kéo dài khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh đã khiến Ngân hàng không tìm kiếm được nhiều dự án khả thi để cho vay, bên cạnh đó là chính sách tập trung cho vay trung dài hạn theo hướng: Đầu tư trọng điểm cho các dự án quốc gia của các Công ty, các Doanh nghiệp lớn với phương châm an toàn, hiệu quả. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa cao là một điều mà Ngân hàng cần phải khắc phục và mở rộng bởi bộ phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh là bộ phận năng động và có một vị thế đáng kể trong nền kinh tế. Bảng phân tích tình hình đầu tư kinh doanh khác của chi nhánh Ngân hàng công thương thanh hóa Đơn vị: Triệu VNĐ Thời kỳ Chỉ tiêu 30/6/00 31/12/00 30/6/01 31/12/01 Quý I /02 1. Tổng tài sản có 916.366 1.001.561 1.079.150 1.183.136 1.263.698 2. Tổng nguồn vốn huy động. 811.536 859.435 964.165 1.079.106 1.138.083 3. Đầu tư kinh doanh khác. 30.552 29.181 20.102 20.904 32.521 4. Tổng đầu tư kinh doanh khác trên tổng nguồn huy động. 3,76% 3,40% 2,08% 1,94% 2,86% 5. Tổng đầu tư kinh doanh khác trên tổng tài sản có. 3,33% 2,91% 1,86% 1,77% 2,57% Ngân hàng bị ứ đọng vốn, không cho vay và đầu tư được. Nên ngân hàng cần mở rộng nhiều loại hình mở rộng nhiều loại hình dịch vụ và đầu tư vào càc lĩnh vực khác như: Hùn vốn liên doanh, mua tín phiếu kho bạc ...để một mặt giải quyết nguồn vốn ứ đọng và phân tán rủi ro kinh doanh . - Chỉ số 2 tổng dư nợ trên tổng tài sản có: dao động giảm dần từ 48,88% đến 45,45% nhưng các loại hình dịch vụ và đầu tư kinh doanh khác không có nhiều (chiếm tỷ lệ nhỏ) vì vậy nguồn vốn bị ứ đọng. Độ chênh lệch giữa chỉ số 1 và chỉ số 2 không nhiều, nhưng khả năng huy động lại lớn, chứng tỏ ngân hàng bị ứ đọng vốn nhiều. - Chỉ số 3: Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dự nợ đều nhỏ hơn 5% chứng tỏ khả năng đánh giá, phân tích không khả năng trả nợ của khách hàng. Nhưng do do tỷ lệ dư nợ tín dụng thấp, nên chỉ số này thấp là hợp lý. Vào quý I năm 2002 chỉ số này nhích lên là do biến động về tiền tệ, khả năng tăng tưởng thấp của nền kinh tế tác động Tổng dư nợ của chi nhánh tăng liên tục từ 31/12/00 đến tháng 3/2002 và triển vọng còn tăng nữa do thực hiện một số nghiệp vụ tín dụng mới như: cho vay trả góp, cho vay tiêu dùng, thanh toán quốc tế, tín dụng thuê mua. Cụ thể như nợ cuối quý I/02 tăng hơn 31/12/01 18.362 triệu (tăng 3,3%, dư nợ tín dụng vào 31/12/01 tăng hơn 30/06/01 27.935 triệu VNĐ( tăng 5,29%, dư nợ tín dụng vào 30/06/01 tăng hơn 31/12/00 38.484 triệu VNĐ(tăng 7,86%), dư nợ tín dụng vào 31/12/00 tăng hơn 30/06/01 29.571 triệu VNĐ( tăng 6,43%) , cuối quý 1/2002 tăng hơn cuối năm 2001: 18.362 triệu VNĐ (+ 3,3 %) , chứng tỏ trong giai đoạn này dư nợ tín dụng tăng thấp nhất trong các giai đoạn khảo sát . Quy mô tín dụng tăng lên đều đặn gắn với chất lượng tín dụng đều tăng là đều đáng mừng (xem đồ thị tỷ lệ dư nợ quá hạn). Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kết quả này là: - Chi nhanh do rút được nhiều kinh nghiệm từ sự đổ vỡ của hệ thống hợp tác xã tín dụng nên cẩn thận hơn trong việc phát tiền vay, kiểm soát chặt chẽ quá trình cho vay, phân tích kỹ tình hình tài chính của khách hàng trước khi cung cấp vốn tín dụng, tích cực giúp đỡ khách hàng giải quyết khó khăn khi nợ đến hạn thanh toán... tất cả các biện pháp trên đã góp phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. - Chi nhánh tồn đọng một nợ khoanh và chờ khoanh rất ít. Đây là kết quả của việc tìm kiếm, tạo cơ chế kinh doanh, mở rộng địa bàn hoạt động, tìm thị trường có hiệu quả. - Dư nợ tín dụng có tỷ lệ thấp so với tổng nguồn vốn huy động, gây ứ đọng vốn không tìm được nguồn đầu ra, giảm sút khả năng sinh lợi của chi nhánh và buộc Chi Nhánh Ngân Hàng phải cho vay điều chuyển vốn nội bộ với lãi suất rất thấp - Sở dĩ có tỷ lệ nợ quá hạn thấp như thế là do mức cung cấp tín dụng của ngân hàng bị hạn chế, không tìm được nguồn ra (đầu ra), gây ứ đọng vốn. Kết quả là, chi nhánh phải điều chuyển vốn gây sút giảm lãi.Có thể do ngân hàng cho vay đảo nợ nhiều lần để chuyển các khoản nợ có vấn đề thành khoản nợ lành mạnh hoặc phân loại nợ không chính xác. Để thấy rõ tình hình nay có thể tham khảo bảng sau: Bảng phân tích tình hình các khoản thu Đơn vi: Triệu VNĐ Thời kỳ Chỉ tiêu 30/6/00 31/12/00 30/6/01 31/12/01 Quý I /02 1. Các khoản phải thu 24.627 24.910 25.615 22.317 26.253 2. Vốn tự có 320 333 570 639 3.878 3. Khoản phải thu trên vốn tự có 76,96 74,80 44,94 34,92 6,77 Tỷ lệ khoản phải thu trên vốn tự có quá lớn là vấn đề quan tâm đối với nhà quản trị. Khoản phải thu có khả năng mất trắng chiếm tỷ lệ bao nhiều là điều phải tính toán. Nhìn nhận thì thấy chi nhánh có tỷ lệ lớn nhưng cũng giảm dần theo các thời kỳ. Tỷ lệ này đánh giá khả năng an toàn của nhà ngân hàng trong việc bảo vệ các khoản tổn thất trong kinh doanh. Tỷ lệ này cao chứng tỏ khả năng bảo vệ của nhà ngân hàng thấp. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi qua các thời điểm (% tháng) Thời gian thực hiện Loại không kỳ hạn Loại có kỳ hạn Ghi chú 01-06-00 0,5 0,95 Tính bình quân 20-06-00 0,5 0,8 31-12-00 0,4 0,77 30-06-01 0,4 0,77 31-12-01 0,4 0,72 Quý 1/02 0,5 0,85 Lãi xuất bình quân qua các giai đoạn (Đơn vị tính %tháng) Thời gian thực hiện Loại không kì hạn Loại có kì hạn Ghi chú 31-12-99 0,7 1,49 Tính bình quân 30-06-00 0,62 1,022 31-12-00 0,4 0,6875 30-06-01 0,4 0,825 31-12-01 0,4 0,675 Quý I/2002 0,475 0.8375 Hiện tại 0,5 0,833 Vì vậy lãi suất bình quân đầu vào của chi nhánh là(% tháng): Thời kỳ Chỉ tiêu 30/ 06/00 31/12/00 30/06/01 31/12/01 QuýI/02 - Không kỳ hạn 211.825 245.021 242.562 271.032 227.741 - Có kỳ hạn, tiết kiệm kỳ phiếu 599.711 614.414 721.603 808.074 910.342 - LSBQ đầu vào 0,917 0,605 0,718 0,606 0,765 Do sự thay đổi lãi suất của ngân hàng nhà nước xuống mức thấp hơn, nhưng do tỷ trọng của tiền gửi tiết kiệm và có kỳ hạn cao nên lãi suất bình quân đầu vào tăng. Vì vậy mà ngân hàng khó khăn trong việc giải quyết đầu ra vì Chi Nhánh phải buộc tăng lãi suất đầu ra. Trong môi trường cạnh tranh bình đẳng cho vay với lãi suất cao tất nhiên Ngân hàng sẽ gạp rủi ro lớn, điển hình là quý I năm 2002 tỷ lệ nợ quá hạn lên cao. Ngân hàng có khả năng huy động vốn lớn: 30/06/00 là 811.536 triệu tăng 5,9%; 30/06/01 là 964.165 triệu tăng 12,18%; 31/12/01 là 964.165 triệu tăng 5,46%. Bình quân qua các thời kỳ tăng 7,27% Đơn vị: Triệu VNĐ Thời kỳ Chỉ tiêu 30/6/00 31/12/00 30/6/01 31/12/01 Quý I/02 1. Vốn tự có 320 333 570 639 3.878 2. Tổng tài sản có 916.366 1.001.561 1.079.150 1.183.136 1.263.698 3. Vốn tự có trên tổng tài sản có. 0,03% 0,03% 0,05% 0,05% 0,31% Chỉ số H1 và H2 của chi nhánh nhỏ hơn con số yêu cầu rất nhiều lần. Trong khi đó, tỷ lệ nợ quá hạn trên vốn tự có rất lớn. Bảng liên hệ giữa nợ quá hạn và vốn tự có Đơn vị: Triệu VNĐ Thời kỳ Chỉ tiêu 30/6/00 31/12/00 30/6/01 31/12/01 Quý I/02 1. Vốn tự có 320 333 570 639 3.878 2. Nợ quá hạn 11.076 12.938 13.056 13.094 19.155 3. NQH/VTC 34,61 38,85 22,91 20,49 5,07 Tuy nhiên, chi nhánh là một đơn vị trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam nên nếu xem xét chi nhánh một cách độc lập thì các chỉ số này không thể chấp nhận được. Chính vì vậy, mà phải nghiên cứu trong mối quan hệ với toàn hệ thống để đánh giá đúng độ an toàn thực sự của chi nhánh. + Phân tích tình hình lập các quỹ ngân hàng. Trong các quỹ của ngân hàng, các nhà quản lý luông đặc biệt chú ý đến việc trích lập và sử dụng 2 quỹ: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng rủi ro. Điều 14 pháp lệnh "Ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính" quy định: - Ngân hàng phải trích 5% trên lợi nhuận ròng để lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Mức tối đa của quỹ do ngân hàng Nhà nước quy đinh (hiện nay Ngân hàng Nhà nước quy định mức tối đa của quỹ là 50% vốn điều lệ). - Ngân hàng phải trích 10% trên lợi nhuận ròng lập quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng rủi ro. Quỹ được lập cho đến khi bằng 100% vốn điều lệ. Sở dĩ không tìm được các số liệu là do ngân hàng là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, nên vốn điều lệ và quản lý nguồn này đều ở ngân hàng Công thương Việt nam, việc lấp và tính các quỹ đều tập trung ở Ngân hàng mẹ. Tuy nhiên, do tính chịu trách nhiệm độc lập của Ban giám đốc. Ngân hàng cũng phái trích lập và sử dụng một số quỹ. Đặc biệt để đảm bảo quyền lợi của nhân viên, Ngân hàng đã trích và lập các quỹ như: quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi và đến Quý I năm 2002 thì ngân hàng đã lập được thêm quỹ đề phòng tổn thất trong kinh doanh. Số dư của quỹ này là: 320 triệu, 333 triệu, 570 triệu, 639 triệu và 3.878 triệu. Tuy nhiên, cần thấy rõ một vấn đề là việc lập và không sử dụng các quỹ gây ra tình trạng khả năng sinh lời giảm. Vì các quỹ này có thể dùng để tái đầu tư. Việc nợ quá hạn tăng đột ngột từ 6.561 triệu lên (tăng 50,11%) làm cho việc trích quỹ tăng đột ngột từ 639 triệu lên 3.878 (tăng 506,89%) nhưng nếu đem toàn bộ quỹ này chia cho dư nợ quá hạn: thì vẫn chưa cao chứng tỏ khả năng bù đắp rủi ro của chi nhánh ngân hàng không tốt trong quý I năm 2002. Còn các thời kỳ trước đây, việc ngân hàng chỉ trích lập quỹ khen thưởng và phúc lợi, chưa lập quỹ đặc biệt mà nợ quá hạn ở mức trung bình là 12541 triệu làm cho khả năng an toàn trong kinh doanh của ngân hàng không cao. Trong khi đó, lợi nhuận của ngân hàng qua các năm bảo là: bảng tính lợi nhuận thực của Chi Nhánh Ngân hàng đơn vị : triệu VNĐ Thời kỳ Chỉ tiêu 30/6/00 31/12/00 30/6/01 31/12/01 Quý I/02 1. Lãi ròng 24.631 27.837 27.837 30.235 30.235 2. Tỷ lệ lạm phát 4,5% 4,5% 4,5% 4,% 4,5% 3. Lãi suất 6% 6% 6% 6% 6% 4. Lãi thực 22.290 25.192 25.192 27.362 27.362 5. Nợ quá hạn 11.076 12.938 13.056 13.094 19.055 6. Thực của nợ quá hạn. 12.239 14.296 14.427 14.469 21.719 7. Thực thu về 10.051 10.896 10.765 12.893 5.643 Thì lợi nhuận thực chất của ngân hàng trong Quý I năm 2002 là giảm sút rất lớn (tính theo báo cáo năm 2001). Theo báo cáo gần đây nhất thì lãi của ngân hàng đầu năm 2002 khoảng 5.795 triệu mà nợ quá hạn tăng 6.561 triệu, chứng tỏ ngân hàng đang bị thua lỗ, kinh doanh không có hiệu quả. Bên cạnh các khoản rủi ro tín dụng, ngân hàng còn đối phó với nhiều rủi ro khác, mà một trong những điều quan trọng là rủi ro về thanh khoản. Do đó, sau khi quan sát tài sản nợ, tài sản có, các nhà quản lý ngân hàng tập trung nghiên cứu khả năng thanh toán của ngân hàng. * Phân tích khả năng thanh toán của ngân hàng. ∙ Chỉ số phân tích Một trong các chỉ số dùng đánh giá khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại là chỉ số đo lường khả năng thanh toán tức thì. Tài sản có động Khả năng thanh toán tức thì = ´ 100 Tài sản nợ dễ biến động Tài sản có động (Liquid Asset) là tài sản có dễ chuyển đổi thành tiền. Nội dung tài sản có động khác nhau giữa các nước vì nó phụ thuộc vào sự phát triển của công nghệ ngân hàng, thị trường chứng khoản, thị trường tiền tệ trong nước. Theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tài sản có động của ngân hàng thương mại bao gồm: - Tiền mặt tồn quỹ: Gồm tiền mặt Việt Nam, ngoại tệ, ngân phiếu thanh toán còn thời hạn sử dụng. - Vàng bạc tồn kho - Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng Nhà nước. - Tiền gửi không kỳ hạn ở các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. - Các hợp đồng cam kết được vay - Tín phiếu kho bạc Tài sản nỡ dễ biến động là loại tài sản dễ bị rút ra bất cứ lúc nào, đặc biệt khi ngân hàng gặp khó khăn. Tài sản nợ dễ biến động bao gồm các loại tài sản sau: - Tiền gửi không kỳ hạn của thị trường 1: Gồm cả tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. - Tiền gửi không kỳ hạn của thị trường 2. - Vay ngắn hạn các tổ chức tín dụng. - Các cam kết cho vay: nằm ở sổ ngoài bảng chỉ số đo lường khả năng thanh toán tức thì cao thì chứng tỏ ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt. Nhưng nếu quá cao, nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Bởi vì, tài sản có động những tài sản không sinh lời của ngân hàng hoặc có độ sinh lời rất thấp. Vấn đề kiếm các nhà quản trị ngân hàng quan tâm là: Tỷ lệ tài sản có động trên tài sản nợ động của ngân hàng ở mức độ bao nhiêu là đủ. Thông thường, các ngân hàng họat động tốt có thể duy trì chỉ số này tương đối thấp hơn các ngân hàng bị đánh giá là hoạt động yếu kém. Ta thấy tỷ lệ tài sản có động trên tài sản nợ dễ biến động ở chi nhánh giảm dần theo từng thời kỳ. Không phải là do khả năng thanh toán của chi nhánh giảm mà do : - Khả năng kinh doanh có lãi của chi nhánh trong các năm 1999, 2000, 2001 đã tạo uy tín lớn cho ngân hàng. - Khả năng đầu tư vào tài sản có của chi nhánh là cao: điều chuyển nguồn ngắn hạn cho các ngân hàng khác lớn nên khả năng thu hồi nhanh khi có biến động về tài sản nợ. - Ngân hàng thực ra là một chi nhánh, đơn vị trực thuộc vì vậy, khi có biến động lớn, ngân hàng mẹ có thể cung cấp và điều chuyển vốn . Hiện nay một thực trạng xẩy ra là, hầu hết các ngân hàng ở những vùng xa, nông thông khả năng huy động thấp mà nhu cầu vay của khách hàng lớn, nhất là vay trung và dài hạn. Ngân hàng nên có cách quản lý tốt nguồn vốn điều chuyển tránh kẽ hở lớn trong việc điều chuyển vốn trung và dài hạn. Vì nếu có kẽ hở lớn khả năng thanh khoản của ngân hàng sẽ bị giảm. * Bảng phân tích khả năng sinh lợi của Chi Nhánh Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 30/6/00 31/12/00 30/6/01 31/12/01 Quý I/02 1. Tài sản có 916.366 1.001.561 1.079.150 1.183.136 1.263.698 2.Vốn tự có 320 333 570 639 3.878 3. Thu nhập ròng 13.391 14.730 17.234 13.001 5.794 4. Tổng thu nhập 49.491 54.935 62.077 46.830 26.949 5. Hệ số ROA (%) 1,46 1,47 1,59 1,09 0,45 6. Hệ số ROA (%) 4.184,7 4.423,4 3.023,5 2.034,6 149,4 7. Thu nhập ròng trên tổng thu nhập (%) 27,05 26,81 27,76 27,76 21,49 ROE 8. ROA 2866 3009 1.901,6 1.866,6 332 9. Nợ quá hạn/tổng dự nợ ròng(%) 2,41 2,64 2,47 2,36 3,42 Hệ số qúa cao đã chứng minh khả năng không an toàn của ngân hàng và khả năng huy động vốn của ngân hàng. Nhìn vào số liệu và so sánh giữa hệ số ROA và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ thì thấy rằng Ngân hàng đã chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định, và đặc biệt ở quý I/2002 thì thấy rằng Ngân hàng có độ rủi ro cao. Số liệu thực tế cho thấy nợ quá hạn trong Quý I năm 2002 tăng 50,1% so với 31/12/01, tức là tăng 6.561 triệu. Nhìn chung trong các năm 2000, 2001 hệ số ROA của chi nhánh tương đối cao, đó là kết quả của việc quản lý tài sản có hiệu quả. Càng cho thấy ngân hàng kinh doanh có lãi. Song, từ đầu năm tới nay hệ số ROA giảm mạnh, và nợ quá hạn tăng cao, chứng tỏ ngân hàng bị động trong việc quản lý đầu ra, nhất là nguồn vốn bị ứ đọng. Thực tế cho thấy, trong Quý I/2002, Ngân hàng phải huy động với lãi suất đầu vào cao. Biểu: Lãi suất bình quân tháng Quý I/02 đơn vị :% tháng Thời gian thực hiện Loại không kỳ hạn Loại 3 tháng loại 6 tháng loại 12 tháng 05-12-01 0,4 0,7 0,75 16-01-02 0,4 0,7 0,8 21-01-02 0,5 0,8 0,9 01-03-02 0,5 0,8 1,0 23-03-02 0,5 0,8 0,9 13-04-02 0,5 0,75 0,85 0,9 Trong khi đó lãi suất cho vay là: Ngắn hạn 1,15%, trung và dài hạn 1,2%, cho vay ưu đãi 0,85%. Vì vậy, mà thu nhập ròng của Ngân hàng bị giảm sút. Phản ứng cho thấy, đến 13/4/02 thì Ngân hàng phải hạ thấp lãi suất huy động xuống còn 0,75% đối với kỳ hạn 3 tháng và 0,85 đối với kỳ hạn 6 tháng. Một nguyên nhân gây giảm sút thu nhập ròng của chi nhánh là tỷ lệ huy động tiền gửi không kỳ hạn thấp: 26,1% - 30/6/00; 28,5% - 31/12/00; 22,8,8% - 30/6/01; 25,1% - 31/12/01 và 20% Quý I/02 và lãi cho vay điều chuyển vốn thấp (Lãi suất huy động + 0,1% tháng). 2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu. a. Một số tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Hồ sơ pháp lý chưa đảm bảo, đáng chú ý là các công ty TNHH về: Điều lệ công ty có trước năm 1999 chưa sửa đổi. Thiếu bản góp vốn của các thành viên công ty. Cân đối kế toán số liệu chưa chính xác. Thiếu đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký kinh doanh hết thời hạn (các hộ tư nhân). - Thiếu phương án kinh doanh hoặc kế hoạch trả nợ, kế hoạch trả nợ không khả thi đối với cho vay tiêu dùng và cho vay cán bộ công nhân viên. Chất lượng công tác thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh chưa cao: một số phương án sản xuất kinh doanh khách hàng lập chưa tính đủ các yếu tố chi phí hoặc số liệu chưa chính xác, thiếu tính khả thi nhưng cán bộ tín dụng chưa phát hiện được. Một số phương án chất lượng thẩm định chưa cao, đơn vị sử dụng kém hiệu quả… dẫn đến nợ quá hạn, hoặc phải gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ. Công tác kiểm tra sử dụng vốn vay đã được quan tâm hơn, song một số biên bản kiểm tra nội dung ghi còn chung chung, mang tính hình thức. Cán bộ tín dụng mới tập chung vào việc kiểm tra những món vay lớn, viẹc kiểm tra sau ở một số món vay vẫn còn sơ sài mang tính hình thức, các biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay chỉ dừng lại ở việc kiểm tra số tiền nhập quỹ được đơn vị sử dụng như thế nào mà không kiểm tra xem số lượng hàng hóa có đúng với số tiền không, đã nhập kho hay chưa và kết quả kinh doanh ra sao. - Việc mở rộng đầu tư tín dụng ở các chi nhánh, hội sở Ngân hàng công thương tỉnh và các phòng giao dịch vượt quá năng lực trình độ quản lý của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng chưa nắm bắt kịp thời tình tình tài chính của khách hàng, tình hình luân chuyển vốn của khách hàng… dẫn đến còn tiềm ẩn rủi ro trong công tác cho vay. b. Nguyên nhân - Khách hàng không đủ điều kiện vay vốn. Một trong những nguyên nhân chính khiến tỷ lệ dư nợ trung dài hạn trên tổng dư nợ chưa được cải thiện theo ý muốn phần nhiều do các doanh nghiệp đến với Ngân hàng không hội đủ điều kiện cần thiết khiến Ngân hàng không thể cho vay được. Phần lớn các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn lại thiếu năng lực vay vốn và sử dụng vốn không đáp ứng được năng lực sản xuất kinh doanh, tài chính và tính khả thi của dự án. Theo quy định của Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi vay vốn cần phải có tài sản thế chấp và đây chính là rào cản ngăn vốn trung dài hạn đến với doanh nghiệp, bởi lẽ phần lớn tài sản của thể nhân, pháp nhân chưa được cấp chứng nhận sở hữu. Nhiều doanh nghiệp có dự án khả thi song không đủ điều kiện vay vốn, thiếu vốn tự có, thua lỗ, nợ quá hạn, thiếu tín nhiệm trong vay trả. Một số doanh nghiệp khi thẩm định thì đủ vốn tự có tham gia đầu tư cho dự án nhưng khi dự án đi vào hoạt động, phần vốn tự có này lại được sử dụng cho mục đích khác, nên dự án khi được cấp tín dụng trung dài hạn không đủ điều kiện phát huy hiệu quả. Mặt khác việc chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê trong các doanh nghiệp còn buông lỏng. Tình trạng chấp hành không đúng chế độ kế toán thống kê còn phổ biến xảy ra đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Sổ sách chứng từ kế toán sơ sài, không cập nhật đầy đủ, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy số liệu phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng thiếu chính xác và làm sai lệch kết quả thẩm định và khả năng đầu tư vốn sẽ thiếu tính hiệu quả. - Môi trường kinh tế xã hội chưa thuận lợi cho đầu tư. Định hướng quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế tổng thể từng vùng, từng ngành, các cấp, địa phương chưa đồng bộ, thiếu ổn định. Trong khi đó nền kinh tế đã biểu hiện sự chững lại, sức mua giảm cũng làm cho tín dụng chững lại. Nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh khó khăn. Mặt khác, bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực chưa hoàn toàn hồi phục sau khủng hoảng khiến cho các nhà đầu tư chưa thực sự yên tâm. Nền kinh tế phát triển chưa ổn định,thiếu cân đối vững chắc, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp giảm sút không kích thích nhu cầu đầu tư vốn trung dài hạn. Việc thẩm định dự án, nhất là phương diện kỹ thuật công nghệ và thị trường hầu như chưa có công ty tư vấn nào đủ khả năng để các NHTM, doanh nghiệp tin cậy. Do vậy dẫn đến nhiều trường hợp đã thuê chuyên gia đánh giá thẩm định mà vẫn mua phải máy móc thiết bị lạc hậu hay không phù hợp yêu cầu dự án. Hệ thống bảo hiểm cho hoạt động đầu tư hạn chế, đơn điệu chưa đủ phong phú để các doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro. Môi trường thông tin hạn chế, không có cơ quan chuyên ngành đánh giá doanh nghiệp, hoạt động của kiểm toán độc lập còn hạn chế. Việc tổng hợp thông tin đánh giá và xết hạng doanh nghiệp chưa có cơ quan nào đảm bảo để làm cơ sỏ đánh giá, phân loại doanh nghiệp. Chính sách và cơ chế vĩ mô của Nhà nước chưa phù hợp, đang trong quá trình điều chỉnh, hoàn thiện, đổi mới. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với thay đổi của chính sách nên gặp khó khăn, thua lỗ, không đủ điều kiện vay vốn. Lãi suất cho vay trung dài hạn bất hợp lý làm hạn chế đầu tư trung dài hạn. Đầu tư trung dài hạn rủi ro cao nhưng lãi suất cho vay trung dài hạn thấp hơn hay chỉ ngang bằng lãi suất cho vay ngắn hạn. Nguồn vốn huy động trung dài hạn và vốn tự có của Ngân hàng còn thấp. Phương thức huy động đơn điệu, chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn .Việc dùng vốn ngắn hạn sang cho vay trung dài hạn chỉ ở mức độ nhất định. -Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng Ngân hàng chưa đầy đủ, còn nhiều vướng mắc chưa tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng mở rộng cho vay. Các cơ quan chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý Nhà nước đối với thị trường bất động sản chưa thực hiện kịp thời việc cấp giấy tờ sở hữu.Do đó, việc thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng khó khăn, phức tạp, nhiều khi bị ách tắc. Thời gian đầu tư dài nên chủ đầu tư và Ngân hàng không dự đoán được biến động kinh tế xã hội như tỷ giá, thị trường, giá cả. - Ngân hàng còn thụ động trong việc tìm bạn hàng mới, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Ngân hàng thời gian qua chưa thực sự quan tâm đối với thành phần này. Hoạt động Chương 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng công thương Thanh Hóa 3.1/ định hướng hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương thanh hóa Qua thực trạng tín dụng trung dài hạn tại chi nhánh NHCT Thanh Hóa trong thời gian qua cho thấy: các nghiệp vụ trên chưa được mở rộng và phát triển mặc dù nhu cầu của các doanh nghiệp đang đặt cho Ngân hàng phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh daonh. Mục tiêu này cũng được Ngân hàng triển khai nhưng bước đầu chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Chính vì thế, Ngân hàng đã đặt ra phương hướng, nhiệm vụ mới cho thời gian tới như sau: - Bám sát các định hướng của Nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế, chủ động tiếp cận với dự án, chương trình kinh tế trọng điểm để cấp vốn. - Với các dự án có mức đầu tư lớn, Ngân hàng tham gia dưới hình thức đồng tài trợ để giảm rủi ro và tăng sức mạnh về vốn và kinh nghiệm của nhiều Ngân hàng. - Ngân hàng chủ động tìm kiếm những khách hàng có triển vọng, không phân biệt loại hình sở hữu. - Tập trung nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn các phương pháp tiên tiến nhằm hoàn thiện quá trình thẩm định, nâng cao năng lực và hiệu quả cho vay. - Tổ chức nghiên cứu nghiêm túc các quy định, chính sách cuả Chính phủ cũng như các hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, kịp thời các hướng dẫn thực hiện việc cho vay trong Ngân hàng nhằm tháo gỡ các ách tắc trong công tác tín dụng. - Rà soát, phân loại doanh nghiệp để có những chính sách phục vụ kịp thời nhu cầu vay vốn cho sản suất kinh doanh. ổn định các khách hàng cũ để nâng cao hiệu quả hoạt động, thu thập thông tin về khách hàng dự định đầu tư, chủ động, tìm kiếm tiếp nhận, chọn lọc khách hàng có những dự án khả thi góp phần phát triển đất nước, tiến hành mở rộng cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn và ngoài địa bàn tỉnh. - Đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút khách hàng lớn như: các doanh nghiệp nhà nước, các Tổng công ty các đơn vị có hoạt động xuất nhập khẩu giao dịch với chi nhánh, từ đó tạo ra nguồn vốn. - Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm định khách hàng, thẩm định dự án của cán bộ tín dụng, thực hiện tốt quy trình thẩm định mới đãm bảo tính chặt chẽ khi làm việc với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tăng cường các cán bộ có năng lực, bổ sung cho các phòng kinh doanh đối nội, kinh doanh đối ngoại, phòng kiểm soát nội bộ. Tiếp tục sắp xếp các lao động hợp lý giữan các phòng ban, nâng cao trình độ nghiệp vụ, gắn với công tác quy hoạch cán bộ một cách hợp lý để đưa hiệu quả kinh doanh an toàn. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, gắn liền với công việc nâng cao hiệu quả hoạt động Ngân hàng, đặc biệt với công tác tín dụng, chỉ tiêu nội bộ, quản lý kho quỹ, quản lý tài khoản. -Đổi mới phong cách, tác phong giao dịch ở tất cả các bộ phận nghiệp vụ, đản bảo xử lý công việc nhanh gọn, an toàn chính xác với thái độ hòa nhã, đúng mực và có tinh thần trách nhiệm. 3.2/ Một số giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương thanh hóa. Xuất phát từ những tồn tại và vướng mắc cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương Thang Hóa trong thời gian tới, từ những hiểu biết của bản thân, em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng công thương Thanh Hóa 3.2.1/ Phát triển các trung tâm dịch vụ và tư vấn đầu tư. Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin mở rộng khắp, mạng lưới tin học đã đi sâu vào mọi lĩnh vực nghành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của Ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá phân tích dự báo các thông tin về tình hình kinh tế, xã hội, pháp luật thị trường, giá cả…Liên quan đến vấn đề đầu tư giúp cho các doanh nghiệp đưa ra những quyết định đầu tư một cách đúng đắn nhất sáng suốt nhất. Đến nay hầu như các doanh nghiệp ở nước ta ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư, chính vì vậy đầu tư vào các công trình vần chưa thu hút được những kết quả như mong muốn, rủi ro đầu tư vẫn còn. Để phổ biến rộng rãi, giải đáp các thắc mắc, Ngân hàng nên có những trung tâm dịch vụ tư vấn và đầu tư các công trình, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển mạnh, điều đó cũng làm cho chính Ngân hàng phát triển, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. . 3.2.1.2/ Mở rộng cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực mới thực sự đi vào hoạt động khoảnh hơn 10 năm trỏ lại đây. Quy mô của các doang nghiệp thuộc loại này là không lớn nhưng đây là khu vực kinh tế rất năng động và tỏ ra là có tiềm năng trong những năm tới Bảng Dư nợ tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Tổng dư nợ 442.661 637.454 846.185 Doanh nghiệp quốc doanh 277.458 62,67% 389.675 61,13% 537.327 63,5% Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 165.113 37,3% 247.779 38,87% 308.858 36,5% (Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh 2000, 2001, 2002) Đối với kinh tế ngoài quốc doanh, chi nhánh chủ yếu là cho vay ngắn hạn, chưa mạnh dạn cho vay trung dài hạn mặc dù nhu cầu về vốn trung và dài hạn của họ là rất lớn. Chính vì vậy trong những năm qua với sự giảm sút trong hoạt động kinh tế tại các đơn vị kinh tế Nhà nước, sự trì trệ trong việc thực hiện các dự án, trong chi nhánh chưa tìm kiếm được lĩnh vực cho vay mới đã dẫn đến sự sụt giảm của tốc độ gia tăng quy mô tín dụng. Trong những năm tới, khu vực kinh tế được đánh giá là có nhiều tiềm năng phát triển về lĩnh vực hoạt động cũng như quy mô, thêm vào đố là sự khuyến khích và tăng cường công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ trở thành thị trường cho vay đầy tiềm năng đối với các Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, việc cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro vì thực tế ở Việt nam các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thực lực tài chính vững vàng là không nhiều, rất nhiều đơn vị thuộc loại này đã dùng phương pháp khác nhau như lập hồ sơ giả, tài sản thế chấp giả, mua chuộc cán bộ Ngân hàng để có thể vay vốn được từ Ngân hàng và sử dụng vốn sai mục đích, hiệu quả sử dụng vốn ở các đơn vị này cũng không tốt, hiện tượng lừa đảo để chiếm dụng vốn cũng đã xảy ra. Chính vì những lý do trên mà các Ngân hàng rất thận trọng khi cho các đơn vị vay vốn Muốn khai thác tốt thị trường kinh doanh mới mẽ này và tránh bị tụt hậu so với các Ngân hàng thương mại khác trong địa bàn thì nhiệm vụ của Ngân hàng công thương thanh Hóa trong những năm tới là phải luôn theo sát sự biến động và nhu cầu về vốn của đó thông qua các hình thức tiếp xúc thông qua các hội nghị khách hàng, giới thiệu các hình thức tín dụng của Ngân hàng qua các phương tiện thông tin đại chúng. Ngân hàng phải mạnh dạn hơn trong các quyết định chi vay đối với các khu vực kinh tế này. Để các khoản vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực sự có chất lượng, Ngân hàng cũng nên thay đổi một số quan điểm về việc thực hiện cho vay, cũng không nên coi tài sản đãm bảo là chổ dựa an toàn cho số tiền vay phát ra và tài sản đảm bảo là công cụ nợ duy nhất để đảm bảo việc thu hồi nợ mà phải giả định tư cach scủa người vay cũng như việc doanh nghiệp dố sử dụng vốn như thế nào, khả năng trả nợ ra sao. Bởi vì tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh chỉ là cơ sở để Ngân hàng thương mại có khả năng thu hồi nợ vay khi doanh nghiệp không còn khả năng chi trả, song không phải tài sản thế chấp nào cũng dễ dàng bán ra một cách kịp thời. 3.2.1.3/Thực hiện tốt chiến lược khách hàng, khai thác khách hàng để mở rộng tín dụng. Chính sách tín dụng phải thu hút được khách hàng, duy trì và phát triển được khách hàng để mở rộng quy mô hiệu quả hoạt động của một ngân hàng thương mại. Càng nhiều khách hàng biết đến Ngân hàng thì Ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư lớn hơn, hoạt động tín dụng càng có khả năng mở rộng hơn. Vì vậy trong thời gian tới, Ngân hàng công thương Thanh Hóa cần tiếp tục đẩy mạnh công tác khách hàng, tổ chức tuyên truyền sâu rộng về Ngân hàng công thương Thanh hóa và lợi ích của khách hàng khi vay vốn tại Ngân hàng. Coi lợi ích của khách hàng là lợi ích của chính bản thân Ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng bằng một chính sách lãi suất, phí dịch vụ thấp, có khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng khác và sớm ban hành quy chế về hoa hồng của hệ thống. Tiến hành đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các dịch vụ mà các Ngân hàng cung cấp cho khách hàng, thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất, phí dịch vụ thấp cho khách hàng, thực hiện giao dịch chọn gói với Ngân hàng từ khâu vay vốn, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán xuất nhập khẩu…Ngoài ra Ngân hàng cần chủ động tìm kiếm dự án đầu tư,đặt quan hệ tín dụng với những đơn vị kinh tế làm ăn có hiệu quả và uy tín chứ không nhồi chờ khách hàng đến xin vay. Ngân hàng không chỉ đợi khách hàng đến xin vay vốn rồi mới thẩm định mà cần thẩm định ngay từ khi doanh nghiệp đó xuất hiện trên thị trường để nhu cầu và năng lực của họ, đằt mối quan hệ với họ, tiếp cận ngay khi họ có nhu cầu là Ngân hàng có thể sẳn sàng đáp ứng với thời gian ngắn hơn, làm tăng tính cạnh tranh mà không sợ là quyết định vội vã. Để chủ động tìm kiếm dự án đầu tư thì vấn đề thông tin đóng vatrò quan trọng. Ngân hàng cần nắm được các chính sách phát triển kinh tế của đất nước, các kế hoạch đầu tư của nghành, của doanh nghiệp…Thông qua mối quan hệ, qua các cơ quan của Nhà nước, Bộ kế hoạch và đầu tư, các tổ chức hiệp hội nghành nghề. Công tác thu hút khách hàng có hiệu quả thì Ngân hàng cần phải tiến hành phân loại, đánh giá khách hàng trên cơ sở đó các chính sách biện pháp ưu đãi thích kợp. Ngân hàng tiến hành đánh giá, phân loại khách hàng theo các tiêu chẩn về năng lực tài chính, về vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cũng như khả năng quản lý, khả năng thích nghi với môi trường kinh doanh của bộ máy quản lý. 3.2.1.4/ Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn + Trái phiếu Ngân hàng. Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn, là giấy nhận nợ của các Ngân hàng đối với người mua (hoặc chủ sở hữu) cam kết sẽ trả nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã định. Đối với người mua, nó là giấy chứng nhận quyền đầu tư và quyền hưởng một phần lãi theo số tiền đầu tư. Đây là hình thức phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, nó hấp dẫn hơn các hình thức gửi tiền có kỳ hạn bởi tính đa dạng trong hình thức trả lãi cũng như lãi suất huy động. Khi cần phát hành trái phiếu, để có thể huy động được người mua, Ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất chiết khấu tại các mốc thời gian khác nhau trước khi trái phiếu đáo hạn. + Giấy chứng nhận tiền gửi có thể bán lại. Giấy chứng nhận tiền gửi có thể bán lại là công cụ huy động tiền gửi dài hạn do Ngân hàng bán cho người gửi tiền. Nó thanh toán lãi hàng năm theo một khoản nhất định và khi hết hạn thì hoàn trả hết giá mua ban đầu. Do có thể bán lại trên thị trường nên nó biến việc gửi các khoản dài hạn thành các khoản tiền gửi ngắn hạn. + Đồng tài trợ. Việc đồng tài trợ là quá trình cho vay-bảo lãnh của một nhóm các tổ chức tín dụng (TCTD) cho một dự án, do một TCTD làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp và các TCTD. Các hình thức đồng tài trợ là cho vay hợp vốn; bảo lãnh, tái bảo lãnh của một TCTD; do nhu cầu phân tán rủi ro của các TCTD; khả năng nguồn vốn của một TCTD không đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án. Theo cách làm truyền thống từ trước tới nay, các TCTD thường ngồi chờ khách hàng đem dự án tới Ngân hàng để xin vay mà không chịu tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, các TCTD Việt Nam hoạt động trong môi trường khó cạnh tranh được với các chi nhánh của Ngân hàng nước ngoài về vốn, công nghệ và cả cách tổ chức quản lý. Do vậy, Ngân hàng Công thương Thanh Hoá nên căn cứ vào chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội của từng ngành kinh tế, của từng địa phương, của toàn nền kinh tế, liên kết với các NHTM khác để xây dựng các phương án đầu tư vốn để chủ động nguồn vốn tín dụng trung dài hạn, chủ động trong công tác thẩm định, cho vay đúng mục đích, đồng thời quản lý được rủi ro của mình. Ngân hàng công thương Thanh Hoá không chỉ cần liên kết với các NHTM quốc doanh mà còn cần phải liên kết với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có tiềm lực về vốn vô cùng lớn nhưng do quy định của Ngân hàng Nhà nước nên khả năng cho vay bằng VNĐ của các Ngân hàng này bị hạn chế. Do đó, NHCT Thanh Hoá có thể liên kết với các Ngân hàng này cho vay bằng VNĐ hay trung gian cho các Ngân hàng này. Sự liên kết không chỉ giúp cho Ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng mà còn giúp nâng cao hiệu quả món vay. Bên cạnh đó, trong quá trình liên kết thực hiện dự án, Ngân hàng và đội ngũ cán bộ tín dụng cũng học hỏi được các kinh nghiệm, cách thức thẩm định dự án, phương pháp quản lý món vay, phương pháp quản lý điều hành hoạt động… Điều này giúp cho Ngân hàng nâng cao năng lực riêng của mình trong hoạt động quản trị nói chung và hiệu quả trong hoạt động tín dụng trung dài hạn nói rịêng. 3.2.1.5. Phát triển các trung tâm dịch vụ và tư vấn đầu tư. Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin đã rộng khắp, mạng lưới tin học đã đi sâu vào mọi lĩnh vực ngành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của Ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá phân tích, dự báo các thông tin về tình hình kinh tế, xã hội, pháp luật, thị trường, giá cả… Liên quan đến vấn đề đầu tư giúp cho các doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư một cách đúng đắn nhất, sáng suốt nhất. Cho đến nay hầu như các Doanh nghiệp ở nước ta ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư, chính vì vậy đầu tư vào các công trình chưa thu hút được kết quả như mong muốn, rủi ro đầu tư vẫn còn. Để phổ biến rộng rãi,giải đáp các thắc mắc, Ngân hàng nên có trung tâm dịch vụ tư vấn và đầu tư về các công trình,hướng dẫn cố vấn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển nhanh hơn, điều đó cũng làm cho chính Ngân hàng phát triển, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. 3.2.2. Những giải pháp cần phải thực hiện a. Về công tác nguồn vốn. - Phải xây dựng được chiến lược phát triển nguồn vốn đảm bảo yêu cầu giữ vững và phát triển thị phần của chi nhánh, mặt khác phải đảm bảo tính ổn định lâu dài của nguồn vón và có mức lãi suất bình quân đầu vào hợp lý tạo điều kiện thuận lợi trong kinh doanh tín dụng. -Quan tâm hơn nữa đến công tác huy động vốn. Cơ cấu lại nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 2 năm, 3 năm để đảm bảo tính ổn định lâu dài của nguồn vón. Mở thêm các hình thức huy động mới tạo ra sự phong phú về thể loại và tính hấp dẫn về lãi suất, tiền thưởng, khuyến mại. Tăng cường công tác tiếp thị thu hút các doanh nghiệp có doanh số hoạt động lớn về tiền mặt, thanh toán, dịch vụ chuyển tiền về quan hệ giao dịch với chi nhánh từ đó tăng số dư lượng tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi trên tài khoản thanh tóan. - Các chi nhánh khảo sát các điểm giao dịch của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn, khả năng huy động tiền gửi tiết kiệm ở các khu vực đông dân cư để trong năm 2003 mỗi chi nhánh mở thêm từ 2 – 3 quỹ tiết kiệm. b. Về công tác tín dụng. - Trong công tác tín dụng phải quán triệt quan điểm: Đặt chỉ tiêu chất lượng tín dụng lên mục tiêu hàng đầu, việc mở rộng dư nợ phải tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện theo duy định của Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn của Ngân hàng công thương Việt Nam, không được nới lỏng các điều kiện tín dụng để mở rộng cho vay việc tăng dư nợ phải nằm trong tầm quản lý kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Ngân hàng. - Làm tốt công tác phân tích tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp từ đó đánh giá, xếp loại đối với từng đơn vị. Trên cơ sở kết quả phân tích để quyết định hạn mức tín dụng, biện pháp đảm bảo tiền vay cho phù hợp đối với những đơn vị có tình hình tài chính yếu, kinh doanh thua lỗ kéo dài, các chi nhánh, các phòng xây dựng phương án rút dần dư nợ đối với những đơn vị này và tiến tới chấm dứt quan hệ tín dụng, trước mắt yêu cầu các đơn vị phải thực hiện tài sản bảo đảm cho các khoản vay nhằm hạn chế thấp nhất những rủi ro. - Bám sát chương trình kinh tế, các dự án trọng điểm của tỉnh để mở rộng đầu tư vốn tín dụng hiệu quả, ưu tiên vốn cho các chương trình làm hàng xuất khẩu, tạo việc làm, đổi mới thiết bị tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp tập trung của tỉnh, các dự án về phát triển nông nghiệp, nông thôn, các doanh nghiệp có ký hợp đồng mua sản phẩm hàng hóa của nông dân. Tiếp tục mở rộng nâng tỷ trọng dư nợ đối với các doanh nghiệp hiện nay đang làm ăn có hiệu quả, các doanh nghiệp đã được sắp xếp lại, các dự án đã được thẩm định. - áp dụng linh hoạt chế độ lãi suất trong phạm vi cho phép của Ngân hàng công thương Việt Nam, không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ của Ngân hàng để giữ được những khách hàng truyền thống thu hút thêm những khách hàng mới làm ăn có hiệu quả về với chi nhánh. Đồng thời với việc khuyến khích mở rộng hình thức mở tài khoản tiền gửi tư nhân và thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. c. Tập trung chỉ đạo nâng cao năng lực tài chính - Các đơn vị phân tích tình hình tài chính năm 2002 để xác định những khoản thu còn tồn đọng chưa thu được, những khoản chi còn lãng phí chưa phục vụ thiết thực trong kinh doanh, xác định chênh lệch lãi suấ theo cơ cấu nguồn vốn và dư nợ. Trên cơ sở của kết quả phân tích, mỗi đơn vị phải xây dựng các giải pháp cụ thể để đảm bảo kế hoạch tài chính của đơn vị. Cụ thể: Nguồn vốn, dư nợ đạt ở mức nào thì đảm bảo có nguồn thu; biện pháp thu nợ quá hạn, nợ đã được xử lý rủi ro, lãi treo.. - Thực hiện nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất huy động vốn và cho vay của Giám đốc Ngân hàng công thương tỉnh – tiếp tục cải tiến, bổ sung, hoàn thiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng, cơ chế tài chính nộ bộ cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm khuyến khích có hiệu quả đến kết quả hoạt động kinh doanh. Tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của các phòng giao dịch để tiến tới thực hiện cơ chế khoán tiền lương đối với các phòng. - Không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng, đẩy mạnh các hoạt động về nghiệp vụ chuyển tiền, chi trả kiều hối. Nâng cao hơn nữa khả năng nghiệp vụ thanh tóa quốc té, đưa ngân hàng công thương Thanh hóa trở thành một chi nhánh có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất. 3.2.3. Kiến nghị. 3.2.3.1. Kiến nghị với Nhà nước. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng liên quan đến hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Chính vì vậy việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động Ngân hàng không chỉ là việc ban hành và sửa đổi các điều luật quy định mà là toàn bộ hệ thống pháp luật kinh tế nói chung. Vấn đề này đòi hỏi Nhà nước sớm giải quyết thông qua việc ban hành sửa đổi các văn bản pháp luật như luật về thế chấp tài sản, về hợp đồng trong kinh doanh, về quyền sở hữu tài sản… Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống pháp luật một mặt tạo hành lang pháp lý cho các Ngân hàng và doanh nghiệp hoạt động, một mặt đảm bảo tính an toàn hiệu quả cho hoạt động đầu tư tín dụng của Ngân hàng. Đồng thời, Nhà nước cần có biện pháp mạnh mẽ thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước và có biện pháp bảo vệ người sản xuất trong nước để khuyến khích công dân Việt Nam tham gia đầu tư, tạo thuận lợi cho họ kinh doanh và Ngân hàng có cơ hội đầu tư tín dụng. Nhà nước cũng cần có những chính sách phát triển kinh tế đồng đều cho các vùng, có chính sách khuyến khích đầu tư vào những vùng mà hiện trạng kinh tế ở đó còn nhiều yếu kém để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng. Nhà nước cần sớm chấn chỉnh lại các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp quốc doanh. Nhà nước chỉ để lại những doanh nghiệp có hiệu quả và thực sự cần thiết cho nền kinh tế quốc dân nhằm tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng có hiệu quả, có trọng điểm. 3.2.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành quy chế hoạt động ngân hàng trong khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước có quy định giản lược các yêu cầu về hồ sơ mà trên thực tế rất khó có khả năng đáp ứng. Tiến tới thực hiện theo thông lệ quốc tế: Một khi đã là nợ không có khả năng thu hồi thì Ngân hàng được phép bù đắp bằng khoản nợ dự phòng rủi ro, không phân biệt nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Đối với trường hợp nguyên nhân chủ quan thì ngân hàng phải hạch toán ngoại bảng, theo dõi sát sao để thu tối đa nguồn bù đắp, giảm đến mức thấp nhất thiệt hại cho Ngân hàng. 3.2.3.3. Kiến nghị về phía ngân hàng công thương Thanh Hóa 1. Sắp xếp các Phòng, Ban, đơn vị kinh doanh hợp lý. Tổ chức cán bộ và nhân viên đúng chức năng. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao và tinh giảm bộ máy quản lý. Nâng cao hiệu quả của cán bộ và công nhân viên. 2. Tổ chức và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ kinh doanh nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng để tạo lập mối quan hệ khách hàng lâu dài. 3. Thực hiện chính sách và chế dộ khoán cho cán bộ tín dụng, cán bộ tín dụng phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình, nâng cao mối quan hệ với khách hàng, xem xét phân tích kỹ khả năng của khách hàng trước khi có quyết định cho vay. Kết luận Đến đây, do những hạn chế nhất định mà quan trọng nhất là thời gian để hoàn thành bài chuyên đề này cũng đã tới. Như vậy sau một thời gian nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng công thương Thanh Hóa về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Hương Lan em cũng đã mở mang thêm rất nhiều kiến thức bổ ích, đặc biệt là tri thức về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Qua quá trình nghiên cứu và thực tập viết chuyên đề em càng thấy yêu quí hơn nghề Ngân hàng, càng thấy sự quan trọng của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, của nền kinh tế, lợi ích to lớn cũng như những mạo hiểm, rủi ro có thể xẩy ra khi cho vay. Trong bài chuyên đề này em cũng đã xuất phát từ thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng công thương Thanh Hóa và được sự giúp đỡ rất nhiều của các cán bôn Ngân hàng công thương Thanh Hóa, em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng công thương Thanh Hóa, những kiến thức trong trường lớp và đặc biệt là những kiến thức mà em có được trong quá trình thực tập sẽ giúp ích em rất nhiều trong công việc. Một lần nữa cho em gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Hương Lan và các cán bộ Ngân hàng công thương Thanh Hóa, nhờ có sự giúp đỡ, động viên đáng chân trọng vừa qua mà em đã hoàn thành thời gian thực tập, viết chuyên đề. Tài liệu tham khảo Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại – David Cox – NXB Chính trị Quốc gia - 1999 Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường – Nguyễn Đức Thảo – NXB Mũi Cà Mau. Tiền tệ và Ngân hàng – Lê Văn Tề – NXB TP Hồ Chí Minh. Luật các tổ chức tín dụng – NXB Chính trị quốc gia – 2000. Tạp chí Ngân hàng, thời báo tài chính, thời báo kinh tế Một số luận văn khoá trước Báo cáo hoạt động tín dụng năm 2000, 2001, 2002 của Ngân hàng công thương Thanh Hóa Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33495.doc
Tài liệu liên quan