Chuyên đề Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Với cơ chế huy động vốn như hiện nay thì không thể đáp ứng theo yêu cầu đầu tư trung và dài hạn, đồng thời không tạo điều kiện thu hút và sử dụng nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam. Thị trường chứng khoán nếu như được phát triển một cách đều đặn và khỏe mạnh thì nó sẽ là một kênh thu hút vốn trung và dài hạn với chi phí rất thấp. Thông qua việc phát hành chứng khoán, các nhà đầu tư cũng có thể chuyển chứng khoán của mình thành tiền mặt một cách dễ dàng nhanh chóng. Hiện nay, ngân hàng Ngoại thương chủ yếu chỉ có vốn ngắn hạn, còn vốn trung và dài hạn được huy động thông qua phát hành trái phiếu, tuy nhiên việc sử dụng công cụ trái phiếu không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả cao. Năm 2007, NHNTVN chính thức cổ phần hóa thành công, cổ phiếu của ngân hàng lần đầu tiên được chào bán rộng rãi ra công chúng, đây là một thông tin thật sự tốt cho tình hình huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Việc tham gia vào thị trường chứng khoán cũng làm cho trái phiếu của ngân hàng tăng tính thanh khoản lên rất nhiều.Để thị trường chứng khoán phát triển cần hoàn thiện được điều kiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh các công ty cổ phần, kiện toàn việc phát hành trái phiếu Chính phủ, từng bước mở rộng và phát hành trái phiếu ngân hàng, cổ phiếu, trái phiếu công ty loại vô danh ., tạo nhiêu hàng hóa cho thị trường hoạt động mạnh mẽ.

doc75 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dư nợ tín dụng ngắn hạn so với trung và dài hạn tương đương như nhau., chiếm khoảng 55% và 44%. Cụ thể đối với từng kỳ hạn như sau: Bảng 2.13. Cân đối nguồn vốn ngắn hạn và cho vay ngắn hạn Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Huy động ngắn hạn 67 130 000 84 638 000 92 321 000 Cho vay ngắn hạn 29 421 000 33 875 000 36 903 000 Hệ số sử dụng 43.8% 40.02% 39.97% Phần dư HĐ – CV 37 709 000 50 763 000 55 418 000 Hệ số sử dụng vốn ngắn hạn của ngân hàng Ngoại thương giảm dần qua các năm, năm 2005 là 40.2%, năm 2006 là 39.97%. Phần dư giữa huy động và cho vay tăng lên, năm 2006 đạt khoảng 55 418 tỷ VND. Điều này một mặt đảm bảo cho người gửi tiền có thể yên tâm khi đem gửi tiền tại ngân hàng do số tiền mà ngân hàng huy động được lớn hơn nhiều so với số tiền mà ngân hàng có thể cho vay nhưng nó lại cũng làm cho các khách hàng của ngân hàng lại phải chịu mức lãi suất cao hơn. Điều này làm giảm tính cạnh tranh của ngân hàng. Trong đó phần dư giữa huy động và cho vay VND lớn hơn ngoại tệ, tuy nhiên vốn huy động bằng VND được ngân hàng sử dụng hiệu quả hơn so với đồng vốn huy động bằng ngoại tệ. Cụ thể là năm 2006, hệ số sử dụng của VND là 41.4% còn ngoại tệ là 38.3% Trong đó: Cân đối nguồn vốn ngắn hạn và cho vay ngắn hạn VND Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Huy động ngắn hạn 31 268 000 39 272 000 49 321 000 Cho vay ngắn hạn 14 158 000 17 778 000 20 437 000 Hệ số sử dụng 45.3% 45.3% 41.4% Phần dư HĐ – CV 17 110 000 21 494 000 28 884 000 Cân đối nguồn vốn ngắn hạn và cho vay ngắn hạn ngoại tệ quy đổi Chỉ tiêu 2004 1005 2006 Huy động ngắn hạn 35 862 000 45 366 000 43 000 000 Cho vay ngắn hạn 15 263 000 16 097 000 16 466 000 Hệ số sử dụng 42.6% 35.5% 38.3% Phần dư HĐ – CV 20 599 000 29 269 000 26 534 000 Bảng 2.14. Cân đối nguồn vốn trung dài hạn và cho vay trung dài hạn Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Huy động trung dài hạn 21 372 838 23 675 175 27 457 871 Cho vay trung dài hạn 19 387 000 26 844 000 29 312 000 Hệ số sử dụng 90.7% 113.4% 106.8% Phần dư HĐ – CV 1 985 838 - 3 168 825 - 1854 129 Tuy nhiên đối với nguồn vốn trung và dài hạn thì ngân hàng có một vấn đề, số vốn huy động trung và dài hạn không đủ để cho vay. Năm 2005 thiếu khoảng 3.168 tỷ, năm 2006 thiếu khoảng 1.854 tỷ. Vì vậy để bù đắp số thiếu hụt này ngân hàng buộc phải chuyển số vốn huy động ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn. Điều này có thể gây rủi ro cho hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt là phần thiếu hụt bằng VND. Năm 2005 số cho vay gấp đôi số huy động được. Năm 2006 thì tình hình có cải thiện hơn, số cho vay khoảng gấp 1,5 lần số huy động được, thiếu khoảng 4.637 tỷ. - Trong đó Cân đối nguồn vốn trung dài hạn và cho vay trung dài hạn VND Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Huy động trung dài hạn 4 213 000 5 629 000 8 696 000 Cho vay trung dài hạn 8 937 000 11 385 000 13 333 000 Hệ số sử dụng 212.1% 202.3% 153.3% Phần dư HĐ – CV - 4 724 000 - 5 756 000 - 4 637 000 Cân đối nguồn vốn trung dài hạn và cho vay trung dài hạn ngoại tệ quy đổi Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Huy động trung dài hạn 17 159 838 18 046 175 18 761 871 Cho vay trung dài hạn 10 450 000 15 459 000 15 979 000 Hệ số sử dụng 60.9% 85.7% 85.2% Phần dư HĐ – CV 6 709 838 2 587 175 2 782 871 Bảng 2.17.Số liệu tính toán thu chi lãi cho vay và huy động Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Lãi tín dụng nhận về 4 296 100 6 264 221 9 049 112 Lãi huy động phải trả 2 440 551 3 034 139 5 272 632 Chênh lệch 1 855 549 3 230 082 3 776 480 % tăng tương đối 74% 16.9% Số tăng tuyệt đối 1 374 533 546 398 Lãi nhận được và lãi phải trả của ngân hàng tăng đều qua các năm tuy nhiên mức tăng năm sau có giảm hơn so với năm trước. Năm 2005 tăng 74% so với năm 2004, đạt khoảng 1.374 tỷ VND. Nhưng năm 2006 chỉ tăng 16.9% so với năm 2005, đạt khoảng 546 tỷ VND. Điều này phản ánh tình trạng vĩ mô của nền kinh tế có nhiều thay đổi, ngân hàng ngoại thương cũng chịu sự điều chỉnh của NHNN về mức lãi suất huy động tăng. Tuy mức lãi suất tín dụng cũng tăng theo nhưng mức tăng này chậm hơn so với mức tăng lãi suất huy động, do đó sự sụt giảm lãi cũng là đương nhiên. CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNTVN 3.1. Công tác huy động vốn của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước thách thức hội nhập Cho đến nay, hệ thống NHTM của Việt Nam nói chung và hệ thống NHTM nhà nước nói riêng vẫn giữ được vai trò thống trị trong việc làm trung gian giữa tiết kiệm và đầu tư do thị trường chứng khoán và thị trường cho các công cụ nợ khác chưa phát triển.. Hoạt động của các trung gian tài chính phi ngân hàng bắt đầu phát triển tương đối mạnh. Tuy nhiên tổng vốn huy động qua hệ thống các NHTM vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn so với tổng nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội. Thực tế cho thấy trong nhiều năm qua, đầu tư chủ yếu của các tầng lớp dân cư vẫn chủ yếu dưới dạng tích trữ vàng, ngoại tệ và bất động sản. Một trong những thách thức lớn của ngành Ngân hàng Việt Nam là xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra rất nhanh. Các ngân hàng nước ngoài không chỉ có ưu thế trong giao dịch thanh toán và chuyển tiền nhờ chất lượng dịch vụ rất cao mà họ còn có ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút vốn. Các ngân hàng nước ngoài có thể phát hành các công cụ tiền gửi gắn liền với hệ thống ngân hàng bán lẻ tạo thành lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ, xu thế về cạnh tranh trong lĩnh vực tiền gửi cũng giống như cạnh tranh trong lĩnh vực thu hút tiền gửi giao dịch. Ngoài ra trong quá trình đàm phán, các ngân hàng nước ngoài thường quan tâm và gây sức ép nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động tài Việt Nam dưới mọi hình thức, đặc biệt là ngân hàng bán lẻ và ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Loại ngân hàng này sẽ xâm nhập sâu vào thị trường nội địa, đặc biệt là khả năng thôn tính, sáp nhập các ngân hàng yếu kém để mở rộng thị phần. Theo hiệp định thương mại Việt Mỹ, các ngân hàng Mỹ không bị hạn chế về hình thức hiện diện (bao gồm mua cổ phần của NHTM quốc doanh và mở rộng hệ thống ATM như của các NHTM). Về số lượng cho từng loại hình, về địa giới hành chính, nên các ngân hàng Mỹ có điều kiện tốt nhất cho việc tăng cường sự có mặt tại Việt Nam. Cạnh tranh gay gắt sẽ mở rộng mạng lưới khách hàng thông qua những hình thức tập trung chủ yếu như tăng vốn VNĐ thông qua huy động tiết kiệm dân cư và vốn nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức kinh tế, mở rộng hoạt động mới. 3.2. Định hướng phát triển của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Nguồn vốn lớn là thế mạnh, là động lực tạo đà cho việc thực hiện thành công chiến lược phát triển ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đến năm 2010. Định hướng huy động vốn của NHNT trong thời gian này là duy trì và phát huy các biện pháp huy động vốn hữu hiệu, có khả năng cạnh tranh cao, nhằm thu hút nguồn vốn lớn nhàn rỗi của dân cư và các tổ chức kinh tế. Cần phát huy mức độ tín nhiệm cao của NHNT cả trong và ngoài nước để có thể tranh thủ tiếp nhận được phần vốn uỷ thác của các tổ chức tín dụng khác. Từ nay đến năm 2010, NHNTVN phấn đấu giữ vững thế mạnh hàng đầu về nguồn vốn, nhất là vốn ngoại tệ trong hệ thống các NHTM nhà nước. Chiến lược huy động vốn trong giai đoạn trước mắt phải được đặt trong điều kiện thị trường chứng khoán đang hoạt động, là một kênh thu hút vốn lớn trên thị trường cùng với tình hình hội nhập của Việt Nam vào nền tài chính thế giới. Trong thời gian qua, cùng với sự lớn mạnh của các NHTM nhà nước khác, sự lớn mạnh của các NHTMCP cũng gây ra một sức ép rất lớn trong quá trình huy động vốn của NHNTVN. Trong khi đó nhiều dự án của quốc gia cần vốn ngoại tệ hàng trăm triệu USD. Do đó ngân hàng Ngoại thương VN cần phải là ngân hàng đi đầu trong việc cung cấp vốn cho các dự án lớn, cho các ngành và các TCKT mũi nhọn của Nhà nước. Vì vậy việc tăng trưởng nguồn vốn trong tương lai sẽ là điều kiện tiên quyết để NHNTVN giữ vững được vị thế của một NHTM chủ đạo lớn nhất ở Việt Nam trong thập niên tới. Trên cơ sở phân tích và dự đoán tình hình phát triển kinh tế của đất nước, đánh giá đúng thế mạnh và và điểm yếu của mình trong bối cảnh có nhiều ngân hàng cùng hoạt động, NHNTVN đã xây dựng chiến lược phát triển nói chung và chiến lược huy động vốn nói riêng. Đó là chiến lược tổng thể hướng về thị trường, về cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh và công nghệ ứng dụng trong hệ thống. Chiến lược thị trường bao gồm các giải pháp về sản phẩm, giá cả và các dịch vụ ngoại vi cùng các biện pháp thúc đẩy, tổ chức hệ thống cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Chiến lược cải cách về cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh bao gồm việc xây dựng tôn chỉ chung cho NHNTVN, thay đổi mô hình tổ chức cho phù hợp với chức năng kinh doanh và nhiệm vụ mới trong thời kỳ mới cùng với các chỉ tiêu chiến lược chung về con người. Chiến lược chung về công nghệ sẽ xây dựng trên cơ sở công nghệ hiện đại, phục vụ tốt cho khách hàng, đảm bảo khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng và đưa NHNTVN ngang tầm với các ngân hàng trong khu vực, tiến tới hội nhập quốc tế. Cùng với mục tiêu lớn của Nhà nước đó là giảm dần tỷ trọng vốn vay nước ngoài để thay thế bằng nguồn huy động trong nước, vì vậy theo dự kiến, mục tiêu trước mắt đến năm 2010 của NHNTVN vẫn là huy động vốn trong nước. Cụ thể trên thị trường II – Liên ngân hàng, các mục tiêu đề ra là NHNTVN sẽ duy trì và phát huy vị trí làm trung tâm thanh toán ngoại tệ liên ngân hàng. Đặc điểm của nguồn vốn này là tốc độ tăng trưởng hàng năm không cao, các tổ chức tín dụng chỉ gửi một lượng vốn hợp lý ở NHNT để đảm bảo thanh toán vãng lai. Trong năm 2006, nguồn vốn huy động trên thị trường này chiếm khoảng 23% trong tổng vốn huy động, khoảng gần 36tỷ đồng. NHNTVN đang cố gắng duy trì và nâng cao chất lượng của nguồn vốn này. Thị trường I - từ dân cư và các tổ chức kinh tế đạt gần 120tỷ. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì nguồn vốn này hiện nay còn nhàn rỗi rất nhiều, vì vậy mục tiêu huy động của NHNT trong thời gian tới là phải tập trung khai thác thị trường này. Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn dài hạn, NHNTVN đạt mục tiêu phấn đấu vốn trung và dài hạn(nhất là vốn dài hạn trên 5 năm) phải đạt 30% tổng nguồn. Sáu định hướng lớn trong công tác huy động vốn mà NHNTVN đặt ra là: Duy trì tốc độ tăng trưởng vốn bình quân từ 18 – 20%/năm. Tăng mạnh huy động vốn trung và dài hạn. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu nguồn vốn theo hướng duy trì thế mạnh về đồng ngoại tệ và tiếp tục đẩy nhanh tốc độ huy động tiền VND để nâng tỷ trọng vốn VNĐ trong tổng nguồn. Quan tâm tới nguồn vốn rẻ và đối tượng có nguồn vốn ổn định. Đa dạng hoá khách hàng để phân tán rủi ro, tạo sự ổn định Đẩy mạnh các hoạt động thúc đẩy quá trình tham gia vào thị trường tài chính quốc tế(phát hành trái phiếu hoặc vay mượn trên thị trường quốc tế) nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Như vậy, căn cứ vào thực lực hiện nay của Ngân hàng thì các giải pháp đưa ra phải bám sát những vấn đề sau: Một là: không ngừng củng cố và nâng cao hiệu quả hệ thống mạng lưới kinh doanh nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu thị trường để tăng cầu về tài sản ngân hàng của khách hàng tạo động lực cho hoạt động huy động vốn. Hai là: Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong kinh doanh, huy động tối đa vốn nội lực trong nước. Ba là: Tiếp tục hiện đại hoá công nghệ để cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính chất lượng cao để nâng cao uy tín với khách hàng, góp phần tạo lập nguồn vốn với qui mô và cơ cấu phù hợp cho nhu cầu sử dụng. Bốn là: Điều chỉnh cơ cấu huy động vốn theo thời gian, đảm bảo nguồn vốn trung và dài hạn, đáp ứng đủ nhu cầu tăng trưởng tài sản có thời hạn dài, ngăn ngừa rủi ro có thể gặp phải. Năm là: chiến lược huy động vốn phải phù hợp với điều kiện tổ chức mạng lưới, múc độ cạnh tranh trên từng thị trường để nguồn vốn tăng trưởng đồng thời với chi phí hợp lý. Sáu là: thông qua phân tích tài chính hàng năm để điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn sao cho có khoảng cách với tài sản nhạy cảm, có lợi khi lãi suất thị trường biến động. Bên cạnh các mục tiêu chung do Chính phủ chỉ đạo, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã xác định các mục tiêu cụ thể để trở thành một Tập đoàn tài chính đa năng (Financial Holdings) có quy mô đứng trong số từ 50 đến 70 Tập đoàn tài chính lớn nhất ở Châu Á vào giai đoạn 2015–2020, với tổng tích sản đạt trên 30 tỷ USD tổng tích sản và vốn chủ sở hữu khoảng 2 tỷ USD. Ngân hàng sẽ chuyển đổi cơ cấu tổ chức và áp dụng mô thức quản trị hiện đại theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất, sẵn sàng cho hội nhập và phát triển. Bên cạnh các hoạt động trong nước, Ngân hàng Ngoại thương sẽ mở rộng phạm vi ra các thị trường tài chính thế giới, với các loại hình sản phẩm, dịch vụ không chỉ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng thông qua các nghiệp vụ đầu tư tài chính, mua bán, sáp nhập công ty và phát triển các doanh nghiệp mới. Nền tảng công nghệ hiện đại tiên tiến nhất sẽ được đầu tư thích đáng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quản trị ngân hàng cũng như phát triển và cải tiến các sản phẩm, tiện ích phục vụ khách hàng với chất lượng cao hơn. Đồng thời, nguồn nhân lực sẽ được chú trọng phát triển thông qua các giải pháp đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân tài trong và ngoài nước cũng như thu hút chất xám từ các khu vực kinh tế phát triển. Với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động mọi mặt trong năm 2006, tạo tiền đề cho công cuộc cổ phần hoá, toàn thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên đã nỗ lực hết mình cho sự phát triển của ngân hàng. Năm 2006, Ngân hàng ngoại thương đã triển khai qui trình cấp tín dụng theo chuẩn mực quốc tế, từng bước tập trung hoá hoạt động tác nghiệp, đẩy mạnh phát triển mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch, nâng cấp và mở rộng các kênh và sản phẩm thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty thành viên và tích cực chuẩn bị cho công tác cổ phần hoá trong năm 2007. Mục tiêu tổng quát: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo luật pháp và thông lệ quốc tế, duy trì được vị trí đứng đầu ngành ngân hàng hiện nay. Tích cực hơn nữa trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhằm giữ vững vai trò là một ngân hàng đi đầu trong ngoại thương. Nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ và hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm góp phần phát huy nội lực cho nền kinh tế, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện tốt mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết sau khi gia nhập WTO. 3.2.1. Một số mục tiêu cụ thể cho năm 2007. Năm 2007, bên cạnh việc tập trung mọi nguồn lực cho quá trình cổ phần hoá, Ngân hàng Ngoại thương sẽ thực hiện các mục tiêu cụ thể để duy trì vị trí dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Chỉ tiêu kế hoạch: Tổng nguồn vốn tăng: trên 15% Tổng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế tăng: 20 – 22% Tổng dư nợ tín dụng tăng:18 – 20% Tỷ lệ nợ xấu(nhóm 3 -5): Dưới 3%. Lợi nhuận sau thuế tăng: 15%. Nhiệm vụ cụ thể: 1.Tập trung cao độ mọi nguồn lực để thực hiện thành công phương án cổ phần hoá: bao gồm phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị trường chứng khoán, chọn đối tác chiến lược, xây dựng qui chế để chuyển đổi điều hành từ doanh nghiệp Nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần, tạo động lực phát triển quan trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng. 2. Tiếp tục tiến hành đổi mới cơ cấu tổ chức và áp dụng phương thức điều hành theo thông lệ quốc tế, nâng cao một bước quản trị hệ thống, hoàn thiện phương pháp quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ. 3.Thay đổi, điều chỉnh một cách cơ bản cơ cấu đối tượng khách hàng theo hướng đa dạng hoá và hướng tới khách hàng mục tiêu: phát triển khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng bán lẻ thông qua việc cơ cấu lại tổ chức, phát triển mạng lưới, xây dựng hệ thống chính sách thích hợp cho từng đối tượng khách hàng mục tiêu, thiết kế và đưa vào áp dụng các sản phẩm mới phù hợp với yêu cầu của các nhóm khách hàng. 4. Đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn; tăng cường và đẩy mạnh các giải pháp nhằm triển khai ứng dụng một cách có hiệu quả các sản phầm mới, đặc biệt các sản phẩm đi kèm khuyến mãi. Đổi mới công tác khách hàng, trước hết là phong cách giao tiếp. 5. Tập trung đẩy mạnh hoạt động dịch vụ đầu tư và chứng khoán – coi đây vừa là hoạt động kinh doanh vừa là bước đi mang tính chất chiến lược, để tạo cơ sở cho việc cải cách hệ thống sau này. 6. Nghiên cứu các giải pháp để xây dựng một nền tảng công nghệ mới, bao gồm cả hệ thống cơ sở (corebanking), chuẩn bị cho bước cải cách cơ bản phù hợp với quy mô phát triển ngân hàng, phương thức quản lý mới và cấu trúc ngân hàng mới sau khi đã cổ phần hoá và hình thành tập đoàn. Về dài hạn, Ngân hàng Ngoại thương tiếp tục kiên trì thực hiện các giải pháp chiến lược để từng bước thực hiện Tầm nhìn 2015 đứng trong hàng ngũ 70 định chế tài chính hàng đầu Châu Á với phạm vi hoạt động cả trong nước và quốc tế. Những giải pháp chủ đạo bao gồm đa dạng hoá hình thức sở hữu nhằm nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động; tăng cường năng lực quản trị điều hành và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng; tăng cường năng lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển nguồn nhân lực thông qua các giải pháp đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân tài trong và ngoài nước cũng như thu hút chất xám từ các khu vực kinh tế phát triển… 3.3. Các giải pháp nâng các hiệu quả huy động vốn. Là một ngân hàng thương mại Nhà nước đứng đầu trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã có những ưu thế rất lớn trong quá trình huy động vốn, các hình thức huy động vốn truyền thống đã và đang phát huy được những tác dụng nhất định. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng cao, điều này không chỉ là thách thức đối với riêng ngân hàng Ngoại thương mà với tất cả ngành ngân hàng. Đứng trước cơ hội ấy, để có thể thực hiện tốt được tất cả các mục tiêu đề ra Ngân hàng Ngoại thương cần có một số giải pháp sau: 3.3.1. Áp dụng các hình thức huy động mới. Để góp phần đáp ứng được nhu cầu về vốn tín dụng ngày càng cao của nền kinh tế mở cửa, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Bên cạnh việc duy trì và nâng cao chất lượng của các hình thức huy động vốn truyền thống, cần phải liên tục tìm kiếm và đưa vào sử dụng các phương pháp huy động vốn mới nhằm hướng tới mọi đối tượng khách hàng, thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của họ. - Hình thức gửi hẹn rút: Trong thực tế, có rất nhiều khách hàng không thể có kế hoạch cụ thể cho các khoản tiền sẽ chi tiêu trong tương lai của mình. Nếu như họ đem gửi không kỳ hạn thì sẽ rất thiệt thòi vì lãi suất không kỳ hạn là rất thấp, còn nếu đem gửi có kỳ hạn xác định thì khoản tiền đó tuy được hưởng lãi suất cao hơn nhưng lại mất đi tính chủ động về thời gian. Từ thực tế trên, để có thể đáp ứng được nhu cầu của đối tượng khách hàng này, Ngân hàng nên tìm ra một phương thức sao cho có thể tiện dụng cả hai bên, vừa tiện dụng cho khách hàng mà ngân hàng lại vừa có thể chủ động được nguồn vốn của mình. Đó là phương thức khi gửi tiền người gửi sẽ được lựa chọn một khoảng thời gian nhất định cho việc rút tiền của mình, như một cuộc hẹn với ngân hàng về khoảng thời gian đáo hạn cho khoản tiền gửi. - Hình thức gửi một lần rút nhiều lần. Hình thức này được áp dụng chủ yếu trong quá trình ngân hàng tiến hành các nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự kết nối giữa các nền kinh tế khác nhau trên toàn thế giới đòi hỏi sự nhanh nhạy trong các giao dịch kinh doanh. Để làm được điều này, các khách hàng sẽ có một cam kết nhờ ngân hàng trực tiếp thực hiện các khoản thanh toán thay họ với các đối tác trong và ngoài nước. Việc này đòi hỏi tính chất của các khoản chi sẽ được chia nhỏ lẻ thành từng món, theo các thời gian khác nhau nhưng lại cần tính chính xác cao. Hình thức này chính là quá trình gửi một lần nhưng yêu cầu được rút nhiều lần. - Hình thức gửi nhiều lần, rút một lần(tiết kiệm gửi góp): Đây là một hình thức đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới và có khả năng thực hiện khả thi ở nước ta. Hình thức này thích hợp với các đối tượng có thu nhập trung bình và thấp. Họ không có nhiều tiền và không có các khoản thu nhập lớn nhưng họ vẫn có nhu cầu về các khoản chi trong tương lai. Chính vì vậy họ muốn gửi số tiền nhỏ của mình vào ngân hàng và kỳ vọng một mức lãi suất tốt cho tới khi số tiền đó đủ để họ có thể thực hiện một mục tiêu lớn nào đó trong cuộc sống của họ. Đối với mức sống của dân Việt Nam hiện nay, việc có thể để ra một khoản tiền cho mục đích “để giành” quả thật là rất khó, tuy nhiên nếu hình thức huy động vốn này có thể đem lại một mức lợi nhuận kỳ vọng thì có thể người dân sẽ yên tâm hơn cho cuộc sống của gia đình họ và chính họ trong tương lai.. Chính vì thế hình thức huy động vốn này sẽ nhắm vào đối tượng là những người dân có mức thu nhập trung bình, những người chỉ còn lại một chút ít tiền sau khi đã đáp ứng được mức nhu cầu tối thiểu trong sinh hoạt hàng này. - Tiết kiệm dự thưởng: Bằng cách đưa ra các cơ cấu giải thưởng hấp dẫn đối với các khách hàng có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng. Cách ngày hiện nay được áp dụng rộng rãi trên tất cả các ngân hàng trong cả hệ thống nhà nước và ngoài quốc doanh. Chính vì vậy nó có tính cạnh tranh cao, ngân hàng nào có mức giải thưởng nhiều thì dù lãi suất có thấp hơn một chút cũng có thể được khách hàng lựa chọn. - Tiết kiệm vị thành niên: Mỗi năm nước ta tăng khoảng 1,5 triệu người và có khoảng 10 triệu người ở tuổi vị thành niên, ở lứa tuổi này bản thân các em chưa có thu nhập để gửi tiết kiệm, thay vào đó, các bậc phụ huynh chấp nhận gửi tiền cho con mình với mục đích để dành cho việc học hành và tìm việc làm sau này,….Trong xã hội hiện nay, cùng với sự tiến lên của nền kinh tế, thu nhập của từng người dân dần dần được tăng lên thì quả thật đối với các ngân hàng, đây là một thị trường rất tiềm năng. Với các lợi thế sẵn có của mình, ngân hàng Ngoại thương cần có các biện pháp nghiên cứu và tìm hiểu đoạn thị trường này, tận dụng được lợi thế cạnh tranh đi trước các ngân hàng khác trong việc khai thác nhu cầu của khách hàng. Với hình thức này, đòi hỏi ngân hàng phải có lực lượng cán bộ đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng để dễ dàng xâm nhập được thị trường. - Tiết kiệm nhân thọ: người có tuổi thường lo cho bản thân, lo cho con cái về cuộc sống hàng ngày, về những rủi ro bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong lúc tuổi già,…….. chính vì vậy họ thường có nhu cầu tích luỹ một phần thu nhập của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu của chính họ khi già yếu. Hình thức tiết kiệm này về bản chất là mua bảo hiểm nhân thọ, ngân hàng Ngoại thương sẵn có mạng lưới chi nhánh rộng khắp, phục vụ nhiều đối tượng khách hàng, đó là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai hình thức huy động này. - Tiết kiệm gửi một nơi, rút nhiều nơi: Ngày nay, cùng với vòng quay đến chóng mặt của cuộc sống thường nhật, đặc biệt là trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp cũng như các cá nhân đều muốn thuận lợi trong quá trình sử dụng số tiền mà mình đã gửi ngân hàng, chính vì vậy họ luôn mong muốn bất kỳ thời điểm nào mà mình có nhu cầu thì đều được đáp ứng đầy đủ. Các khách hàng sẽ yêu cầu một loại hình dịch vụ mà họ có thể rút tiền tại bất kỳ chi nhánh nào của hệ thống ngân hàng mà không nhất thiết là tại nơi họ đã gửi tiền. Để làm được điều này, ngân hàng cần phải trang bị hệ thống công nghệ thông tin thật hiện đại, đồng nhất cả về thiết bị và con người, phải có phần mềm quản trị đảm bảo tính chính xác, an toàn và tiện lợi. Đội ngũ nhân viên phải có trình độ cao, đồng đều. - Tiết kiệm xây dựng nhà ở: Hình thức này hiện nay đã có nhưng chưa phát triển ở nước ta, đây cũng là một thị trường tiềm năng, cần được đẩy mạnh hơn nữa nhằm phát huy tác dụng hỗ trợ đời sống của nhân dân. Việc này được thực hiện theo cách ngân hàng có thể tiến hành các hoạt động cho vay bổ sung cùng với số tiền mà người dân đã gửi tiết kiệm tại ngân hàng để họ có đủ số tiền cần thiết để mua nhà theo một mức lãi suất thoả thuận, điều kiện với các khách hàng đảm bảo được khả năng trả nợ và có số dư tiền gửi đã đạt đến một mức nhất định so với giá trị nhà theo qui ước của ngân hàng. Người vay tiền sẽ lấy ngôi nhà đã mua được làm tài sản thế chấp trực tiếp cho khoản tiền mà họ đã vay. Tiết kiệm xây dựng nhà hoặc mua sắm tài sản là một hình thức hấp dẫn không những giúp mở rộng được nguồn vốn huy động của ngân hàng do đã hỗ trợ đắc lực đối với người gửi tiền mà còn tạo ra một kênh mới trong việc mở rộng tín dụng, giải quyết đầu ra cho lượng vốn còn nhàn rỗi của ngân hàng. Việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn mới nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực của khách hàng, thông qua mạng lưới các chi nhánh và đại lý rộng khắp của mình, ngân hàng Ngoại thương chắc chắn sẽ thu hút được ngày càng nhiều lượng vốn cần thiết, tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác, tạo ra khả năng tài chính vững mạnh trong các hoạt động tín dụng của mình. - Trong những năm tới, NHNTVN cần triển khai áp dụng những sản phẩm tốt hơn của một hệ thống ngân hàng hiện đại: + Áp dụng hình thức tài khoản tiền gửi có kỳ hạn kết hợp với hạn mức tín dụng cho các cá nhân có thu nhập cao. + Áp dụng hình thức tiết kiệm tích lũy để thu hút các khoản tiền nhỏ nhưng ổn định + Tổ chức hình thức rút tiền qua điện thoại cho khách hàng. + Loại sản phẩm tiết kiệm đảm bảo tỷ giá. Nhất là trong tình trạng lạm phát như hiện nay, đồng nội tệ mất giá nghiêm trọng, tỷ giá biến đổi theo chiều hướng tăng lên không ngừng, nếu không có các biện pháp hỗ trợ khách hàng kịp thời, ngân hàng sẽ có thể rơi vào tình trạng khách hàng rút tiền ồ ạt để mua vàng và ngoại tệ nhằm mục đích cất trữ hoặc đầu cơ. 3.3.2. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng, trong đó chiến lược về lãi suất là một trong những chiến lược quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi nền tài chính ngân hàng của Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi sự thay đổi của tình hình tài chính tiền tệ quốc tế. Khi một đất nước hoà nhập trong nền kinh tế thế giới chung, nó sẽ bắt buộc phải điều chỉnh theo sự thăng trầm của môi trường chung mà nó đang tồn tại. Lãi suất chính là yếu tố phần lớn cấu thành thu nhập và chi phí. Vì vậy, mọi biến động về lãi suất đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do tầm quan trọng như vậy nên việc xây dựng được một chính sách lãi suất phù hợp với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế thật sự là một vấn đề rất cần thiết đối với ngân hàng, đặc biệt là trong quá trình huy động vốn. Chính sách lãi suất của ngân hàng được xây dựng nhằm mục đích chính là: Huy động đủ vốn cho các mục đích sử dụng. Đảm bảo tính cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác trong việc thu hút vốn và cho vay tín dụng. Đảm bảo được lợi nhuận kỳ vọng của khách hàng. Chính sách lãi suất của ngân hàng tác động trực tiếp đến khối lượng vốn huy động cũng như chi phí của khoản vốn đó. Đồng thời việc hoạch định chính sách lãi suất cũng chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài. Khi xây dựng các mức lãi suất cho các loại hình huy động khác nhau, các kỳ hạn khác nhau ngân hàng luôn cần phải xem xét đến các yếu tố đó. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Chính sách lãi suất của các ngân hàng khác Tình hình tăng trưởng, biến động lạm phát, biến động tỷ giá. Các yếu tố tâm lý, thị hiếu của khách hàng. Việc ấn định lãi suất của ngân hàng trước hết phải tuân thủ đầy đủ các qui định về lãi suất của ngân hàng Nhà nước đưa ra cho các tổ chức tín dụng.Lãi suất cũng phải tuân theo qui luật cung cầu về vốn trên thị trường. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, thể hiện việc huy động vốn phải được thực hiện trên cơ sở sử dụng vốn. Ngân hàng phải đưa ra một mức lãi suất cạnh tranh, hấp dẫn với khách hàng, tạo được lợi thế so sánh đối với các NHTM khác. Nếu lãi suất được thay đổi tự do theo cung cầu thị trường thì sự cạnh tranh này cũng không nên hiểu là mức lãi suất cao hơn mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố có liên quan: hình thức trả lãi linh hoạt, phương thức xử lý đối với số tiền lãi chưa lĩnh, áp dụng lãi suất hợp lý đối với các khoản rút trước hạn…. Bên cạnh đó thì ngân hàng cũng nên áp dụng mức lãi suất khác nhau tại các vùng miền khác nhau trên cả nước. Một yếu tố rất quan trọng trong chính sách lãi suất của ngân hàng là phải đảm bảo yếu tố thực dương của lãi suất, đảm bảo quyền lợi lâu dài của người gửi tiền. Trong điều kiện kinh tế nước ta gần đây tuy đã có được những bước tăng trưởng nhất định tuy nhiên người dân vẫn lo lắng về lạm phát, về sự mất giá của đồng tiền. Vì vậy, để người dân có thể yên tâm gửi tiền, ngân hàng cần có sự đảm bảo về lãi suất, lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực hưởng cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến. Ngân hàng nên có các khoản bảo hiểm tiền gửi cho những khách hàng gửi nhiều tiền tại ngân hàng. Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn trong việc kích thích khách hàng gửi tiền, vì vậy ngoài yếu tố lòng tin vào ngân hàng, nếu mức lãi suất huy động hợp lý sẽ thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào ngân hàng, làm tăng khối lượng nguồn vốn huy động. Hiện nay, lãi suất về cơ bản đã được tự do hóa với việc sử dụng lãi suất cho vay thỏa thuận thay vì lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố. Đây cũng là một thuận lợi đáng kể của ngân hàng trong quá trình huy động vốn. Trong huy động vốn, mọi ngân hàng đều cố gắng các biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một lãi suất được chấp nhận trên thị trường. Giá vốn huy động thường được đánh giá bởi lãi suất huy động bình quân và một số chi phí khác: tiền lương nhân viên, tiền in ấn các giấy tờ nghiệp vụ, chi phí cơ sở vật chất…Các chi phí này phải được bù đắp từ nguồn thu của ngân hàng, chủ yếu là lãi vay. Mặc dù chi phí vốn ngoài lãi suất huy động chỉ là một phần rất nhỏ trong giá vốn nhưng nếu có các biện pháp quản lý chặt chẽ thì nó cũng sẽ giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng. Bên cạnh việc đa dạng hóa các nguồn huy động vốn thì việc đa dạng hóa các kỳ hạn và lãi suất tương ứng cho mỗi kỳ hạn cũng là một cách huy động vốn hiệu quả mà không tốn quá nhiều chi phí. Ngân hàng Ngoại thương nên huy động tiết kiệm theo năm với các kỳ hạn cơ bản là 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 18 tháng, 1năm, 2 năm, 3 năm và 5 năm. Các kỳ hạn được chia như trên về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của đông đảo khách hàng. Tương đương với những kỳ hạn đó sẽ là các mức lãi suất khác nhau tùy theo từng giai đoạn và mức độ khuyến khích đối với từng nguồn vốn của ngân hàng. Việc đa dạng hóa lãi suất không chỉ liên quan tới việc ấn định lãi suất huy động mà còn liên quan tới các phương thức thanh toán lãi hợp lý giữa các công cụ huy động vốn khác nhau. Đối với các loại tiền gửi tiết kiệm, khi đáo hạn, nếu khách hàng không rút tiền thì lãi sẽ được nhập gốc và được tự động gia hạn thêm một kỳ hạn bằng kỳ hạn ban đầu. Ngoài lãi suất ấn định cho các sản phẩm tiết kiệm , ngân hàng nên áp dụng mức lãi suất hấp dẫn hơn đối với các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…Ngân hàng nên áp dụng linh hoạt nhiều loại lãi suất như: lãi suất bậc thang, lãi suất cố định, lãi suất thả nổi hoặc vừa cố định, vừa thả nổi khi phát hành các công cụ nợ. Các công cụ huy động vốn dài hạn có lãi suất thả nổi thường làm người mua có cảm giác yên tâm vì nó sẽ được điều chỉnh theo lãi suất trên thị trường.Tất nhiên bên cạnh sự ưu đãi về lãi suất thì các công cụ nợ này có những ràng buộc nhất định về thời gian hay giảm sự linh hoạt về kỳ hạn và lãi suất sau khi đáo hạn. Nói chung, các loại giấy tờ có giá trên đều có thời hạn tương đối dài và thường chỉ được thanh toán sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên, nguồn vốn dài hạn ở ngân hàng thường không nhiều, khách hàng sẽ không dễ dàng để lựa chọn kỳ hạn dài khi gửi tiền cho ngân hàng. Rủi ro của việc gửi tiền dài hạn là nguy cơ bị mất lãi nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn. Nói chung nếu lãi suất thị trường ở mức thấp thì người dân sẽ không muốn gửi tiền dài hạn, họ hy vọng lãi suất kỳ sau sẽ cao hơn. Ngược lại khi lãi suất thị trường đang ở mức cao thì người dân sẽ cố gắng để tiền trong ngân hàng trong thời gian dài để được hưởng mức hấp dẫn về lãi suất. Do đó trong thời kỳ lãi suất thị trường thấp và ngân hàng gặp khó khăn về vốn thì ngân hàng có thể huy động lãi suất theo kỳ hạn nhỏ theo tháng hoặc theo tuần đồng thời tăng lãi suất huy động dài hạn. Ngược lại, trong thời kỳ lãi suất thị trường tăng cao ngân hàng có thể thu hẹp khoảng cách về lãi ở các kỳ hạn dài hơn một năm mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu về vốn. 3.3.3.Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn. Nguồn vốn huy động chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi nó được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn. Hoạt động tín dụng là hoạt động sử dụng thường xuyên nhất nguồn vốn của mọi ngân hàng. Hoạt động tín dụng đạt chất lượng cao giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro, đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn để tiếp tục cho vay. Những thông tin về nhu cầu mở rộng tín dụng cần chính xác, để trên cơ sở đó hoạch định chiến lược huy động vốn cho những thời kỳ tiếp theo, đảm bảo ngân hàng luôn có đủ vốn cho các nhu cầu kinh doanh, tránh những tác động xấu của việc ứ động vốn hoặc thiếu vốn. Các nhà quản trị ngân hàng mục đích cuối cùng cũng là tìm kiếm giải pháp sao cho đầu tư ít rủi ro nhất, có hiệu quả cao nhất dựa trên các điều kiện khách quan sẵn có và tất yếu kết hợp với sự năng động chủ quan. Trung tâm của việc quản lý, sử dụng vốn cảu ngân hàng là vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa thanh khoản và sinh lời. Nhiệm vụ của ngân hàng Ngoại thương là làm sao phân tích một cách hợp lý , kỹ lưỡng mục phí tổn thanh khoản tương ứng với các mục lợi nhuận có được từ khác khoản vay hay đầu tư có thể nâng cao mức sinh lời của ngân hàng trong khi vẫn giữ mức thanh khoản nhất định. Hiện nay, nhu cầu cho vay trung và dài hạn của NHNT là rất lớn đòi hỏi ngân hàng phải khẩn trương huy động vốn trung và dài hạn. Nếu dùng vốn ngắn hạn đầu tư hay cho vay dài hạn là một điều vô cùng mạo hiểm tới sự an toàn của ngân hàng. Các khoản cho vay trung và dài hạn, nhất là các dự án đầu tư phát triển, có khả năng sinh lời hạn chế, vốn được thu hồi chậm, rủi ro cao, lãi suất cho vay lại không cao hơn nhiều so với lãi suất ngắn hạn. Vì vậy, trong khi quan tâm hàng đầu của NHNT vẫn là tín dụng trung và dài hạn thị ngân hàng ngoại thương nên tập trung vào tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, tận dụng các nguồn vốn tín dụng hiện có để sinh lời. Thực hiện tốt công tác điều hòa vốn trong hệ thống NHNT đảm bảo phát huy lợi thế của một số chi nhánh có nguồn vốn huy động rẻ hơn. 3.3.4.Tăng cường nghiên cứu thị trường. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc mở rộng khách hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một ngân hàng nào. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả huy động vốn đảm bảo khả năng đáp ứng tốt nhất các nhu cầu về vốn để cho vay, đầu tư, ngân hàng cần tích cực hơn nữa trong việc nghiên cứu thị trường. Hiểu biết sâu sắc về thị trường, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng là một khâu quan trọng giúp ngân hàng có thể đưa ra được những chính sách hợp lý về sản phẩm huy động vốn và lãi suất tương ứng, cũng như việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, tiện ích phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội. Việc tìm hiểu thị trường không nhất thiết phải qua những hình thức thống kê, điều tra với chi phí tốn kém, mà có thể chỉ đơn giản thông qua việc tiếp xúc giữa cán bộ tín dụng, nhân viên quầy giao dịch với khách hàng, tìm hiểu nguyện vọng của khách hàng đối với các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, từ đó để có các điều chỉnh thích hợp. Hơn nữa, việc phát hiện sớm những nhu cầu mới trong xã hội cũng giúp ngân hàng có được một lợi thế tiềm năng cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng, giảm chi phí. 3.3.5.Mở rộng mạng lưới giao dịch, dịch vụ ngân hàng Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, tập trung ở khu dân cư, khu chế xuất, khu công nghiệp…, hoạt động ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Bên cạnh đó, ngân hàng nên tích cực nghiên cứu để đưa vào sử dụng các loại hình dịch vụ trực tuyến tiện ích cho người sử dụng: mạng lưới giao dịch tại nhà, tại đơn vị(homebanking), dịch vụ tư vấn về tài chính, đầu tư, luật, tư vấn về các nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng…, dịch vụ đại lý thanh toán thẻ, máy rút tiền tự động ATM, các dịch vụ chuyển tiền trực tuyến, chuyển tiền nhanh… Các dịch vụ này có tác dụng làm khách hàng biết đến ngân hàng nhiều hơn, từ đó tạo khả năng thu hút nguồn khách hàng tiềm năng. Lợi ích mà ngân hàng đạt được ở đây không chỉ là việc thu hút trực tiếp tiền gửi của khách hàng mà còn là những mối quan hệ, những cơ hội kinh doanh trong tương lai một khi đã được khách hàng biết đến và tín nhiệm. 3.3.6. Đầu tư đổi mới, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ thông tin và trang bị tốt cơ sở vật chất của hoạt động ngân hàng Thực tế đã chứng minh rằng ngân hàng là một trong những ngành kinh tế ứng dụng tin học mạnh mẽ và hiệu quả nhất. Công nghệ thông tin đã trở thành một nền tảng, một thứ cơ sở hạ tầng hỗ trợ đắc lực cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh và nâng cao hiệu quả chất lượng của hoạt động ngân hàng, tạo ra sức cạnh tranh cao trong nền kinh tế so với các đối thủ trong cùng ngành. Không thể có khái niệm ngân hàng hiện đại nếu không có hệ thống công nghệ thông tin. Công nghệ ngân hàng hiện đại tạo điều kiện cho ngân hàng có thể áp dụng được các hình thức huy động và sử dụng vốn, đồng thời có thể triển khai được các loại hình dịch vụ mới. Đặc biệt là NHNT, thế mạnh của ngân hàng là thanh toán ngoại thương, vì thế nếu không có công nghệ hiện đại, ngân hàng sẽ không thể kết nối được với hệ thống liên ngân hàng trong nước và quốc tế, từ đó sẽ không thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ liên quan tới thanh toán quốc tế một cách hiệu quả và nhanh chóng. Trong thời đại ngày nay, nếu ngân hàng nào có ưu thế về công nghệ thông tin thì ngân hàng đó sẽ có thế mạnh vượt trội trong việc thu hút khách hàng. Đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, cải tiến qui trình nghiệp vụ huy động vốn, nâng cao chất lượng công tác thanh toán, tăng cường công tác tiếp thị và mở rộng các loại hình nghiệp vụ ngân hàng. Đây chính là yếu tố quan trọng trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Chính nhờ sự tiện lợi, an toàn, nhanh chóng trong công tác thanh toán và việc được hưởng những dịch vụ ngân hàng mà điều này sẽ thu hút được nhiều khách hàng và nguồn vốn cho ngân hàng. Kết hợp với việc trang bị tốt cơ sở vật chất sẽ làm cho hoạt động huy động vốn nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung ngày càng hiệu quả hơn. 3.3.7.Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ và đổi mới phương thức phục vụ khách hàng Bên cạnh công nghệ, trang thiết bị hiện đại thì vấn đề nhân lực luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi chủ thể kinh doanh trong việc đảm bảo một sự phát triển ổn định, vững mạnh mang tính nhạy cảm cao như hoạt động ngân hàng. Những sai sót, vi phạm trong công tác nghiệp vụ cũng bắt đầu từ vấn đề nhân sự. Việc cần thiết đầu tiên là nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, bao gồm cả quản lý nghiệp vụ ở các phòng ban và cán bộ giao dịch trực tiếp với khách hàng. Trình độ của cán bộ cần phải toàn diện, bao gồm cả trình độ nghiệp vụ ngân hàng , trình độ ngoại ngữ, vi tính…., để có thể sử dụng tốt các thiết bị hiện đại và giao tiếp với khách hàng nước ngoài. Các cán bộ ngân hàng làm nhiệm vụ quản lý cần phải được tuyển chọn và đào tạo nghiêm túc, sắp xếp công việc phù hợp với chuyên môn, trình độ và ưu điểm của cá nhân mỗi người. Cơ cấu lao động ở các phòng ban phải đạt yêu cầu tinh giảm gọn nhẹ, hiệu quả, phát huy tối đa năng lực của tập thể cán bộ công nhân viên trong hệ thống ngân hàng. Đối với các cán bộ giỏi, nên có chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích họ làm việc nhiệt tình. Ngoài ra, ngân hàng nên đưa các cán bộ trẻ, có năng lực đi đào tạo ở nước ngoài để học tập những kinh nghiệm về quản lý kinh tế và nghiệp vụ ngân hàng tiên tiến, góp phần giúp ngân hàng hiện đại hóa hoạt động, tiến tới hội nhập được với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ của nhân viên đối với khách hàng, đặc biệt là các nhân viên làm việc tại quầy giao dịch, nơi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Thái độ phục vụ chính là yếu tố tạo nên ấn tượng của khách hàng đối với ngân hàng. Với thái độ phục vụ tận tình, các nhân viên ngân hàng đã tham gia một cách tự nhiên vào quá trình tự quảng bá cho hình ảnh của ngân hàng. 3.3.8. Công tác tuyên truyền quảng cáo Marketing ngân hàng Sự hiểu biết và thái độ thiện cảm của khách hàng là một yếu tố quan trọng trong việc mở rộng hoạt động của ngân hàng, tuy chất lượng dịch vụ tốt vẫn là điểm mấu chốt để thực hiện mục tiêu phát triển lâu dài của ngân hàng nhưng công tác tuyên truyền quảng bá ngày càng không thể thiếu đối với bất kỳ một đơn vị kinh doanh nào. Ngân hàng phải làm sao cho mọi người biết đến các loại hình dịch vụ của ngân hàng và các lợi ích được hưởng từ việc giao dịch với ngân hàng. Vì hiện nay, không phải tất cả mọi người dân đều biết cách lựa chọn và giao dịch với các ngân hàng, chính vì vậy nhiều người dân muốn gửi tiền vào ngân hàng nhưng lại ngại các thủ tục rườm rà, khó hiểu…Do đó NHNT nên đẩy mạnh đa dạng hóa các hoạt động quảng bá tuyên truyền hình ảnh của ngân hàng qua các phương tiện thông tin đại chúng như: đài, báo, truyền hình… cũng như qua chính công việc giao dịch hàng ngày sẽ làm cho khách hàng hiểu biết chính xác hơn, tin tưởng hơn về các loại hình dịch vụ ngân hàng, từ đó sẽ lựa chọn ngân hàng làm nơi đáng tin tưởng để tiến hành các loại dịch vụ mong muốn. Chất lượng dịch vụ, tiếng tăm của ngân hàng chính là những yếu tố góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh của ngân hàng mà vẫn tiết kiệm được chi phí, nhất là chi phí lãi suất trong quá trình huy động vốn. Quá trình cạnh tranh của các ngân hàng trong thời buổi hiện đại chủ yếu là cạnh tranh phi lãi suất thông qua việc nâng cao chất lượng phục vụ, thu hút nguồn khách hàng tiềm năng nhờ sự thỏa mãn tối đa mọi nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng. 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Để tăng cường huy động vốn, NHNN cần có những thay đổi trực tiếp trong quy định với các NHTM, tạo điều kiện cho các NHTM đối với tất cả các loại hình nghiệp vụ trong tiến trình tiến tới hội nhập kinh tế khu vực. Đối với NHNTVN đề nghị NHNN thực hiện một số biện pháp sau: - Kiến nghị về tăng vốn tự có Vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong chiến lược kinh doanh, vốn tự có có vai trò bảo vệ người gửi tiền, vốn tự có có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động của ngân hàng, vốn tự có có vai trò điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng. Vốn tự có là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định niềm tin của người dân khi gửi tiền vào hệ thống NHNTVN, đặc biệt trong thời gian hiện nay, khi Việt Nam tham gia vào WTO, việc phải mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài là một điều tất yếu. Khi đó, qui mô vốn tự có sẽ quyết định toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với công tác huy động vốn, vốn tự có là điều kiện quyết định sự thành công trong công tác huy động, ở nhiều nước qui định mức vốn tự có /tiền gửi là: 1/13; 1/20; 1/80. Ở Việt Nam, NHNN qui định tỷ lệ này là 1/20. Vậy để đảm bảo theo tiêu chuẩn vốn tự có, cần phải củng cố tiềm lực tài chính của NHNTVN. Tăng vốn tự có là một vấn đề quan trọng đặt ra với NHNTVN, đây là cơ sở quan trọng nhất để tăng khả năng cạnh tranh và đảm bảo hoạt động ngân hàng hiệu quả. Cùng với các giải pháp đổi mới quản lý, áp dụng công nghệ hiện đại, xử lý nợ tồn đọng,… tăng vốn tự có cũng là một điều kiện cần thiết. Bên cạnh nguồn vốn cấp phát của Chính phủ đối với các NHTM bằng cách phát hành trái phiếu đặc biệt của Bộ tài chính, NHNN cần tích cực phối hợp với NHNTVN trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa và bán cổ phiếu ngân hàng trên thị trường chứng khoán. Đây là kênh quan trọng nhất trong quá trình thu hút nhà đầu tư nhằm tăng vốn tự có để phát triển ngân hàng. Tổng vốn tự có của 4 NHTM lớn nhất của Nhà nước chỉ khoảng hơn 5 ngàn tỷ VNĐ. Khi các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư cho các công trình trọng điểm của nền kinh tế trong các ngành như dầu khí, điện lực, than, giấy, hàng không… thì rất khó có thể huy động được đủ vốn từ các NHTM trong nước do các NHTM này không thể cạnh tranh được trong công tác huy động vốn với các ngân hàng nước ngoài. Tính cho đến cuối năm 2006 thì vốn tự có của NHNTVN đã là hơn 11 nghìn tỷ VNĐ. Điều này cũng là một lợi thế của NHNT đối với các ngân hàng thương mại khác, khi nguồn vốn chủ sở hữu lớn sẽ là một đảm bảo cho các khoản đầu tư và cũng là một trong những sự lựa chọn hàng đầu cho các doanh nghiệp nếu muốn đầu tư vào các công trình cần nhiều tiền vốn. NHNN cần xây dựng chiến lược phát triển mạng lưới và hạ tầng cơ sở cho việc phát triển các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt theo từng giai đoạn, kết hợp chỉ đạo toàn bộ hệ thống các NHTM nhà nước cùng thực hiện. Hiện nay, tuy hệ thống công nghệ thông tin của nước ta đã có nhiều tiến bộ vượt trội nhưng cũng mới chỉ có một số ngân hàng có thể kết nối được với nhau trong hệ thống thanh toán liên ngân hàng, điều này gây trở ngại rất nhiều cho khách hàng, đặc biệt là những doanh nghiệp làm ăn buôn bán với nước ngoài, tiền của họ không thể thanh toán được ở bất kỳ đâu và bất kỳ thời gian nào, vì thế nếu các ngân hàng trong nước không đổi mới phương thức thanh toán, họ sẽ sẵn sàng chọn các ngân hàng nước ngoài, đối tác hơn hẳn chúng ta về phương diện công nghệ và mạng lưới thanh toán trên khắp toàn cầu. - Thống nhất phần mềm tại trung tâm thanh toán thẻ để thẻ của một ngân hàng có thể rút tiền tại tất cả mọi ngân hàng khác, hạn chế tình trạng hiện nay, khách hàng đi mãi mà không tìm ra điểm rút tiền của ngân hàng mình sở hữu thẻ, điều này gây cho khách hàng rất nhiều khó chịu. - Hoàn chỉnh và tổ chức tốt thị trường tiền tệ Đây là thị trường vốn ngắn hạn, là công cụ để NHNN điều hòa khả năng thanh toán giữa các ngân hàng, là nơi đáp ứng nhu cầu của các NHTM thiếu vốn và là thị trường đầu ra của các NHTM thừa vốn. Giải quyết tốt các mối quan hệ trên thị trường này, một mặt giúp NHNN quản lý và điều hành được lượng tiền mặt, quản lý được hạn mức tín dụng với các NHTM, mặt khác, tạo điều kiện cho các NHTM tìm được nơi đầu tư và là căn cứ để ngân hàng định ra mức lãi suất đầu ra, đầu vào hợp lý. - Theo luật NHNN thì khi huy động vốn, các NHTM phải thực hiện dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được NHNN qui định và điều chỉnh theo từng thời kỳ theo mục tiêu mà chính sách tiền tệ đề ra. Tuy nhiên nếu khoản dự trữ đó quá cao thì NHNN phải có chính sách bù lỗ hoặc trả lãi hợp lý cho khoản tiền đó. - Nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường mở, đa dạng hóa các công cụ, chứng chỉ có giá, tạo điều kiện cho thị trường mở hoạt động sôi động hơn. Hiện nay, trên thị trường mở, các loại chứng từ có giá tham gia thị trường còn quá ít( chỉ có tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và trái phiếu chính phủ.) 3.4.2.Kiến nghị với Nhà nước - Vận động , yêu cầu các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện mở tài khoản, trả lương, chi trả các dịch vụ qua tài khoản cá nhân. Đối với các ngành dịch vụ , Chính phủ cần có các biện pháp hạn chế tới mức thấp nhất việc thanh toán bằng tiền mặt. - Thành lập ban chỉ đạo liên ngành để cùng nhau hướng dẫn chung trong cả nước về mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng gồm đại diện của Văn phòng chính phủ, các ngành Ngân hàng, Tài chính, thuế và tổng liên đoàn lao động tại địa phương. - Cơ chế tiền lương, hệ thống các chỉ tiêu khuyến khích đối với các NHTM nhà nước và bản thân người lao động + Đối với các NHTM nhà nước: hiện chưa có một cơ chế khuyến khích hữu hiệu đối với các NHTM nhà nước, việc giao đơn giá tiền lương, tỷ lệ trích lập các quỹ… còn được xây dựng một cách cứng nhắc, dựa trên nhiều tiêu thức phi kinh tế, không đúng với bản chất của tiền lương là làm đòn bẩy kích thích phát triển sản xuất, chưa gắn với năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả kinh doanh dẫn đến việc không khuyến khích được sự nỗ lực phấn đấu của các ngân hàng + Đối với người lao động: cố gắng phấn đấu để mặt bằng lương của các NHTM nhà nước gần bằng hoặc bằng với các NHTM tư nhân hoặc ngân hàng nước ngoài. Điều này sẽ khuyến khích nhân viên làm việc hiệu quả hơn, góp phần đem lại hiệu quả cho hoạt động của ngân hàng. - Đẩy mạnh việc phát triển thị trường chứng khoán nhằm tạo điều kiện cho các NHTM thu hút vốn trung và dài hạn. Với cơ chế huy động vốn như hiện nay thì không thể đáp ứng theo yêu cầu đầu tư trung và dài hạn, đồng thời không tạo điều kiện thu hút và sử dụng nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam. Thị trường chứng khoán nếu như được phát triển một cách đều đặn và khỏe mạnh thì nó sẽ là một kênh thu hút vốn trung và dài hạn với chi phí rất thấp. Thông qua việc phát hành chứng khoán, các nhà đầu tư cũng có thể chuyển chứng khoán của mình thành tiền mặt một cách dễ dàng nhanh chóng. Hiện nay, ngân hàng Ngoại thương chủ yếu chỉ có vốn ngắn hạn, còn vốn trung và dài hạn được huy động thông qua phát hành trái phiếu, tuy nhiên việc sử dụng công cụ trái phiếu không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả cao. Năm 2007, NHNTVN chính thức cổ phần hóa thành công, cổ phiếu của ngân hàng lần đầu tiên được chào bán rộng rãi ra công chúng, đây là một thông tin thật sự tốt cho tình hình huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Việc tham gia vào thị trường chứng khoán cũng làm cho trái phiếu của ngân hàng tăng tính thanh khoản lên rất nhiều.Để thị trường chứng khoán phát triển cần hoàn thiện được điều kiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh các công ty cổ phần, kiện toàn việc phát hành trái phiếu Chính phủ, từng bước mở rộng và phát hành trái phiếu ngân hàng, cổ phiếu, trái phiếu công ty loại vô danh…., tạo nhiêu hàng hóa cho thị trường hoạt động mạnh mẽ. - Tạo sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như: xác định tỷ lệ lạm phát phù hợp đảm bảo kích thích đầu tư, phát triển kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33464.doc
Tài liệu liên quan