Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại VPBank – chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội

Thị trường cho vay KHCN tại Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng nhưng chưa được khai thác đúng mức. Do đó phát triển cho vay tín chấp KHCN là một hướng đi đúng và đáp ứng được nhu cầu của người dân. Việc đẩy mạnh hoạt động này cũng sẽ giúp các NHTM có thêm nguồn thu, nhất là khi môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở lên khốc liệt hơn. Các KHCN cũng sẽ được hưởng lợi nếu ngân hàng đẩy mạnh, mở rộng hoạt động này vì họ sẽ có tiền để phục vụ nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh của họ. Còn đối với nền kinh tế: nền kinh tế sẽ phát triển hơn khi nhu cầu mua hàng của người dân được đáp ứng nhanh hơn, cuộc sống của người dân cũng sẽ trở lên đầy đủ hơn, ngân hàng sẽ thực sự trở thành trung gian tài chính quan trọng không chỉ của các doanh nghiệp mà còn là của cả người dân.

doc62 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại VPBank – chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với khách hàng cá nhân tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Cho vay tín chấp KHCN là một hoạt động của cho vay. Chính vì thế cho vay tín chấp cũng là thành phần gây ảnh hưởng đến hoạt động cho vay chung của ngân hàng. 2.2.1. Thực trạng hoạt động cho vay nói chung tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo. Trong các hoạt động ngân hàng, cho vay là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu. Chính vì thế, chiến lược phát triển tín dụng lành mạnh, an toàn và hiệu quả được Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo đặc biệt quan tâm.Trong những năm qua chi nhánh đã thực hiện đúng những quy định của Ngân hàng nhà nước, quy chế tín dụng chung của ngân hàng, từng bước lành mạnh hoá tình hình tín dụng của mình. Chi nhánh có được nền tảng của Vpbank đã xây dựng quy chế riêng của mình về cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân rất chặt chẽ, rõ ràng. Bảng 2.2: Dư nợ cho vay tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo Đơn vị: tỷ đồng 2005 2006 2007 29/02/2008 Dư nợ vay 119,286 145,217 167 172,285 Dư nợ vay có tài sản đảm bảo 119,286 130,6957 152,1 156 Dư nợ vay không có tài sản đảm bảo 0 14,52174 14,9 16,285 Dư nợ vay khách hàng doanh nghiệp 71,573 87,13 100,2 103,371 Dư nợ vay khách hàng cá nhân 47,72 58,0869 67,2 68,914 Những ngày cuối năm 2007 Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo hoạt động rất sôi nổi trong không khí hoà cùng nhịp xuân. Tuy nhiên sau tết nguyên đán Mậu Tý 2008, cũng như nhiều ngân hàng khác, lượng tiền bị rút khỏi ngân hàng rất nhiều khiến Vpbank rơi vào tình trạng thiếu tiền kinh khủng, có những ngày chi nhánh không còn tiền để giải ngân. Đến đầu năm 2008, Ngân hàng Trung Ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% khiến các ngân hàng đua nhau huy động vốn với lãi suất cao. Không ngoại lệ Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo cũng tăng lãi suất tiền gửi lên trên 12%/năm. Do nguồn tiền vào thiếu nên chi nhánh đang tạm ngừng cho vay và đến đầu tháng 3 mới bắt đầu bước sang một công cuộc mới. Nên dư nợ vay của Vpbank Trần Hưng Đạo tăng lên không đáng kể. Cuối năm 2007 tổng dư nợ tại chi nhánh là 167 tỷ đồng,. tăng 15 % so với năm 2006 và 35% so với năm 2005. Tính đến thời điểm 29/02/2008 tổng dư nợ là 172,285 tỷ đồng. Tăng 3,1% so với năm 2007. Điều này cho thấy dư nợ tại chi nhánh chưa có biến triển, và là con số tương đối thấp so với một số ngân hàng thương mại khác và chỉ chiếm khoảng 2% đến 3% so với toàn hệ thống. Hiện nay Chi nhánh Trần hưng Đạo phân loại các hoạt động cho vay dựa trên quy định chung của Vpbank. Trong đó, cho vay có tài sản đảm bảo chiếm khoảng 90% hoạt động cho vay của chi nhánh trong năm 2006 và 2007. Còn năm 2005 thì 100% là cho vay có tài sản đảm bảo, cho vay tín chấp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong hoạt động cho vay. Chính vì thế, mảng cho vay tín chấp tại chi nhánh chưa được khai thác triệt để. Đây là một kho tàng để chi nhánh tiếp tục mở rộng và phát triển. Nếu xét về phương diện khách hàng là doanh nghiệp và khách hàng cá nhân thì tỷ lệ của hai hoạt động này tương đối đều nhau. Cho vay khách hàng doanh nghiệp luôn luôn giữ một tỷ lệ nhất định, chiếm 60% tổng dư nợ tín dụng, còn lại là 40% cho vay đối với khách hàng cá nhân. 2.2.2. Thực trạng hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại Vpbank. 2.2.2.1. Đối tượng và điều kiện cho vay tín chấp KHCN tại Vpbank Cho vay tín chấp KHCN hiện nay đang là hoạt động rất mới đối với Vpbank chi nhánh Trần Hưng đạo. Nên cho đến nay hoạt động này chỉ mới thực hiện được vài tháng. Chính vì thế phạm vi họat động của chi nhánh cũng chưa lớn lắm. Đối tượng cho vay tín chấp KHCN chủ yếu là cán bộ nhân viên. Chi nhánh có những điều kiện cụ thể: Trong đó, khách hàng vay là cán bộ, công nhân viên của Vpbank phải có hộ khẩu thường trú hoặc KT3 cùng địa bàn tỉnh, thành phố thuộc trung ương với các đơn vị kinh doanh. Thuộc độ tuổi từ 22 đến 55 (đối với nữ) hoặc 60 (đối với nam). Là cán bộ, nhân viên công tác chính thức tại đơn vị chủ quản (đã vào biên chế , kí hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng), không phải là người lao động làm việc theo hợp đồng lao động dưới 12 tháng hoặc hợp đồng lao động theo mùa vụ, đồng thời phải thoả mãn một số điều kiện như: Đối với sản phẩm cho vay tín chấp nhân viên Vpbank : Khách hàng vay phải có thời gian công tác chính thức từ 3 tháng trở lên tại Vpbank.Còn đối với sản phẩm cho vay tín chấp nhân viên: Khách hàng vay phải có thời gian công tác chính thức từ 12 tháng trở lên tại cơ quan đang làm việc. Khách hàng có mức thu nhập chắc chắn hàng tháng( có thể chứng minh được) gồm : Lương, thưởng, phụ cấp…do đơn vị chủ quản trả, tối thiểu đối với sản phẩm cho vay tín chấp Vpbank: Khách hàng vay phải có thu nhập tối thiểu 2 triệu đồng/ tháng. Đối với sản phẩm cho vay tín chấp nhân viên: Khách hàng vay phải có thu nhập tối thiểu là 3 triệu đồng/tháng.Còn đối với sản phẩm cho vay tín chấp cán bộ quản lý: Khách hàng phải có thu nhập tối thiểu 3 triệu đồng/ tháng. Khách hàng vay phải có điểm xếp hạng tín nhiệm loại B trở lên theo phiếu đánh giá tín nhiệm ( mẫu số 04/ CVTC). Riêng đối với cán bộ , công nhân viên Vpbank nếu kết que xếp hạng tín nhiệm dưới mức B thì phải được cán bộ quản lý trực tiếp của cán bộ nhân viên đó nhận xét tốt về công việc và đề nghị VPBank xem xét cho vay tín chấp. 2.2.2.2. Lãi suất cho vay và phương thức trả lãi. Lãi suất cho vay tại Vpbank Trần Hưng Đạo áp dụng theo khung lãi suất cho vay do Vpbank quy định trong từng thời kỳ theo thời hạn cho vay. Lãi suất cố định áp dụng cho thời hạn vay không quá 12 tháng. Lãi suất thả nổi, định kỳ thay đổi lãi suất mỗi năm một lần, sử dụng lãi suất cho vay tiết kiệm của Vpbank( lãi suất lĩnh lãi cuối kỳ) cộng 0.3% - 0.35%/tháng nếu thời hạn cho vay quá 12 tháng. Cũng như Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo có phương thức tính lãi tiền vay khác nhau: Đối với cho vay từng lần (thu lãi hàng tháng, thu nợ gốc cuối kỳ với điều kiện thời gian cho vay không quá 12 tháng) tiền lãi tính trên dư nợ thực tế. Đối với khoản phí thanh toán nợ trước hạn, lãi suất nợ quá hạn , lãi suất phạt chậm trả thì chi nhánh áp dụng cho từng thời điểm: Lãi suất phạt nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong thời điểm chuyển nợ quá hạn. Phí thanh toán nợ trước hạn áp dụng trong trường hợp khách hàng trả hết số tiền vay trước hạn khi thời gian vay chưa đủ 50% thời gian vay theo thoả thuận. Phí thanh toán nợ trước hạn: 0.05%/tháng tính trên số tiền nợ gốc trả trước hạn thực tế. Phí này được tính và thu một lần khi thanh lý hợp đồng tín dụng( tối đa là 5 triệu). Đối với những khách hàng trả chậm lãi quá 5 ngày thì tính phạt chậm trả lãi kể từ ngày đầu tiên 0.05%/ngày tính trên số tiền chậm trả thực tế. 2.2.2.3. Quy trình cho vay tín chấp KHCN tại chi nhánh Trần Hưng Đạo Với một khoản cho vay tín chấp KHCN nào phát sinh tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo thì quy trình cho vay được áp dụng mẫu chuẩn của cả hệ thống. Khi khách hàng nộp hồ sơ xin vay vốn các cán bộ tín dụng cũng làm theo một quy trình định sẵn, đó là: Tiếp nhận hồ sơ xin vay tín chấp KHCN. Sau khi xem xét và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ thì phần tiếp theo là trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Quá trình này được thực hiện trong một thời gian với các chỉ tiêu mà ngân hàng đặt ra. Nếu được duyệt thì ngân hàng sẽ xét duyệt, ký kết hợp đồng tín dụng, tiếp tục giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng. Cuối cùng là ngân hàng tiến hành thu nợ và đưa ra các phán quyết tín dụng mới. 2.2.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh thực trạng về hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo. Cho vay tín chấp khách hàng cá nhân là một hoạt động khá phát triển của toàn hệ thống Vpbank. Nhưng đây lại là một hoạt động rất mới tại chi nhánh Trần Hưng Đạo. Hoạt động được đưa vào thực hiện chính thức vào ngày 23/11/2007 và đến nay mới chỉ là những bước đầu. Mặt khác, đến thời điểm hiện tại thì hoạt động này chỉ mới áp dụng cho đối tượng công nhân viên là chủ yếu, những trường hợp khác chỉ chiếm rất ít. Sở dĩ hoạt động này được đưa vào thực hiện tại chi nhánh muộn như thế là do ban đầu chi nhánh chỉ tập trung vào những hoạt động cho vay chủ yếu là có tài sản đảm bảo, vì mức độ rủi ro không cao như hoạt động cho vay tín chấp. Đối với một chi nhánh non trẻ mới được khai trương và đưa vào hoạt động thì bất cứ một chi nhánh nào cũng mong chi nhánh mình có uy tín với cả hệ thống trên cơ sở tạo được uy tín với khách hàng và hoạt động một cách có hiệu quả. Hơn nữa, đối tượng chủ yếu của chi nhánh lại là doanh nghiệp, nên mảng khách hàng là cá nhân rất ít được ngân hàng quan tâm đến. Trong 3 năm, từ sau khi hoạt động và xây dựng. Chi nhánh đã có được một nền tảng vững chắc và bắt đầu mở rộng các hoạt động khác, nhằm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ của mình cũng như phát triển về mọi mặt trên thị trường kinh tế - tài chính. Và sau đây là những chỉ tiêu đạt được của chi nhánh trong thời gian qua: Doanh số cho vay Cho vay tín chấp KHCN là một mảng tương đối mới của ngân hàng đang được quan tâm và đưa vào thực hiện. Doanh số cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân của chi nhánh hiện nay là 900 triệu đồng. Vì đối với một khoản vay tín chấp một khách hàng thì số tiền vay tối thiểu là 10 triệu, với thời hạn vay tối thiểu là 1năm (12 tháng). Bởi vậy, doanh số cho vay tín chấp KHCN bằng với dư nợ tín chấp hiện tại của chi nhánh. Dư nợ cho vay đối với KHCN. Với những lý do như đã nêu ở trên thì dư nợ cho vay tín chấp khách hàng cá nhân tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo cho đến ngày 29/02/2008 là 900 triệu đồng, chiếm 0.5% dư nợ chi nhánh. Mặc dù là một chi nhánh tương đối của Vpbank nhưng dư nợ trung bình/cán bộ tín dụng ở chi nhánh Trần Hưng Đạo chỉ đạt 900 triệu trong gần 3 tháng. Con số này so với chi nhánh khác của Vpbank và các chi nhánh của các ngân hàng thương mại cổ phần khác còn khá nhỏ và đây chỉ là nền tảng cho cả một chặng đường dài mà chi nhánh tiếp tục hướng đến. Có thể nói, Vpbank đang bắt đầu đi sâu hơn vào các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ bằng cách mở rộng và phát triển phạm vi hoạt động. Tiếp cận gần hơn với đối tượng khách hàng cá nhân mà trước đây tổ chức còn chưa chú trọng đến. Một con số là nền tảng và cũng là điểm tựa để chi nhánh dựa vào đó quan tâm hơn đến hoạt động nhằm tạo điều kiện phát triển mọi mặt cho chi nhánh, cũng như cả hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, một thực trạng nữa cho thấy do nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ còn hạn chế. Chi nhánh chưa có chính sách cụ thể về việc đề bạt cán bộ nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng, cơ chế lương thưỏng chưa được hoàn thiện, cơ chế động viên khuyến khích cán bộ nhân viên phát triển tuy được quan tâm nhưng chưa được xây dựng một cách có hệ thống, đội ngũ cán bộ, nhân viên được bổ sung từ các nguồn lực khác còn theo xu hướng tình thế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển chung. Hơn nữa, những chi nhánh cấp 2 này chưa hề có sự tách biệt kinh doanh giữa 2 bộ phận khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp. Rõ ràng một cán bộ tín dụng không thể cùng lúc làm tốt 2 việc đó. Thu nợ và nợ quá hạn Cũng xuất phát từ lý do đã được nêu ở trên thì thu nợ và nợ quá hạn chưa phát sinh. Trong kỳ chỉ thu lãi hàng tháng, gốc thu cuối quý . Cơ cấu dư nợ cho vay tín chấp KHCN Tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo, nếu xét cơ cấu cho vay tín chấp KHCN theo thời gian thì cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ lệ lớn hơn cho vay ngắn hạn, đặc biệt cho vay trung hạn ( từ 12 tháng đến dưới 5 năm ) vì nhu cầu vay tín chấp KHCN lại được khách hàng sử dụng với mục đích chủ yêú là tiêu dùng. Mặt khác, nhu cầu vay tiêu dùng tập trung ở vay mua nhà và ôtô, đó là những khoản vay có giá trị lớn mà nguồn trả nợ là nguồn thu nhập từ hàng quý, hàng tháng của người vay, kỳ hạn trả nợ dài sẽ phù hợp với thu nhập của nhiều người có mức thu nhập trung bình trong xã hội. Cho vay ngắn hạn khi nguồn trả nợ chủ yếu từ bán một căn nhà khác để trả, hoặc từ nguồn thu nhập bất thường nào đấy. Chính vì thế sự biến động theo xu hướng này là một tất yếu, phù hợp với xu hướng chung của đại bộ phận các ngân hàng hiện nay. Còn nếu xét cơ cấu cho vay tín chấp KHCN mục đích vay vốn thì cho vay tín chấp KHCN liên tục có những thay đổi khác nhau nhưng đến thời điểm hiện tại thì cho vay tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ cho vay tín chấp KHCN. Trong xu hướng tới thì cho vay tín chấp để đầu tư sản xuất kinh doanh sẽ có tiến triển mạnh, vì khi hoạt động cho vay tín chấp KHCN được phát triển và mở rộng hơn, không khắt khe trong vấn đề thủ tục hành chính nữa thì cơ hội để khách hàng tiếp cận hơn nhiều nhằm đáp ứng được nhu cầu về vốn của mình. Thực trạng của chi nhánh đã phản ánh phần nào quy mô cũng như hình thức phát triển của chi nhánh Trần Hưng Đạo. Do hoạt động này là rất mới, nên các chỉ tiêu khác chưa được phản ánh một cách rõ ràng, như: Lợi nhuận từ cho vay tín chấp KHCN, chất lượng cho vay tín chấp KHCN,... Chính vì vậy, Vpbank Trần Hưng Đạo cần được mở rộng và phát triển hoạt động này càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên vẫn đảm bảo được những điều kiện mà toàn hệ thống đã đặt ra. 2.3. Đánh giá hoạt động cho vay tín chấp - đối với khách hàng cá nhân tại Vpbank chi nhánh Trần hưng Đạo. Bất cứ một hoạt động nào được chính thức đưa vào hoạt động cũng có những điểm thuận lợi cũng như hạn chế nào đó. Chính vì vậy, khi đưa ra một hoạt động tương đối mới Vpbank chi nhánhTrần Hưng Đạo cũng phải xác định những gì có được cũng như những gì phải khắc phục và không thể khắc phục khi hoạt động. Thuận Lợi Sau khi hoạt động chính thức được duyệt để đưa vào thực hiện. Mặc dù con số đối với cho vay tín chấp KHCN là chưa lớn lắm nhưng dù sao cũng là bước khởi đầu khá thuận lợi cho việc đầu tư vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó cho vay tín chấp KHCN nâng cao hình ảnh của Vpbank và tăng khả năng huy động vốn. Một trong những đặc điểm của loại hình này là khách hàng cá nhân nên số lượng khách hàng đông dễ tiếp cận. Đến với Vpbank, khách hàng cảm thấy hài lòng trong việc vay vốn và họ sẽ lựa chọn các dịch vụ ngân hàng như: gửi tiết kiệm , thanh toán, giao dịch mua bán ngoại tệ, chuyển tiền từ nước ngoài về và chuyển tiền ra nước ngoài gián tiếp làm tăng khả năng huy động vốn và các dịch vụ khác, sau cùng họ chính là người quản cáo tốt nhất cho ngân hàng. Mặt khác, chất lượng tín dụng của các khoản cho vay tín chấp KHCN ngày càng được nâng cao. Phòng quản lý và thu hồi tại Hội Sở đã tiến hành phân loại các khoản nợ vay thành 6 loại: Nợ bình thường, nợ quá hạn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Việc phân loại như trên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác theo dõi, điều tra và thu hồi nợ vay. Các khoản nợ vay luôn được thống kê định kỳ số tiền còn phải trả theo kỳ hạn trả và các cán bộ tín dụng cũng đã tiến hành dốc thúc, nhắc nhở khách hàng thường xuyên để trả các khoản nợ được thanh toán kịp thời. Nhờ vậy, tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh tương đối thấp, ở mức kiểm soát được là 1,2%. Bên cạnh đó công tác đánh giá khách hàng thể nhân được tiến hành một cách khoa học với sự kết hợp 2 hệ thống đánh giá: Hệ thống đánh giá mang tính phán đoán và hệ thống đánh giá mang tính thống kê. Hệ thống đánh giá mang tính phán đoán là phương pháp đánh giá khách hàng dựa vào kinh nghiệm, trình độ, và sự hiểu biết của cán bộ tín dụng thông qua tiếp xúc, trò chuyện cùng khách hàng để tìm hiểu về nhân thân lai lịch, khả năng tài chính và thiện chí trả nợ của khách hàng. Còn hệ thống đánh giá mang tính thống kê là tiến hành cho điểm khách hàng theo một số chỉ tiêu: Về yếu tố nhân thân lai lịch như: Tuổi, nghề nghiệp, thời gian công tác, thời gian làm công việc hiện tại, tình trạng cư trú, số người ăn theo, thu nhập hàng năm của cá nhân, thu nhập hàng năm của gia đình. Về yếu tố tài chính: Tỷ trọng vốn vay trên tổng vốn xin vay, tình hình trả nợ với Vpbank và ngân hàng khác; tình trạng trả lãi; tổng nợ( kể cả khoản vay đang xét) trê giá trị bất động sản hoặc động sản có thể chứng minh được quyền sở hữu hợp pháp của người vay; các dịch vụ sử dụng của Vpbank. Về tài sản đảm bảo ( không xét đối với cho vay tín chấp) Với mỗi yếu tố trên, Vpbank đánh giá và xác định đươc điểm số mà khách hàng đạt được. Phương pháp này rất hiệu quả giúp được thời gian xét duyệt cho vay và đưa ra các chính sách khách hàng phù hợp về lãi suất, về các kỳ hạn trả gốc, lãi. Ngoài ra, Vpbank chi nhánh Trần Hưng đạo còn có nhiều điểm thuận lợi khác như: Vpbank có một hội đồng quản trị đoàn kết, nhất trí, có quyết tâm cao trong việc chấn chỉnh và khôi phục ngân hàng. Các thành viên Hội đồng quản trị đều có năng lực, kinh nghiệp trong việc quản trị ngân hàng, dẫn dắt thành công ngân hàng vượt qua giai đoạn ngặt nghèo nhất, với phong cách làm việc theo hướng chuyên nghiệp hoá chứ không mang tính tình cảm tuỳ tiện như trước đây. Hội đồng Vpbank có đủ bề dày kinh nghiệm, tài trí và sự trong sạch mà không phải bất cư ngân hàng nào có được. VPbank chi nhánh Trần Hưng Đạo xuất phát từ yêu cầu và phát huy truyền thống chung của cả hệ thống, có đội ngũ nhân viên làm việc trong môi trường ngân hàng gặp khó khăn, danh tiếng không cao, thu nhập hạn chế nhưng lại phải luôn giải quyết những vụ việc bức xúc nên bảnh lĩnh làm việc và công tác được nâng cao. Bên cạnh đó, công cuộc mở rộng phạm vi hoạt động chi nhánh mới tuyển thêm được nhiều nhân viên trẻ, nhiệt tình năng động, có trình độ học thức nên đã tạo ra một bầu không khí làm việc mới, luôn cố gắng phục vụ khách hàng tốt nhất. Chi nhánh luôn phải đối đầu với những tình trạng tài chính khó khăn nên biết quý trọng những đồng lợi nhuận thu được, chi tiêu tiết kiệm nhưng có hiệu quả. Đồng thời chi nhánh cũng có nhiều kinh nghiệm và tạo được quan hệ mở rộng với các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật thông qua thời gian giải quyết những vụ việc phức tạp tại ngân hàng. Từ đó hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật cho phối các mối quan hệ đó và thấy được hiệu quả thiết thực và các giải pháp hợp tác khi nảy sinh các vấn đề cần. Hạn chế Xuất phát từ bản chất của hình thức cho vay tín chấp, Vpbank Trần Hưng Đạo bước đầu đưa hoạt động này vào quá trình cho vay của ngân hàng sẽ phải gặp những khó khăn nhất định: Đối tượng cho vay: Vpbank chỉ phát triển mạnh ở những sản phẩm cho vay tín chấp cán bộ công nhân viên nhưng đối với những khách hàng thuộc đối tượng khác chi nhánh bỏ mất cơ hội có thể đem lại hiệu quả chính từ những đối tượng khách hàng đó. Hạn chế ở đối tượng cho vay khiến khách hàng khó có được nhu cầu của mình nên tạo tâm lý e ngại không muốn đến vay. Thời gian cho vay tín chấp KHCN chưa đủ dài: Thời gian trả góp mua nhà theo quy định của Vpbank tối đa là 10 năm nhưng thực tế triển khai thời hạn lại ngắn hơn rất nhiều, phần lớn từ 2-3 năm chiếm tỷ trọng 68,5%, số khoản vay từ 5-7 năm chiếm số ít , chỉ chiếm 31%. Rõ rang trong điều kiện phần lớn người dân có thu nhập trung bình hiện nay thì thu nhập hàng tháng để trả cho các nghiã vụ một khoản vay 12 năm chỉ bằng một nửa số tiền cần thiết cho một khoản vay 5 năm, sẽ phù hợp với thu nhập của đại bộ phận khách hàng có thu nhập trung bình đến vay tín chấp mua, xây sửa nhà hơn. Hoạt động Marketing chưa thưc sự phát huy được hiệu quả Các sản phẩm của Vpbank chưa được đặt tên thương mại- nhãn hiệu hàng hoá - để phân biệt được các sản phẩm còn lại của các đối thủ cạnh tranh: Do đó, chưa gây được sự chú ý quan tâm của khách hàng : So sánh với Techcombank có các sản phẩm mới như “ nhà mới” hay mua “ ôtô xịn” hay sản phẩm “ gia đình trẻ”. So sánh với các sản phẩm của ABbank có “ you car” hay “ you house” … Từ ngữ trên tờ rơi quảng cáo còn mang tính thuật ngữ chuyên ngành dẫn đến gây khó khăn nhất định cho bộ phận khách hàng khi đọc và thấu hiểu. Các hoạt động phân tích khách hàng , lựa chọn thị trường mục tiêu và nghiên cứu đối thủ cạnh tranh còn hạn chế Hiện tại Vpbank đã có bộ phận marketing và phát triển ản phẩm mới, thuộc phòng tổng hợp và quản lý chi nhánh tại Hội sở Hà Nội với nhiệm vụ tìm kiếm các cộng tác viên và phát triển sản phẩm mới, các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo vẫn được tiến hành thường xuyên thông qua một công ty có chức năng quan hệ cộng đồng (P/R) chuyên nghiệp tuy nhiên hoạt động này tỏ ra chưa hiệu quả. Hoạt động marketing của bộ phận nào chỉ do bộ phận đó đảm nhiệm. Hoạt động marketing của bộ phận tín dụng chỉ do cán bộ tín dụng đảm trách, song song vơí quản lý theo dõi quản lý hồ sơ cho vay họ còn phải tiếp thị mở rộng thị trường. Việc quản cáo các phương tiện thông tin đại chúng chỉ dừng lại ở việc đưa ra những thủ tục và đặc điểm sản phẩm cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng chứ chưa thực sự giúp khách hàng nhận biết được lợi ích mà cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng đem lại cho mình trong khi điều đó là rất cần thiết để gợi mở nhu cầu của khách hàng. Cũng chính vì thế có thể nhận thấy, khách hàng đến vay tiêu dùng tại ngân hàng chủ yếu là khách hàng truyền thống gắn bó lâu năm với ngân hàng hoặc qua sự giới thiệu của người thân, bạn bè. Vốn điều lệ của Vpbank còn thấp. Vốn điều lệ của ngân hàng còn nhỏ so với các đối thủ cạnh tranh. Năm 2007 vốn điều lệ của Vpbank chỉ bằng 30% vốn điều lên của ngân hàng Á Châu (ACB), bằng 20% ngân hàng Sài Gòn Thường Tín ( Sacombank ), bằng 405 ngân hàng Kỹ Thương ( Techcombank ). Nguyên nhân chính là vốn tự có của tổ chức tín dụng này chiếm tỷ lệ thấp so với các tổ chức tín dụng khác có cùng quy mô. Số lượng cổ đông ít, tổng chi nhánh trên toàn hệ thống nhỏ do mạng lưới hẹp khiến VPbank ít tiếp cận được với nhiều khách hàng trên cả nước. Chúng ta đều biết, vốn tự có quan trọng như thế nào đối với hoạt động của ngân hàng nó không chỉ tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động của ngân hàng. Nếu vốn tự có nhỏ ngân hàng khó mà nâng cao tỷ trọng thị phần của mình trong hệ thống ngân hàng cũng như hình ảnh và uy tín của mình. Trong khi đó, với đối tượng khách hàng thể nhân hình ảnh và uy tín của ngân hàng lại rất quan trọng để họ tìm đến ngân hàng. Vốn tự có khiêm tốn như vậy sẽ là một bất lợi cho Vpbank khi cạnh tranh với các đối thủ khác trong lĩnh vực cho vay tín chấp KHCN. Chính vì chịu những ảnh hưởng bởi những hạn chế của hệ thống, nguồn vốn của chi nhánh rất hẹp và chịu những ảnh hưởng chung như cả hệ thống của mình. Ngoài ra chi nhánh còn chịu nhiều hạn chế từ nhiều điều kiện khác như: Đối thủ cạnh tranh, môi trường kinh tế, môi trường văn hoá xã hội… Bởi vì trong những năm gần đây , mức độ cạnh tranh trong hoạt động cho nói chung và cho vay tín chấp khách hàng cá nhân nói riêng ngày càng mạnh mẽ. Suốt từ đầu năm 2008 đến nay hàng loạt các ngân hàng thương mại kể cả các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài cạnh tranh dữ dội với nhau đưa ra những hỗ trợ và khuyến mãi cho những nhà đầu tư cũng như những doanh nghiệp hay cá nhân. Các ngân hàng thương mại cổ phần khác đưa ra rất nhiều chính sách cho khách hàng. Mức độ cạnh tranh không chỉ dừng ở khối các NHTM trong nước mà còn là các chi nhánh và văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài lớn. Lĩnh vực cho vay tín chấp KHCN trong thời gian qua đã có dấu hiệu cho thấy thị trường nay đang phát triển mạnh mẽ, thể hiện ở việc ngày càng có nhiều ngân hàng hướng tới các hộ gia đình với mục tiêu cung cấp các khoản vay bán lẻ. Trong môi trường đó, sự cạnh tranh có thể rất gay gắt. Vì vậy, Vpbank cần không ngừng nghiên cứu đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội có như vậy Vpbank mới có thể đứng vững trên thị trường trong thời gian tới. Chịu sự tác động của môi trường kinh tế và môi trường xã hội cũng tạo nên cho Vpbank những khó khăn nhất định: Nền kinh tế của Việt nam trong thời gian qua có tăng, song còn nhỏ và thấp xa nhiều nứơc trong khu vực. Nền kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu nhưng tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm vẫn còn thấp. Điều này ảnh hưởng tới sự phát triển của ngân hàng thương mại nhất là sự cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng cao. Bên cạnh đó, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu vốn và lao động, yếu tố tiến bộ về khoa học công nghệ và quản lý vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Đây cũng là nguyên nhân giải thích tại sao công nghệ tài chính ngân hàng vẫn chưa được quan tâm phát triển thích đáng khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, nhiều doanh nghiệp cũng như nền kinh tế chưa có những bước tiến đáng kể. Những tồn tại nền kinh tế trên đã tác động xấu đến việc thu hút đầu tư nước ngoài dẫn đến thị trường trong nước chưa có sự phát triển vượt bậc, mức sống của người dân còn thấp, so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới và chính điều đó đã hạn chế nhu cầu của con người. Đi cùng với tình hình trên thì tỷ lệ thất nghiệp nước ta khá cao. Đặc biệt trong khu vực thành thị, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ bình quân chung cả nước, bởi những người trong độ tuổi lao động tập trung phần lớn ở thành thị. Do vậy, làm cho thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân trong xã hội đã thấp nhưng mức tăng lại chậm, điều này cho thấy khả năng cho vay tín chấp KHCN là hạn chế. Các NHTMCP còn chịu sự cạnh tranh chưa cân bằng từ phía các NHTM quôc doanh. Những ngân hàng này có ưu thế về nguồn huy động rẻ hơn lại chỉ phải chịu 2% phí sử dụng vốn ngân sách, trong khi các NHTMCP phải huy động với lãi suất cao hơn cũng như phải trả cổ tức với tỷ lệ cao hơn rất nhiều. Chính vì thế lãi suất cho vay tín chấp KHCN tại các NHTMCP thường cao hơn tại các ngân hàng quốc doanh. Cộng thêm vào đó là môi trường văn hoá xã hội ở Việt nam có tác động không thuận lợi cho hoạt động cho vay tín chấp KHCN. Với bản chất là một hoạt động cho vay có đối tượng là khách hàng cá nhân nên vay tiêu dùng đóng vai trò rất quan trọng. Mà như chúng ta đã biết rằng, tuy sống trên cùng một đất nước, một quốc gia nhưng thói quen tâm lý khác nhau giưa người dân miền Bắc và người miền Nam. Trong khi miền Nam thíc tiêu dùng và làm ra để hưởng các nhu cầu tiện ích mới thì người miền Bắc lại rất tiết kiệm và không quen sử dụng dịch vụ ngân hàng. Chẳng hạn người dân ở khu vực Hà Nội, thường không thích đi vay nên phần lớn họ chờ tích luỹ đủ mới tiêu dùng. Hoạt động của Vpbank chủ yếu là ở khu vực phía Bắc, do đó tìm cách tác động vào tâm lý này của người dân để họ tìm đến với ngân hàng hưởng lợi ích từ ngân hàng sẽ là một phương pháp hữu hiệu để các sản phẩm cho vay tín chấp KHCN được nhiều người biết đến thông qua cơ chế cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, việc phát triển cho vay tín chấp KHCN qua thẻ ở các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore đã phát triển từ lâu rồi nhưng ở Việt Nam Cho vay qua thẻ mới chỉ chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách hàng là những người đi công tác và hoạt động tại nước ngoài, còn phần đông dân cư chưa hiểu về thẻ, chưa coi đó là phương tiện thanh toán đa tiện ích của mình, cũng chưa có điều kiện sử dụng nó. Điều này xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế Việt Nam và cũng xuất phát từ một thực tế là việc sử dụng thẻ ở Việt Nam còn nhiều bất tiện do số cơ sở chấp nhận thẻ quá thấp, có chăng chỉ tập trung ở các thành phố lớn …Các cơ sở cung ứng hàng hoá, dịch vụ cũng có ý muốn thu tiền mặt. Chính vì vậy thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm trên 30% trong bán buôn và 95% trong bán lẻ ở nước ta. Ngoài ra, hiểu biết của người dân Việt Nam về hoạt động cho vay tín chấp KHCN còn nhiều hạn chế bởi đây là loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ trong lịch sử ngành ngân hàng trong khi việc phổ cập kiến thức về hoạt động cho vay tín chấp KHCN trên các phương tiện thông tin đại chúng còn ít. CHƯƠNG 3:GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY TÍN CHẤP ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN TẠI VPBANK CHI NHÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO. 3.1. Định hướng của Vpbank Trần Hưng Đạo về hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân. Mục tiêu của chi nhánh trong năm 2008 là phát triển cho vay tín chấp đối với các đối tượng khác của khối khách hàng cá nhân, các khách hàng của khác ngoài cán bộ công nhân viên nhằm thay đổi cơ cấu tín dụng hợp lý. Theo đó, chi nhánh sẽ nâng dần tỷ trọng cho vay tin chấp KHCN trong tổng dư nợ nhằm phát triển và đa dạng hoá các hình thức đầu tư. Vì vậy, năm 2008 chi nhánh đề ra mục tiêu hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tín chấp KHCN nói riêng như sau: Tổng dư nợ: 278,389 tỷ đồng (tăng 66.7% so với năm 2007). Trong đó: Dư nợ nội tệ: 216,029 tỷ đồng, tăng 54% so với năm 2007 và chiếm 77.6% tổng dư nợ. Dư nợ ngoại tệ: 62,359 tỷ đồng, tăng 133.3% so với năm 2007 và chiếm 22.4% tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn: 189,304 tỷ đồng, tăng 50.44% so với năm 2007 và chiếm 68% tổng dư nợ. Dư nợ trung hạn: 44,542 tỷ đồng, tăng 48% so với năm 2007 và chiếm 16% tổng dư nợ tín dụng. Dư nợ dài hạn: 44,542 tỷ đồng, tăng 300% so với năm 2007 và chiếm 16% tổng dư nợ tín dụng. Dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ: 189,304 tỷ đồng, tăng 55.25% so với năm 2007 và chiếm 68% tổng dư nợ tín dụng. Dư nợ cho vay dự án lớn: 61,245 tỷ đồng, tăng 74.6% so với năm 2007 và chiếm 22% tổng dư nợ tín dụng. Dư nợ cho vay KHCN: 4,8987 tỷ đồng, tăng 544.3% so với năm 2007 và chiếm 1,75% trong tổng dư nợ tín dụng. Bao gồm: Dư nợ ngắn hạn: 1,95948 tỷ, chiếm 40% dư nợ cho vay KHCN. Dư nơ trung hạn: 2,93922 tỷ, chiếm 60% dư nợ cho vay KHCN. Để đạt được chỉ tiêu cho vay tín chấp KHCN hết sức ấn tượng như trên, chi nhánh đã đề ra một số giải pháp nhằm hiện thực hoá kế hoạch đề ra: Thứ nhất, chi nhánh sẽ tập trung khai thác các KHCN là cán bộ trong hệ thống VPBank và các NHTM khác, các cán bộ công nhân viên trong các đơn vị hành chính. Tiếp đó, chi nhánh sẽ mở rộng đến tất cả các đối tượng có thu nhập ổn định khác. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện và mở rộng và phát triển danh mục các sản phẩm cho vay tín chấp KHCN mà ngân hàng cung cấp để có thể đáp ứng và thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. Bên cạnh việc duy trì các sản phẩm cho vay phục vụ tiêu dùng truyền thống, chi nhánh sẽ tiếp tục mở rộng cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh mà chi nhánh đã bỏ ngỏ trong thời gian qua. Ngoài ra, chi nhánh cũng sẽ thực hiện một số hình thức cho vay chưa được sử dụng đến nhằm tăng doanh số cho vay Thứ ba, chi nhánh sẽ cải tạo cơ sở vật chất cho khang trang hơn để thu hút khách hàng đến với ngân hàng bởi cơ sở vật chất thể hiện chính bộ mặt của ngân hàng. Nó chính là hình thức marketing rất tốt về các sản phẩm của ngân hàng đến với khách hàng. Đồng thời tiếp tục nâng cấp phòng giao dịch để có thể thu hút nhiều khách hàng đến với các phòng giao dịch này không chỉ để gửi tiết kiệm mà còn vay vốn phục vụ mục đích của cá nhân họ. Thứ tư, làm tốt công tác tư tưởng đối với từng cán bộ tín dụng, tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng để có thể quán triệt các biện pháp chỉ đạo kinh doanh của Hội đồng quản trị, giám đốc chi nhánh đến từng cán bộ tín dụng. Từ đó giúp cán bộ tín dụng thay đổi cách suy nghĩ, cách làm việc, chuyển dần từ ưu tiên cho vay khách hàng doanh nghiệp nhà nước sang cho vay KHCN nhiều hơn. 3.2. Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các NHTM cổ phần đều xác định cho vay tín chấp KHCN là một hướng đi mới, vì thị trường cho vay tín chấp KHCN là mảng thị trường lớn nhưng hiện vẫn chưa được khai thác đầy đủ. Đây là thị trường mục tiêu mà rất nhiều NHTM cổ phần xác định là thị trường mục tiêu và đầu tư tiền bạc, nhân lực hòng thâm nhập và chiếm lĩnh. Nếu chi nhánh Trần Hưng Đạo không có những chiến lược cụ thể và lâu dài sẽ rất khó cạnh tranh, và rất dễ mất thị phần cho vay tín chấp KHCN vào tay các NHTM cổ phần khác. Vì vậy, trên cơ sở chiến lược chung của Vpbank, chi nhánh Trần Hưng Đạo cần đề ra một chiến lược phát triển cho vay tín chấp KHCN đồng thời đảm bảo sự phát triển hài hoà với các hoạt động khác của ngân hàng, sử dụng hiệu quả và khai thác tối đa các điểm mạnh, các nguồn lực của ngân hàng, đồng thời tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận của chi nhánh. Chiến lược này bao gồm rất nhiều các giải pháp, sau đây tôi xin đề xuất một số giải pháp: 3.2.1. Chính sách cho vay tín chấp khách hàng cá nhân cần được chú trọng hơn. Để có thể phát triển cho vay tín chấp KHCN thì dĩ nhiên việc đầu tiên chi nhánh cần làm là thay đổi cách nghĩ, cách làm trong hoạt động cho vay tín chấp KHCN. Ngân hàng cần có những phương án khả thi nhằm thay đổi cơ cấu tín dụng hợp lý, có lợi cho tăng trưởng tín dụng, nhất là khi mà các doanh nghiệp nhà nước đang được cơ cấu lại để chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần. Khi doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi sang hình thức sở hữu mới – hình thức công ty cổ phần, họ sẽ có nhiều kênh huy động vốn hơn, nhất là huy động từ trong dân thông qua kênh gọi vốn từ thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ giảm được gánh nặng cho vay các doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty lớn làm ăn yếu kém. Khi đó, họ sẽ có nhiều vốn hơn để mở rộng cho vay sang các đối tượng khác như các doanh nghiệp quốc doanh, KHCN. Vì vậy, cần có sự thay đổi về cách nghĩ, cách làm trong hoạt động cho vay: tập trung hơn vào cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện đang làm ăn hiệu quả, cho vay tín chấp KHCN hiện đang có nhu cầu tiêu dùng lớn (vì thu nhập của người dân ngày càng tăng cùng với sự phát triển rất nhanh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay). Ngoài ra, địa bàn của chi nhánh nằm ở quận Hoàn Kiếm là một nơi kinh doanh, buôn bán khá nhộn nhịp, nhu cầu vay vốn của người dân phục vụ kinh doanh, buôn bán rất lớn, chi nhánh có thể tận dụng lợi thế này từ địa bàn để tăng doanh số cho vay đối với KHCN. Vì vậy, việc chú trọng hơn đến cho vay tín chấp KHCN là một giải pháp cơ bản cần thực hiện nhằm phát triển cho vay tín chấp đối với KHCN. 3.2.2. Đa dạng hoá và nâng cao tính cạnh tranh của các hình thức cho vay tín chấp. Chi nhánh cần phát triển các hình thức cho vay tín chấp KHCN cả về mục đích cho vay, về phương thức trả nợ, phương thức cho vay và nên đa dạng hoá các lãi suất cho vay. Hiện nay, chi nhánh chưa triển khai một số nhu cầu vay vốn như nhu cầu vay xuất khẩu lao động, nhu cầu vay đi du học, mặc dù theo qui chế chi nhánh được triển khai các hình thức cho vay này. Trên địa bàn có nhiều nhu cầu vay vốn phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động, nhu cầu vay đi du học nhưng do chi nhánh chưa triển khai nên các nhu cầu này đều không được đáp ứng. Điều này đã làm giảm tính đa dạng hoá các sản phẩm cho vay tín chấp KHCN, đồng thời cũng làm giảm tính cạnh tranh của hình thức cho vay này. Đối với cho vay đi du học, khách hàng chỉ cần chứng minh khả năng tài chính của mình đủ khả năng trả nợ (có thu nhập cao và ổn định, có khả năng trả nợ cao) là chi nhánh có thể cho vay vốn trang trải chi phí sinh hoạt và học tập. Do vậy, đây là một hình thức cho vay khá đơn giản, chi nhánh nên triển khai hình thức này để có thể tăng thêm doanh số cho vay tín chấp KHCN. Đối với cho vay phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động có phức tạp hơn khi chi nhánh cần có quan hệ với doanh nghiệp xuất khẩu lao động, chính quyền cũng như ban quản lý xuất khẩu lao động tại địa phương, chi nhánh sẽ phối hợp với bên tuyển dụng để phổ biến, hướng dẫn người lao động làm hồ sơ, thủ tục vay vốn, đôn đốc trả nợ. Quy trình cho vay xuất khẩu lao động tương đối phức tạp và rủi ro cao đòi hỏi khả năng thẩm định kỹ của chi nhánh. Nếu triển khai được hoạt động cho vay này sẽ làm tăng thêm doanh số cho vay tín chấp KHCN và tạo điều kiện thuận lợi để triển khai việc phát triển cho vay tín chấp KHCN của chi nhánh. Hình thức cho vay theo thẻ tín dụng, cũng mới được chi nhánh triển khai, mặc dù hiện nay nhu cầu vay qua thẻ của nhân viên là rất cao. Chi nhánh cần xem xét triển khai ngay hình thức này, trước hết là ở một bộ phận cán bộ công nhân viên của chi nhánh. Sau đó, sẽ bám sát tình hình thực tế, ghi nhận các vướng mắc phát sinh để từ đó hoàn thiện và đưa sản phẩm ra áp dụng rộng rãi. Toàn bộ các hình thức cho vay tín chấp KHCN của chi nhánh là cho vay trực tiếp tức là khách hàng có nhu cầu vay vốn thì trực tiếp đến ngân hàng, trình bày yêu cầu vay vốn và hoàn thiện hồ sơ vay vốn. Với hình thức vay này, chi nhánh chưa khai thác hết được tiềm năng của thị trường cho vay tín chấp KHCN mà chủ yếu là cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên. Vì vậy, để có thể phát triển hoạt động cho vay tín chấp KHCN, chi nhánh cần kết hợp thêm với hình thức cho vay gián tiếp. Theo đó, chi nhánh sẽ thiết lập mối quan hệ với các doanh nghiệp bán lẻ như doanh nghiệp bán lẻ ô tô, xe máy, các siêu thị bán đồ gia dụng,...; sau khi xác định được nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của khách hàng, đồng thời đánh giá tốt về khả năng chi trả của họ, ngân hàng sẽ kí hợp đồng tín dụng với khách hàng, sau đó khách hàng sẽ mua hàng, người bán tập trung các hoá đơn bán hàng gửi lên ngân hàng đề nghị thanh toán, và bước cuối cùng là chi nhánh thu nợ của khách hàng. Hoặc trong trường hợp có một nhóm khách hàng vay vốn để sản xuất một sản phẩm thủ công nào đó, ngân hàng có thể cho vay thông qua một người trung gian (thường là người đứng đầu nhóm, tổ, hội), tức là chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian này như thu nợ, phát tiền vay,...Hình thức này rất thích hợp trong trường hợp một thành viên nào đó trong nhóm không đủ điều kiện nào đó, các thành viên còn lại có thể đứng ra đảm bảo cho thành viên đó, đồng thời nó cũng tiết kiệm được thời gian giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng. Nếu triển khai tốt hình thức cho vay này thì chi nhánh sẽ dễ dàng tăng thêm doanh số cho vay. Đối với các hình thức cho vay truyền thống của ngân hàng (bao gồm cho vay để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, cho vay phục vụ nhu cầu xây nhà, sửa nhà, mua nhà và cho vay phục vụ nhu cầu mua đồ dùng sinh hoạt của KHCN), ngân hàng cũng cần linh hoạt hơn trong qui trình cho vay để thuyết phục khách hàng vay vốn ngân hàng, và từ đó họ sẽ thu hút thêm các khách hàng mới đến với ngân hàng. Từ đó, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chiến lược phát triển cho vay KHCN của chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh nên thực hiện đa dạng hoá các phương thức trả nợ cho phù hợp với kì thu nhập của khách hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc chi trả vốn và lãi vay. Hiện nay, chi nhánh chủ yếu áp dụng hình thức thu nợ theo niên kim cố định, nhưng hình thức này không thể phù hợp với tất cả đại bộ phận khách hàng, do vậy chi nhánh cần điều chỉnh kì thu nợ cho phù hợp để giúp khách hàng cảm thấy thuận tiện khi vay vốn của chi nhánh. Thêm vào đó, chi nhánh nên áp dụng một tỷ lệ lãi suất linh động chứ không nên áp dụng một tỷ lệ lãi suất cứng nhắc với tất cả khách hàng. Tuỳ vào uy tín của khách hàng, khả năng tài chính, giá trị tài sản đảm bảo mà chi nhánh có thể xem xét để giảm lãi suất cho khách hàng. Nếu thực hiện tốt những công việc như trên thì chi nhánh sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển cho vay tín chấp KHCN và hoàn thành kế hoạch cho vay đã đề ra. 3.2.3. Giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo. Chúng ta biết rằng cho vay tín chấp là hoạt động mới được chú trọng đối với chi nhánh Trần Hưng Đạo. Do còn rất non trẻ nên có thể sẽ có nhiều rủi ro sảy ra. Cho vay tín chấp đi vào thị trường và được chú trọng là một dấu hiệu tốt trong vấn đề phát triển hoạt động cho vay nói chung, và cho vay đối với khách hàng cá nhân nói riêng. Để hạn chế những rủi ro có thể sảy ra Cán bộ thẩm định của ngân hàng cần phải rất cẩn trọng phân tích đối với từng món vay cũng như cán bộ tín dụng cần phải có những quyết định thật đúng đắn, rành mạch để ngân hàng có hiệu quả tốt trong công cuộc phát triển cũng như mở rộng các hoạt động tại chi nhánh. Chi nhánh có thể sử dụng một số biện pháp quản lý tài khoản của khách hàng. Với mỗi một khách hàng vay tín chấp một khoản lớn, ngân hàng yêu cầu khách hàng mở một tài khoản và kiểm soát khách hàng thông qua hệ thống tài khoản này. Trường hợp này đã áp dụng cho những cán bộ công nhân viên làm việc tại Vpbank, và cần áp dụng rộng rãi hơn cho nhiều đối tượng khách hàng. Điều này khiến cho mức độ rủi ro của ngân hàng giám đi đáng kể. Tuy nhiên để làm được như vậy là khó, nên cần phải sự nỗ lực của các cán bộ tín dụng. Mặt khác, Ngân hàng cũng cần yêu cầu các cán bộ tín dụng thương xuyên để ý, chăm sóc khách hàng. Nếu khách hàng có nhu cầu phát sinh thì ngân hàng kịp thời đáp ứng, tạo niềm tin cũng như uy tín của ngân hàng. Nếu phát hiện thấy những điều bất trắc từ phía khách hàng thì ngân hàng cũng kịp thời tìm phương án ngăn chặn. 3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển của ngân hàng. Các cán bộ tín dụng không chỉ giỏi về kỹ năng thẩm định mà còn phải giỏi về kỹ năng bán hàng, tư vấn, mà muốn giỏi về các kỹ năng này thì bắt buộc cán bộ tín dụng phải học. Vì vậy, chi nhánh cần tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tín dụng về nghiệp vụ cho vay tín chấp KHCN. Từ đó nâng cao kỹ năng thẩm định, tạo phong cách chuyên nghiệp góp phần nâng cao chất lượng và phát triển cho vay tín chấp KHCN, bởi vì cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của ngân hàng trong con mắt khách hàng. Nếu cán bộ tín dụng có khả năng thuyết phục, có năng lực, nhanh nhẹn, nhiệt tình, và có thái độ phục vụ tốt thì sẽ luôn giữ được khách hàng và thu hút thêm khách hàng mới đến với chi nhánh. Khi mà sản phẩm của các ngân hàng ngày càng tương đồng với nhau thì phong cách phục vụ và thái độ của nhân viên chính là yếu tố tạo ra sự khác biệt giữa các ngân hàng. Việc nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng sẽ giúp rút ngắn thời gian thẩm định một món vay, từ đó nâng cao năng suất lao động và giúp cho chi nhánh có thể phục vụ được đông đảo khách hàng hơn. Việc thời gian thẩm định một món vay giảm có tác dụng rất lớn, vì nó sẽ làm thoả mãn nhanh chóng nhu cầu của khách hàng, nhất là với những khách hàng cần được giải ngân nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của họ. Hiện nay, thời gian để xét duyệt một khoản vay của chi nhánh là khá dài: đối với khoản vay ngắn hạn là 3 ngày, khoản vay trung và dài hạn là 7 ngày kể từ khi cán bộ tín dụng nhận đủ hồ sơ, sau thời gian này cán bộ tín dụng phải trả lời xem có cho khách hàng vay vốn hay không, nếu từ chối thì phải nêu lý do vì sao từ chối. Nhưng khoảng thời gian xét duyệt một khoản cho vay như vậy là quá dài, không tạo nên sự cạnh tranh vì có những NHTM cổ phần khác chỉ cần 24h có thể trả lời được khách hàng ngay. Vì vậy, để có thể tạo ra sự cạnh tranh nhằm thực hiện chiến lược phát triển hoạt động cho vay nói chung và phát triển cho vay tín chấp KHCN nói riêng, chi nhánh cần giảm thời gian xét duyệt một món vay xuống. Ở phòng tín dụng của chi nhánh hiện nay thiếu đi sự chuyên môn hoá, tức một cán bộ tín dụng vừa đảm nhiệm cho vay doanh nghiệp lẫn cho vay KHCN. Điều này là dễ hiểu khi số lượng cán bộ tín dụng ở đây chỉ có ít người mà còn kiêm luôn cả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, sẽ rất khó nếu phân công mỗi người đảm nhiệm một hoạt động nhỏ đối với từng đối tượng cho vay như cho vay phục vụ nhu cầu mua nhà của KHCN, cho vay phục vụ mua đồ dùng sinh hoạt, tuy nhiên theo tôi chi nhánh nên chia phòng tín dụng thành 4 tổ: một tổ đảm nhiệm nghiệp vụ thanh toán quốc tế, một tổ đảm nhiệm cho vay khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, một tổ đảm nhiệm cho vay khách hàng doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một tổ đảm nhiệm cho vay KHCN. Việc tách thành tổ như vậy sẽ tạo ra sự chuyên môn hoá trong các nghiệp vụ cho vay, từ đó sẽ nâng cao chất lượng của hoạt động này và thúc đẩy phát triển cho vay tín chấp đối với KHCN. Để thúc đẩy cán bộ tín dụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì chi nhánh cần thường xuyên phát động các phong trào thi đua, nghiên cứu, phát huy sáng kiến,... Đồng thời có các chế độ khen thưởng xứng đáng, kịp thời với các cán bộ có thành tích, hăng say, nhiệt tình trong công việc, và các biện pháp khiển trách đối với các cán bộ có sai phạm nhằm tạo ra môi trường làm việc công bằng, nghiêm túc và có tinh thần trách nhiệm cao. 3.3. Kiến nghị. 3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh( Vpbank). Hệ thống Vpbank hiện nay là một trong những hệ thống ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng rãi phủ khắp. Có hơn 40 chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành phố của đất nước là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc giang, 60 chi nhánh cấp 2,3 và phòng giao dịch. Và sắp tới dự kiến sẽ mở thêm khoảng 20 điểm giao dịch mới tại các Tỉnh, Thành là trọng điểm kinh tế của cả nước. Đây là điều kiện rất thuận lợi để Vpbank tiếp cận với mọi khách hàng, dịch vụ ngân hàng có thể triển khai khắp mọi ngõ nghách trên cả nước. Tuy vậy, trên nhiều địa bàn có sự tập trung của quá nhiều chi nhánh VPBank ở rất sát nhau. Điều này gây ra sự lãng phí không cần thiết, khó gây thiện cảm với các khách hàng khi họ nhìn thấy sự lãng phí này. Và vì có nhiều chi nhánh trên cùng một địa bàn nên sẽ gây khó khăn cho việc phát triển cho vay tín chấp KHCN. Do đó, tôi xin đề nghị Vpbank có kế hoạch sắp xếp, qui hoạch tổng thể về mạng lưới để có thể phát huy tối đa ưu thế về mạng lưới hiện nay. Vpbank cần mở rộng chính sách tín dụng, nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới, đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt, tiến tới mở rộng cho vay thấu chi qua thẻ tín dụng trên toàn hệ thống, từ đó góp phần phát triển cho vay tín chấp KHCN. Vpbank cũng nên tạo điều kiện giúp đỡ chi nhánh Trần Hưng Đạo bằng việc cấp kinh phí để chi nhánh có thể nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng lại trụ sở hoạt động, tạo bộ mặt khang trang hơn cho chi nhánh. Điều này có thể coi là biện pháp rất tốt để chi nhánh có điều kiện phát triển cho vay tín chấp đối với KHCN trên địa bàn. Vpbank cũng nên thường xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ của cán bộ và gọi các cán bộ của các chi nhánh đi học. Bởi vì với năng lực chuyên môn cao hơn, khả năng giới thiệu sản phẩm tốt hơn chính là các điều kiện thuận lợi để giúp chi nhánh có thể thực hiện chiến lược phát triển hoạt động cho vay nói chung và mở rộng cho vay tín chấp KHCN nói riêng. 3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước. Kiến nghị Ngân hàng nhà nước xây dựng một quy chế riêng về cho vay tín chấp KHCN của NHTM. Từ đó sẽ đưa ra các văn bản hướng dẫn về các loại hình cho vay tín chấp KHCN mà các ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể thực hiện. Có một đạo luật riêng về cho vay KHCN sẽ giúp các ngân hàng có căn cứ tạo điều kiện mở rộng cho vay khách hàng tại thị trường đang rất có tiềm năng phát triển này. Ngân hàng nhà nước cũng nên thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ về sử dụng các chương trình mới theo hướng hiện đại hoá hệ thống ngân hàng do Worldbank tài trợ, các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ tín dụng, tổ chức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về cho vay tín chấp KHCN giữa các tổ chức tín dụng và các ngân hàng với nhau. 3.3.3. Kiến nghị với các cơ quan nhà nước và chính phủ. Các cơ quan hành chính nhà nước nên quan tâm hơn đến những tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ. Đưa ra những định hướng và những đề cử khen thưởng tới những cơ quan đoàn thể không thuộc sự quản lý trực tiếp của nhà nước và chính phủ. Chính phủ cũng cần chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp và các` cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sở tài nguyên môi trường) đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình và các cá nhân, tạo thuận lợi cho họ trong việc lấy các tài sản này làm tài sản đảm bảo khi vay vốn tại ngân hàng. Nếu hoạt động này được triển khai tốt thì sẽ có nhiều KHCN vay được vốn từ ngân hàng hơn do họ đã có tài sản đảm bảo. Như thế không những phát triển cho vay tín chấp khách hàng cá nhân mà còn phát triển nhiều hoạt động cho vay khác nữa. Tạo điều kiện cho những khách hàng cá nhân đến được với ngân hàng được dễ dàng hơn. 3.3.4. Kiến nghị với khách hàng. Khách hàng nên chủ động tìm đến với ngân hàng để đưa ra yêu cầu của mình. Ngoài ra, khách hàng cũng nên tích cực hợp tác với các cán bộ ngân hàng để quá trình thẩm định và làm hợp đồng vay vốn diễn ra nhanh chóng và dễ dàng hơn. KẾT LUẬN Thị trường cho vay KHCN tại Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng nhưng chưa được khai thác đúng mức. Do đó phát triển cho vay tín chấp KHCN là một hướng đi đúng và đáp ứng được nhu cầu của người dân. Việc đẩy mạnh hoạt động này cũng sẽ giúp các NHTM có thêm nguồn thu, nhất là khi môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở lên khốc liệt hơn. Các KHCN cũng sẽ được hưởng lợi nếu ngân hàng đẩy mạnh, mở rộng hoạt động này vì họ sẽ có tiền để phục vụ nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh của họ. Còn đối với nền kinh tế: nền kinh tế sẽ phát triển hơn khi nhu cầu mua hàng của người dân được đáp ứng nhanh hơn, cuộc sống của người dân cũng sẽ trở lên đầy đủ hơn, ngân hàng sẽ thực sự trở thành trung gian tài chính quan trọng không chỉ của các doanh nghiệp mà còn là của cả người dân. Để có thể phát triển hoạt động cho vay tín chấp KHCN thì việc tạo ra một qui trình cho vay thông thoáng là quan trọng hàng đầu đối với mỗi ngân hàng, ngoài ra ngân hàng cũng cần đa dạng hoá các sản phẩm cho vay tín chấp KHCN, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng, thực hiện marketing đối với các sản phẩm này và cải thiện điều kiện cơ sở vật chất của ngân hàng. Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, luận văn chưa đề cập sâu về lý thuyết cũng như những giải pháp áp dụng. Em rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các thầy cô, các cán bộ tín dụng cũng như những ai quan tâm đến đề tài cho vay KHCN. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê. Peter S. Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. Frederic S. Mishkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật. Sổ tay tín dụng Vpbank. Cẩm nang tín dụng Vpbank Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN. Tạp chí ngân hàng số 7,10,11/2006. Các trang web: www.sbv.gov.vn, www.vbard.com.vn, www.bidv.com.vn. Báo cáo kết quả kinh doanh các năm của Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo. MỤC LỤC Trang BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT KHCN : Khách hàng cá nhân VPBank : Ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh NHTM : Ngân hàng thương mại NQH : Nợ quá hạn NH : Ngân hàng LỜI CẢM ƠN Trước khi trình bày nội dung của chuyên đề tốt nghiệp, em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn TS. Trần Thị Thanh Tú và các anh chị cán bộ tín dụng ở Ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh – chi nhánh Trần Hưng Đạo đã đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33365.doc
Tài liệu liên quan