Chuyên đề Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy nổ tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO)

Thiết nghĩ, thay vì đình chỉ hoạt động có thể đưa ra một số quy định ưu đãi đối với doanh nghiệp thực hiện tốt việc mua bảo hiểm cháy nổ. Chẳng hạn, khi cấp giấy phép trong một hoạt động nào đó cho các doanh nghiệp sẽ ưu tiên xem xét giấy phép của doanh nghiệp nào thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định, trong đó có việc mua bảo hiểm cháy nổ. - Nhà nước cần có nhiều chiến dịch tuyên truyền về quy định bắt buộc mua bảo hiểm cháy nổ để không chỉ các doanh nghiệp phải tham gia bảo hiểm biết mà cả những người dân cũng hiểu rõ các quy định này. Khiến cho bảo hiểm cháy nổ, tuy là bắt buộc nhưng các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sẽ tự nguyện tham gia vì nhận rõ sự cần thiết của nó. - Bộ Tài Chính cần xem xét lại biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và tự nguyện để giảm sự chênh lệch quá lớn về phí giữa hai loại hình bảo hiểm này. Nhằm đảm bảo sự công bằng đối với tất cả người tham gia bảo hiểm cháy nổ. Đặc biệt, tạo tâm lý thoải mái cho những đối tượng thuộc diện bắt buộc, trước đó đã tham gia bảo hiểm cháy nổ tự nguyện trong nhiều năm. Để làm được điều này, Nhà nước nên quy định biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc với hệ số tính phí bảo hiểm được chia làm 2 mức: tối đa và tối thiểu. Trong đó, mức tối thiểu trong bảo hiểm cháy nổ bắt buộc không nên chênh lệch quá lớn với mức tối đa trong bảo hiểm cháy nổ tự nguyện mà các doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra. Đồng thời, Nhà nước cũng cần yêu cầu các doanh nghiệp không được giảm phí bảo hiểm tự nguyện quá một mức độ nào đó. - Cần có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa Cảnh sát PCCC và doanh nghiệp bảo hiểm, để giúp Cảnh sát PCCC nhanh chóng phát hiện ra những cơ sở cần đưa vào diện bắt buộc mua bảo hiểm. Đồng thời, cũng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nhanh chóng có đủ thông tin về các cơ sở được cấp giấy chứng nhận PCCC để có biện pháp tiếp cận khai thác.

doc73 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy nổ tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34,9% và vi phạm các quy định an toàn PCCC, cố ý gây cháy chiếm 11% tổng số vụ. Phương tiện PCCC thô sơ, lạc hậu, lực lượng PCCC tại chỗ không đảm bảo, dẫn tới 40% số vụ cháy không đủ sức dập tắt ngay từ đầu. Theo thống kê, các vụ cháy xảy ra trên địa bàn dân cư chiếm 53% tổng số vụ cháy. Các cao ốc văn phòng, cơ sở kinh doanh xăng dầu, gas…cũng là mối lo cháy nổ rất lớn. Theo Cảnh sát Phòng cháy & chữa cháy, nếu xảy ra cháy tại các nơi này thì thiệt hại về người và của là không lường hết được. Các vụ cháy Chợ cũng là một vấn đề đáng lo ngại, riêng chỉ trong năm 2006, đã có nhiều vụ cháy Chợ liên tiếp xảy ra, gây thiệt hại nghiêm trong: Ngày 23/1, chợ Bo (Thái Bình) cháy lớn, 72 gian hàng bị thiêu rụi. Đúng hai tháng sau, ngày 23/3, Chợ Vinh (Nghệ An) chìm trong lửa, thiệt hại lên đến hàng chục tỷ đồng. Cùng mùa hè, ngày 25/6 lửa bùng lên từ trong chợ Thạnh Đức (Gò Dầu, Tây Ninh), gần 2 tỷ đồng hàng hoá của tiểu thương thành tro. Ngày 22/10, lại một vụ cháy gây thiệt hại tương đương, xảy ra tại chợ Hoành Mô (Quảng Ninh). Và đến cuối năm, ngày 16/12, chợ Lớn Qui Nhơn "hứng" vụ cháy lớn nhất, thiệt hại trên 120 tỷ đồng. Bảng 2.4: Số vụ cháy và thiệt hại do cháy (2002-2007). Tổn thất Đơn vị Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Số vụ cháy Vụ 1267 2519 3003 2759 2247 2628 Số người chết Người 132 98 63 65 53 43 Số người bị thương Người 261 243 235 192 154 171 Thiệt hại vật chất Tỷ đồng 375 284 290 229 397 432 (Nguồn: Cục cảnh sát phòng cháy, chữa cháy) Nhìn vào đồ thị ta thấy, từ năm 2002 đến 2004 số vụ cháy có xu hướng tăng mạnh nhưng tới năm 2005, 2006 có xu hướng giảm dần đều và năm 2007 lại có chiều hướng gia tăng các vụ cháy. Hình 2.7: Số vụ cháy ở Việt Nam (2002 -2007) (Nguồn: Cục Phòng cháy & chữa cháy) Các vụ cháy liên tục xảy ra trong thời gian qua, đã làm nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân về sự cần thiết của bảo hiểm cháy, nổ được nâng cao hơn. Khi tận mắt chứng kiến hoặc đã từng trải qua các vụ cháy hay đơn giản là được đọc trên báo, nghe trên tivi.., thấy rõ thiệt hại do các vụ cháy gây ra, khiến cho người dân ngày càng nâng cao nhận thức của mình về tầm quan trọng của bảo hiểm cháy, nổ. c. Các quy định pháp lý có liên quan đến bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Những thiệt hại do cháy, nổ gây ra rất lớn, nhiều khi mang tính thảm họa, ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến đời sống cũng như sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, bảo hiểm cháy, nổ được quy định bắt buộc là một tất yếu khách quan và ngày càng cần thiết hơn. Bảo hiểm bắt buộc là loại hình bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiệm bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm, nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Tại Điều 9, Luật Phòng cháy & chữa cháy (ngày 29/06/2001) quy định: Cơ quan, tổ chức và các nhân có cơ sở có nguy cơ về cháy, nổ phải thực hiện bảo hiểm cháy nổ, bắt buộc đối với tài sản của cơ sở đó. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia bảo hiểm cháy nổ. Để cụ thể hóa quy định trên, ngày 06/11/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2006/NĐ-CP về Quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Theo quy định này thì đối tượng phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có các cơ sở nguy hiểm về cháy nổ quy định tại Phụ lục 1, Nghị định số 35/2003/ NĐ-CP ngày 04/04/2003, Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy. Mặc dù Nghị định 130/2006/NĐ-CP ban hành được một thời gian nhưng số lượng các hợp đồng tham gia bảo hiểm cháy nổ không tăng. Chính vì vậy, ngày 24/04/2007, Bộ Tài Chính phối hợp với Bộ Công An đưa ra Thông tư liên tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA, Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 130/2006/NĐ-CP. Thông tư này hướng dẫn các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp thực hiện chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Đồng thời quy định chi tiết về phương thức đóng góp cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy của doanh nghiệp bảo hiểm, cùng với các quy định về quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán nguồn kinh phí đóng góp cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy. Cũng trong ngày 24/04/2007, Bộ Tài Chính ban hành quyết định số 28/2007/QĐ-BTC về việc ban hành Quy tắc và Biểu phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Theo Quyết định này thì trách nhiệm mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc được quy định cụ thể giúp hạn chế được tình trạng doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đủ điều kiện nhưng chốn tránh tham gia bảo hiểm và trường hợp công ty bảo hiểm từ chối bán bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Bên cạnh đó, Quyết định này quy định chi tiết, đầy đủ và rõ ràng hơn về các vấn đề có liên quan đến quy tắc và biểu phí trong chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc nhằm tránh tình trạng thiếu hiểu biết về chế độ này. Các quy định này sẽ hạn chế được tình trạnh tranh chấp, kiện tụng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, giúp cơ quan pháp luật dễ dàng hơn trong việc giải quyết tranh chấp. Với biểu phí bảo hiểm cháy, nổ kèm theo, quy định phí cơ bản cho từng loại tài sản cụ thể và các điều khoản về tăng, giảm phí. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thuận lợi trong việc thu phí bảo hiểm, bên mua bảo hiểm sẽ không có thắc mắc gì. Đồng thời tránh tình trạng giảm phí để thu hút khách hàng nhằm tăng khả năng cạnh tranh, vốn đang là vấn đề bức xúc của thị trường bảo hiểm cháy, nổ ở Việt Nam hiện nay. Do một số sai sót trong quá trình đưa ra quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ban hành kèm theo quyết định số 28/2007/QĐ-BTC. Ngày 15/06/2007, Bộ Tài chính tiếp tục đưa ra Quyết định số 2089/QĐ-BTC về việc đính chính quyết định số 28/2007/QĐ-BTC, nhằm bổ sung, sữa chữa và hoàn thiện hơn quy tắc và biểu phí của bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Sự hoàn thiện của hệ thống quy định về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đã tạo ra cơ hội chung cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường Việt Nam. Nó tạo ra một hành lang pháp lý để các tổ chức, doanh nghiệp có thể tham gia bảo hiểm cho tài sản của mình. Tuy nhiên, việc tận dụng cơ hội giữa các doanh nghiệp sẽ không giống nhau vì các đơn vị, tổ chức có quyền lựa chọn công ty bảo hiểm để mua dịch vụ và các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải cạnh tranh nhau về chất lượng dịch vụ và hậu mãi để có thêm nhiều khách hàng trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, quy định về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã được ban hành mà dường như số lượng người tham gia bảo hiểm chưa có sự biến động nào đáng kể. Vậy nguyên nhân từ đâu? ö Về phía người mua bảo hiểm Chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc được chính thức đưa vào thực hiện từ tháng 11 năm 2006. Tuy nhiên, cho đến nay, sau hơn một năm đưa vào thực hiện bắt buộc, nghiệp vụ bảo hiểm này vẫn không đem lại sự thay đổi đáng kể nào về doanh thu, cũng như không thu hút được nhiều sự chú ý của người dân, các doanh nghiệp, tổ chức. Nhiều doanh nghiệp tìm cách né tránh hoặc chỉ tham gia mang tính chất đối phó. Tất nhiên, cũng có những doanh nghiệp muốn mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc nhưng lại không thể mua được. Vì theo quy định của Bộ tài chính: doanh nghiệp bảo hiểm chỉ thực hiện giao kết hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc với bên mua bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm đã được cơ quan cảnh sát phòng cháy, chữa cháy cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC (Điều 8, chương II, Thông tư liên tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA). Điều kiện để được cấp giấy chứng nhận về PCCC được quy định tại Điều 9, Nghị Định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04/04/2003. Những doanh nghiệp không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận về PCCC của Cục cảnh sát PCCC thì có muốn tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc cũng không được doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận. Thậm chí, ngay cả những doanh nghiệp đã có đủ điều kiện rồi mà cơ quan cảnh sát PCCC chưa cấp giấy chứng nhận thì công ty bảo hiểm cũng không thể bán bảo hiểm được. Bên cạnh đó, có rất nhiều đơn vị thuộc diện có nguy cơ cháy nổ cao và bắt buộc phải mua bảo hiểm nhưng lại hoạt động dựa trên ngân sách Nhà nước. Trong kinh phí hoạt động của các đơn vị này, kinh phí dành cho việc mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc chưa có hướng dẫn và chưa được phân bổ nên ít nhất cho đến cuối năm 2007, các đơn vị này không lấy đâu ra nguồn tiền để mua. Ngoài ra, có nhiều khách hàng thuộc diện phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nhưng lại không mấy mặn mà vì thực tế những nguy cơ có thể gây ra tổn thất cho tài sản của họ đã bị loại trừ, họ được quyền lợi rất ít khi rủi ro xảy ra nếu đúng theo quy định của bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Ngoài sức ỳ về ý thức tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, cũng như những khó khăn trong việc trích lập nguồn đóng kinh phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc của các tổ chức, doanh nghiệp hành chính sự nghiệp, sử dụng ngân sách Nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không mấy mặn mà trong việc tham gia bảo hiểm. Doanh nghiệp nước ngoài yêu cầu các văn bản pháp luật quy định về chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc cần phải được dịch sang tiếng Anh để họ có thể đọc, hiểu và thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế các cơ quan chức năng của Việt Nam chưa tính đến vấn đề này. Không chỉ nhiều doanh nghiệp mà cả với người dân, ý thức về việc mua bảo hiểm cháy, nổ hiện nay chưa cao. Chủ yếu là do chưa quen với việc bảo hiểm tài sản, hoặc có nghĩ tới thì ngại gặp phiền hà trong việc thanh toán tiền bảo hiểm khi rủi ro xảy ra. Trong khi vẫn biết hậu quả tàn khốc của hỏa hoạn. ö Về phía doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm được phép kinh doanh bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc là những doanh nghiệp có giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh bảo hiểm do Bộ tài chính cấp. Theo quy định, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bán bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc cho những đơn vị được cấp giấy chứng nhận về PCCC. Tuy nhiên, không phải tất cả các đơn vị đã được cấp giấy chứng nhận PCCC đều được các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm. Đối với những nơi rủi ro cao như các chợ, các xưởng sản xuất vật liệu dễ cháy… thường thì bị các doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bảo hiểm. Việc các doanh nghiệp bảo hiểm đắn đo khi chấp nhận bảo hiểm cho một đơn vị nào đó, phần lớn là do ở các đơn vị đó công tác đề phòng hạn chế tổn thất cháy, nổ chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều cơ sở còn chưa chú trọng đến việc trang bị phương tiện đề phòng hạn chế tổn thất. Do đó thiết bị, phương tiện PCCC chưa đáp ứng được yêu cầu. Đội ngũ chữa cháy tại cơ sở chưa chuyên nghiệp, nội quy phòng cháy, chữa cháy mang nặng tính hình thức. Phần lớn cán bộ công nhân viên chưa quan tâm hoặc không thực hiện nội quy. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với cảnh sát PCCC chưa thật sự chặt chẽ trong các khâu kiểm tra các cơ sở về PCCC và tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc của các cơ sở có nguy cơ về cháy nổ. Danh sách các đơn vị phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc tại từng địa phương do cơ quan cảnh sát PCCC ở địa phương đó nắm giữ. Nếu như cơ quan cảnh sát PCCC không công khai danh sách này để bản thân đơn vị phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc được rõ và các công ty bảo hiểm biết, thì các công ty bảo hiểm không biết nên tập trung vào đối tượng nào để chào mời mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình vận động khách hàng tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, do điều kiện biểu phí bảo hiểm cháy, nổ tự nguyện trên thị trường thấp hơn nhiều so với biểu phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Ví dụ: Để thấy rõ sự chênh lệch giữa phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và tự nguyện.Ta sẽ xem xét bảng so sánh biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc (ban hành kèm Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007) của Bộ Tài Chính và biểu phí bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt (Ban hành kèm theo Quyết định số 2405/2005-BM/BHTS ngày 27/09/2005) của Bảo Minh – doanh nghiệp bảo hiểm dẫn đầu về doanh thu phí bảo hiểm cháy nổ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong nhiều năm.Bảng so sánh tỷ lệ phí bảo hiểm trong bảo hiểm cháy cho tài sản là các kho tàng. Bảng 2.5: Bảng so sánh tỷ lệ phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và tự nguyện. TT Loại tài sản Tỷ lệ phí (‰) Bắt buộc Tự nguyện Tối đa Tối thiểu 1 Kho nhựa đường 3,3 2,5 1,2 2 Kho sơn 3,3 2,5 1,5 3 Kho chứa hóa chất 3,3 2,5 1,7 4 Kho rượu cồn và các chất lỏng dễ cháy 3,0 2,2 1,6 5 Kho bông vải sợi, len dạ, sản phẩm dệt 3,0 2,0 1,5 6 Kho giấy, bìa, bao bì. 3,0 2,2 1,7 7 Kho đồ gỗ và các sản phẩm về gỗ 3,0 2,2 1,6 8 Kho tinh dầu, hương liệu, dầu ăn 2,8 2,0 1,4 9 Kho ngành thuốc lá 2,8 2,0 1,4 10 Kho dược phẩm 2,5 1,8 1,3 11 Kho vật tư ngành ảnh 2,5 1.8 1,2 12 Kho hàng thiết bị điện, điện tử 2,0 1,4 1,2 13 Kho hàng nông sản 2,0 1,4 1,0 Nhìn vào bảng so sánh ta có thể thấy tỷ lệ phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc luôn cao hơn so với tỷ lệ phí trong bảo hiểm cháy nổ tự nguyện tới hơn 30%. Một hiện tượng phổ biến đang diễn ra trên thị trường bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc là hiện tượng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đang cạnh tranh không lành mạnh, cạnh tranh “xấu” để thu hút khách hàng chủ yếu bằng cách hạ phí phi kỹ thuật, tăng chi phí khai thác, đặc biệt từ các doanh nghiệp bảo hiểm nhỏ. Mặc dù biểu phí và hoa hồng bảo hiểm cháy nổ tự nguyện, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc được Bộ tài chính quy định thống nhất, nhưng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm vẫn tự do hạ phí so với quy định, đồng thời mở rộng điều kiện bảo hiểm, tăng hoa hồng dành cho khách hàng. Điều này khiến nhiều khách hàng đưa ra bài toán so sánh và gây sức ép ngược trở lại đối với doanh nghiệp bảo hiểm, gây tình trạng lộn xộn trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho doanh thu phí bảo hiểm cháy nổ trên thị trường không tương xứng với thực tế. Trong khi các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Việt Nam coi như không biết các quy định của Nhà nước về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nên vẫn tư vấn, môi giới cho cơ sở theo các hợp đồng bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm mọi rủi ro, không tuân thủ theo chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, phí bảo hiểm rất thấp. Thì các môi giới bảo hiểm nước ngoài tiếp tục hoạt động tốt, tuy nhiên có sự chuyển dịch hướng khai thác bảo hiểm tài sản sang các sản phẩm bảo hiểm y tế, con người, trách nhiệm nghề nghiệp có nhiều tiềm năng hơn. ö Về phía các cơ quan Nhà nước. Theo quy định tại Điều7, chương II, Thông tư liên tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA thì: cơ quan cảnh sát PCCC cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC đối với các cơ sở có nguy cơ về cháy nổ quy định tại phụ lục 2 của Nghị định số 35/2003/NĐ-CP. Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC thực hiện theo quy định tại mục 7 của Thông tư liên tịch số 04/2004/TTLT-BCA ngày 31/3/2004 của Bộ công an về hướng dẫn thi hành Nghị định 35/2003/NĐ-CP. Nhưng trên thực tế, cơ quan cảnh sát PCCC tại hầu hết các địa phương còn lúng túng, bởi chưa rõ các điều kiện cụ thể nào cần cấp giấy chứng nhận an toàn PCCC. Việc triển khai, tập huấn, phổ biến các quy định về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc mới chỉ hoàn tất trong nội bộ ngành, còn các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân vẫn chưa nắm được hết các nội dung của các quy định, Nghị định. Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản trên còn hạn chế nên số lượng cơ sở đã mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc trong thời gian qua chưa nhiều. Bên cạnh đó, các hoạt động triển khai việc thực hiện mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc chưa mạnh. Cảnh sát PCCC kiểm tra thấy nhiều cơ sở không mua loại bảo hiểm này nhưng chưa xử phạt mà chỉ nhắc nhở nên chưa răn đe được các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. 2.2.3 Một số công ty bảo hiểm tiêu biểu trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Cùng với việc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), thị trường bảo hiểm trong nước bắt đầu mở cửa, hàng loạt các công ty bảo hiểm nước ngoài đã và đang xin giấy phép được hoạt động ở Việt Nam, cùng với các công ty bảo hiểm trong nước góp phần làm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng sôi động. Mỗi một công ty, một tổ chức có một thế mạnh khác nhau khi khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam và có ảnh hưởng nhất định tới việc khai thác các sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm cháy nổ nói riêng của PJICO. Tuy nhiên, để có thể đánh giá được tiềm năng của PJICO trong việc đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ, cần xem xét một số doanh nghiệp tiêu biểu đang dẫn đầu trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam về doanh thu phí bảo hiểm, gồm: Bảo Việt, PVI, Bảo Minh. a. Bảo Việt. Thành lập ngày 15/1/1965, đến nay Bảo Việt đã trở thành tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm hàng đầu Việt Nam. Không chỉ ở mạng lưới rộng khắp 64 tỉnh thành, thu hút một lực lượng đông đảo cán bộ, công nhân viên lên tới trên 5.000 người, với khoảng 40.000 đại lý trải đều trên khắp các tỉnh thành. Trong số đó, có nhiều cán bộ kỳ cựu, am hiểu thị trường bảo hiểm Việt Nam và nhiều cán bộ trẻ được đào tạo chuyên ngành chính qui, có trình độ chuyên môn cao, tạo ra một lực lượng đan xen, đồng bộ. Bảo Việt còn được biết đến là thương hiệu uy tín với khả năng tài chính mạnh (vốn điều lệ hiện lên tới 6.800 tỷ đồng), sự thông hiểu thị trường trong nước. Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam kinh doanh cả hai loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Bảo Việt đã được công nhận là một trong số 25 doanh nghiệp lớn nhất của Việt Nam, là doanh nghiệp bảo hiểm lâu đời, được tin cậy đối với đông đảo các tầng lớp dân cư, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Ngày 31/5/2007, Bảo Việt chính thức trở thành công ty cổ phần tập đoàn tài chính kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Bảo Việt đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương độc lập hạng ba, Chính phủ xếp hạng doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt và nhiều danh hiệu, giải thưởng do các tổ chức uy tín trong và ngoài nước trao tặng. Ngoài ra, Bảo Việt được tổ chức BVQI (vương quốc Anh) cấp chứng chỉ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000 từ tháng 8/2001. Bảo Việt đã thiết lập quan hệ với nhiều công ty Tái bảo hiểm và môi giới Tái bảo hiểm hàng đầu trên thế giới như: Munich Re, Swiss Re, CCR, Hannover Re, AON,… Mối quan hệ hợp tác quốc tế rộng lớn của Bảo Việt vừa giúp tập đoàn tăng cường khả năng hợp tác, vừa giúp phân tích rủi ro và tăng cường khả năng thanh toán. Năm 2007, Bảo Việt vẫn là công ty dẫn đầu trên thị trường về doanh thu phí, với doanh thu thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 2.580 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2006. Doanh thu phí bảo hiểm tài sản, kỹ thuật đạt 462 tỷ đồng. Trong đó, bảo hiểm cháy và mọi rủi ro đạt 231 tỷ đồng. Tỷ lệ bồi thường bảo hiểm cháy, tài sản ước tính chỉ 30%. Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI). Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI), thành viên tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, được thành lập ngày 31/01/1996. Với tiềm lực tài chính chưa cao, nhân lực mỏng và chưa có nhiều kinh nghiệm trong thời gian đầu sau khi thành lập. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm hoạt động, PVI đã từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Hiện nay, PVI đã vươn lên vị trí thứ 2 về thị phần thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và tiếp tục giữ vị trí đứng đầu trong lĩnh vực bảo hiểm công nghiệp. Khả năng tài chính của PVI ngày càng được nâng lên (đến cuối năm 2007, PVI đã tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng và sẽ tăng lên 2.000 tỷ đồng vào năm 2010). PVI đang dần mở rộng và nâng cao vai trò của mình trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm năng lượng, bảo hiểm hàng hải và xây dựng, lắp đặt. Cùng với việc từng bước vươn dần ra thị trường nước ngoài và tăng cường nhận Tái bảo hiểm từ Triều Tiên, Trung Quốc… PVI đã thành lập được các chi nhánh khu vực và phát triển mạng lưới chuyên nghiệp trên khắp các tỉnh thành trong cả nước. Tính đến ngày 31/12/2006, số nhân viên của công ty là 411 người, với 12 chi nhánh trên toàn quốc. Tuy hệ thống còn yếu và chưa trải rộng nhưng đội ngũ nhân viên của PVI thường xuyên được đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001:2000 từ năm 2002 đến nay đã giúp kiểm soát chặt chẽ quy trình cấp đơn bảo hiểm và kiểm soát nội bộ, đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tháng 9/2006, Bộ công nghiệp và Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam đã có quyết định cổ phần hóa PVI với mục tiêu tăng cường năng lực cạnh tranh và xây dựng PVI trở thành một tổng công ty cổ phần mạnh trong định chế Bảo hiểm – Tài chính của tập đoàn. Ngày 12/4/2007 là ngày Tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí Việt Nam chính thức ra mắt. Trong suốt quá trình hoạt động của mình, PVI đã nhận được hàng loạt các phần thưởng cao quý do Nhà nước trao tặng như: Nhận cờ thi đua “đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua” (2002), giải thưởng “Sao vàng đất Việt” (2004), phần thưởng cho thương hiệu mạnh được người tiêu dùng bình chọn và Huân chương lao động hạng ba của Chủ tịch nước (2004). Năm 2007, là một năm thành công của PVI với doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 1.735 tỷ đồng, tăng 49% so với năm 2006, vươn lên vị trí thứ 2 sau Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Doanh thu phí bảo hiểm tài sản, kỹ thuật đạt 1.112 tỷ đồng trong đó bảo hiểm cháy, nổ và mọi rủi ro đạt 289 tỷ đồng. Bảo Minh Thành lập ngày 28/11/1994, ban đầu là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước trực thuộc Bộ tài chính, nên ngay từ đầu, Bảo Minh đã gây được sự chú ý và tin cậy của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Từ sau khi cổ phần hóa (10/2004), Bảo Minh đã chú trọng đầu tư và phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, coi công nghệ thông tin là đòn bẩy trong việc tổ chức quản lý, điều hành doanh nghiệp, cũng như đối với việc chăm sóc và phục vụ khách hàng. Bảo Minh đã xây dựng được hệ thống hỗ trợ quản lý đại lý (SAMS), thiết lập hệ thống máy chủ và kết nối diện rộng (WAN) cho tất cả các công ty thành viên, triển khai thực hiện các dự án phần mềm quản lý nghiệp vụ. Bảo Minh cũng là Nhà bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam đã xây dựng thành công hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 Tuy vốn điều lệ hiện nay không bằng PVI (chỉ có 755 tỷ đồng) nhưng với hơn 1.800 nhân viên làm việc tại hơn 8.000 đại lý và 59 chi nhánh đặt tại các tỉnh, thành phố trên toàn quốc, Bảo Minh là công ty có mạng lưới hoạt động và nhân sự đứng thứ 2 chỉ sau Bảo Việt. Bảo Minh luôn chú trọng vào khâu đào tạo cán bộ, bồi dưỡng năng lực quản lý, kiến thức chuyên môn cho cán bộ nhân viên. Tổng công ty đã thành lập một trung tâm đào tạo, hoạt động như một đơn vị độc lập hoạch toán trực thuộc để chủ động phục vụ công tác đào tạo cán bộ. Bảo Minh có quan hệ hợp tác với hầu hết các công ty bảo hiểm và Tái bảo hiểm có uy tín trên thế giới, các công ty môi giới bảo hiểm, các công ty giám định quốc tế và là đại lý giám định và xét bồi thường tại Việt Nam của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài. Ngày 28/11/2006, cổ phiếu Bảo Minh chính thức niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, đánh dấu một bước phát triển mới của công ty. Năm 2007, Bảo Minh đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác kinh doanh như: Tập đoàn bảo hiểm chuyên biệt (CHUBB), Ngân hàng thương mại cổ phần Sacombank… Thông qua hợp tác chiến lược này, Bảo Minh sẽ đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tăng cường và cải thiện năng lực khai thác, quản lý khiếu nại, bồi thường, nâng cao mức trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp và tận dụng sự hỗ trợ kỹ thuật của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài để phát triển sản phẩm mới, đón nhận nhu cầu và triển vọng phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mặc dù có những khó khăn trong năm 2007, tổng doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Minh vẫn đạt 1708 tỷ đồng, tăng 23,2% so với năm 2006, là công ty đứng vị trí thứ 3 trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Doanh thu phí bảo hiểm tài sản, kỹ thuật năm 2007 đạt 420 tỷ đồng, trong đó bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro đạt 185 tỷ đồng. 2.3 Tiềm lực của PJICO trong khai thác bảo hiểm cháy nổ. 2.3.1. Kết quả kinh doanh và vị trí của bảo hiểm cháy nổ trong dòng sản phẩm của PJICO. Ngay từ khi thành lập PJICO đã cung cấp trên 50 sản phẩm bảo hiểm trên phạm vi toàn quốc. Trong đó các sản phẩm bảo hiểm đóng góp chủ yếu trong tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của PJICO gồm: bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hải (bao gồm bảo hiểm tàu thuyền và bảo hiểm hàng hoá vận chuyển), bảo hiểm xây dựng lắp đặt công trình và bảo hiểm tài sản hoả hoạn. Bảng 2.6: Cơ cấu doanh thu bảo hiểm gốc qua các năm (2004-2007) Đơn vị: Tỷ đồng TT Nghiệp vụ Năm 2004 2005 2006 2007 1 Kinh doanh bảo hiểm gốc 597,8 726,5 667,3 880,1 2 BH vận chuyển hàng hóa 75,8 92,5 82,5 89,9 3 BH tàu thuyền 67,3 85,7 84,3 101,2 4 BH xe cơ giới 286,9 343,8 280,0 462,9 5 BH con người 50,2 61,7 66,9 79,9 6 BH cháy và tài sản 50,3 66,1 69,0 72,1 7 BH xây dựng lắp đặt và BH khác 67,3 76,7 84,6 74,1 (Nguồn: Báo cáo tài chính của PJICO) Từ đồ thị có thể thấy, nhóm bảo hiểm tài sản kỹ thuật trong đó có bảo hiểm cháy nổ có doanh thu sếp vị trí thứ 3 sau bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm hàng hải. Hình 2.8: Cơ cấu doanh thu các nghiệp vụ tại PJICO. (Nguồn: Báo cáo tài chính của PJICO) Nhóm bảo hiểm tài sản kỹ thuật bao gồm: bảo hiểm cháy, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Trong đó, bảo hiểm cháy thường chiếm từ 35% - 45% doanh thu phí của nhóm nghiệp vụ này. Tuy chỉ mới được triển khai trong vài năm gần đây nhưng doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ liên tục tăng qua các năm. Trung bình mỗi năm nghiệp vụ này đóng góp vào doanh thu phí toàn công ty trên 60 tỷ đồng. Do mới triển khai nên doanh thu từ nghiệp vụ này so với các doanh nghiệp khác trên thị trường (Bảo việt, Bảo Minh, PVI..) còn thấp hơn rất nhiều. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 12,5%/ năm. Tuy nhiên, nếu xét riêng tốc độ tăng của từng năm thì chỉ có năm 2005, PJICO có tốc độ tăng trưởng trong nghiệp vụ này cao (30%), còn những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng thường ở mức thấp, cả 2 năm 2006 và 2007 đều có tốc độ tăng trưởng chỉ xấp xỉ 4,5%. Hình 2.9: Doanh thu bảo hiểm cháy nổ (2004 – 2007). (Nguồn: Báo cáo tài chính của PJICO) Doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm này chủ yếu được khai thác từ các mối quan hệ trong các cổ đông. Trước kia, PJICO chủ yếu xâm nhập vào thị trường các sản phẩm bảo hiểm nhỏ, lẻ (như bảo hiểm xe cơ giới..) do năng lực tài chính của công ty chưa mạnh vì những sản phẩm này không cần phải nhượng tái bảo hiểm. Với các hợp đồng lớn công ty sẽ phải tái bảo hiểm đi nhiều. Vừa qua công ty đã tăng vốn điều lệ lên 336 tỷ đồng và trong thời gian tiếp theo công ty sẽ tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 500 tỷ đồng, khả năng tài chính của công ty được nâng cao nên công ty sẽ đẩy mạnh khai thác cả những hợp đồng vừa và lớn, vì vậy bảo hiểm cháy, nổ sẽ là một trong những sản phẩm bảo hiểm được công ty chú trọng khai thác trong thời gian tiếp theo. 2.3.2 Thế mạnh của PJICO trong khai thác bảo hiểm cháy nổ. Sau khi đã điểm qua một vài nét về thị trường bảo hiểm cháy nổ và một số doanh nghiệp tiêu biểu trên thị trường, có thể thấy những cơ hội cũng như khó khăn mà thị trường bảo hiểm cháy nổ đặt ra cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và PJICO nói riêng. Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, PJICO đang đứng vị trí thứ 4, trên PJICO có Bảo Việt, PVI, Bảo Minh với những thế mạnh khác nhau và có phương thức khai thác khác nhau đối với thị trường bảo hiểm cháy nổ. Để có thể đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ, PJICO cần tận dụng triệt để, tối đa và có hiệu quả nhất các thế mạnh của công ty. Thứ nhất, PJICO là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên tại Việt Nam do các công ty có thương hiệu mạnh, được nhiều người biết đến như: Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Tổng công ty thép Việt Nam (VSC), Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare),…Trong đó, Tổng công ty xăng dầu Việt Nam nắm cổ phần chi phối. Do được thành lập từ các công ty có tên tuổi trên thị trường Việt Nam, lại tạo được lòng tin từ phí khách hàng, PJICO đã nhanh chóng khẳng định được thương hiệu của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bên cạnh những hợp đồng bảo hiểm lớn, PJICO chủ yếu xâm nhập vào các thị trường sản phẩm bảo hiểm nhỏ, lẻ như: Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm xe cơ giới,…Chính vì vậy, tuy không phải là một thương hiệu mạnh nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, PJICO vẫn là một trong số các doanh nghiệp bảo hiểm được rất nhiều người dân biết đến. Thứ hai, là một công ty cổ phần nên PJICO có mối quan hệ với tất cả các cổ đông sáng lập ra công ty. Các cổ đông này (đặc biệt là những cổ đông lớn như: Tổng công ty xăng dầu Việt Nam…) với hệ thống chi nhánh trải dài trong cả nước, cùng các mối quan hệ hợp tác kinh doanh với nhiều doanh nghiệp là một lợi thế của PJICO. Nếu biết tận dụng lợi thế này PJICO có thể khai thác được rất nhiều hợp đồng bảo hiểm từ các cổ đông của mình. Bên cạnh đó, PJICO cũng có thể thông qua các cổ đông để tạo mối quan hệ với khách hàng hoặc đối tác của các cổ đông. Đây là một lợi thế mà không phải công ty nào cũng có. Thứ ba, đội ngũ cán bộ của PJICO chủ yếu là cán bộ trẻ. Do mới thành lập được hơn 10 năm nên PJICO không có nhiều cán bộ dày dặn kinh nghiệm mà chủ yếu là cán bộ trẻ. Những cán bộ trẻ này tuy không có nhiều sự trải nghiệm như các tiền bối nhưng bù lại, phần lớn họ đều có trình độ và khá năng động. Tính đến cuối năm 2007, tổng số cán bộ của PJICO là 950 người, trong đó trình độ đại học và trên đại học chiếm trên 80%. Đặc biệt, tính chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy, chí cầu tiến là những ưu điểm của cán bộ trẻ. Chính vì vậy, việc sử dụng đội ngũ cán bộ này trong lĩnh vực khai thác, đặc biệt là khai thác các hợp đồng bảo hiểm nhỏ, lẻ sẽ đạt được hiệu quả rất cao. Thứ tư, tuy vốn điều lệ của PJICO thấp hơn nhiều so với 3 công ty dẫn đầu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam nhưng mạng lưới của công ty khá rộng, phủ kín mọi miền của đất nước. Trụ sở chính của công ty PJICO cùng với 12 văn phòng khu vực đặt tại các địa điểm khác nhau ở Hà Nội nhằm đáp ứng được tối đa nhu cầu bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm tại Hà Nội. Bên cạnh đó, 51 chi nhánh đặt tại các tỉnh, Thành phố trong cả nước cùng với hơn 3000 đại lý đang hoạt động tại mọi miền đất nước sẽ giúp PJICO khai thác được tối đa nhu cầu bảo hiểm tại tất cả các địa điểm này. Thứ năm, PJICO là một trong số những công ty có cơ chế, chính sách tốt. Công ty luôn cố gắng thực hiện tốt các chính sách đối với người lao động như: người lao động trong công ty đều có hợp đồng lao động theo đúng Luật lao động; Đồng thời công ty cũng thực hiện chế độ làm thêm giờ, chế độ thai sản, chăm sóc con nhỏ theo đúng Luật hiện hành. Bên cạnh đó, công ty cũng đảm bảo trả đủ lương cơ bản hàng tháng cho người lao động theo quy định của Nhà Nước…Tất cả những điều này sẽ giúp cho cán bộ nhân viên trong công ty an tâm gắn bó và đóng góp hết mình cho sự phát triển của công ty. Tiền lương và tiền thưởng trả cho người lao động căn cứ vào hiệu quả kinh doanh, chức danh công việc và chế độ tiền lương do Nhà nước quy định sẽ khuyến khích người lao động phát huy tính chủ động sáng tạo để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vì vậy đây cũng là một lợi thế để công ty có thể đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ trong thời gian sắp tới. 2.3.3 Điểm yếu của PJICO trong khai thác bảo hiểm cháy nổ. Bên cạnh những thế mạnh, PJICO cũng có những điểm yếu. Những điểm yếu này khiến cho việc khai thác bảo hiểm cháy nổ của PJICO thời gian vừa qua chưa hiệu quả như mong muốn. Bởi vậy trong thời gian tới PJICO cần tiếp tục khắc phục các điểm yếu sau: Thứ nhất, trình độ kinh nghiệm của cán bộ, công nhân viên trong công ty còn chưa đồng đều. Tuy trình độ đại học và trên đại học chiếm tới trên 80% những bên cạnh đó vẫn còn gần 20% lao động có trình độ trung cấp, kiến thức về chuyên môn không rộng nên khi gặp những vấn đề đòi hỏi cần có sự hiểu biết sâu về chuyên môn, nghiệp vụ thì rơi vào lung túng, làm việc không hiệu quả. Ngay cả bản thân những cán bộ trẻ có trình độ đại học, những kiến thức về chuyên môn được học cũng chỉ ở dạng chung chung, chưa được đào tạo sâu về chuyên môn nên hiệu quả làm việc chưa cao. Đặc biệt, các năm trước đây do yêu cầu về bứt phá doanh thu trong kinh doanh bảo hiểm, PJICO đã tuyển dụng đại lý một cách ồ ạt do đó chưa thực sự đảm bảo được chất lượng đại lý khai thác. Dẫn tới việc đại lý có thể khai thác được hợp đồng bảo hiểm nhưng lại kém hiểu biết về kiến thức bảo hiểm. Về lâu dài, điều này có thể làm mất uy tín và lòng tin của khách hàng đối với đội ngũ bán hàng của PJICO. Thứ hai, Vốn điều lệ của PJICO tuy so với mức vốn pháp định mà Nhà Nước quy định cao tới hơn 2 lần, nhưng so với một số công ty bảo hiểm đang dẫn đầu trên thị trường như: Bảo Việt, Bảo Minh, PVI thì còn thấp hơn rất nhiều. Vốn điều lệ thấp gây tâm lý không an toàn cho khách hàng về khả năng tài chính của công ty, khiến cho nhiều khách hàng đã không lựa chọn PJICO để tham gia bảo hiểm mặc dù khả năng của PJICO có thể bảo hiểm cho họ. Vốn điều lệ thấp cũng làm cho mức giữ lại của công ty thấp. Đối với những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn đòi hỏi công ty phải nhượng tái bảo hiểm lớn để phân tán rủi ro. Nếu đó là hợp đồng có mức độ rủi ro cao thì không sao nhưng nếu là những hợp đồng có mức độ rủi ro thấp thì công ty sẽ phải bỏ qua những cơ hội lớn giúp công ty có thể tăng doanh thu trong nghiệp vụ này. Thứ ba, tuy mạng lưới hoạt động của công ty rộng khắp, trải dài trên khắp đất nước nhưng chưa đồng đều. Ở nhiều nơi số lượng đại lý còn quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu tham gia bảo hiểm của người dân. Đặc biệt, tại một số địa bàn có giao thông không thuận tiện và phương tiện thông tin khó khăn, lãnh đạo các đơn vị thường ít quan tâm tới việc phát triển đại lý khai thác, do đó chưa khai thác triệt để các nguồn thu. 2.3.4 Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy nổ của PJICO trong thời gian sắp tới. Từ sự phân tích các yêu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới hoạt động khai thác bảo hiểm cháy nổ của PJICO. Có thể đưa ra một số đánh giá sau: Thứ nhất, tiềm năng trong bảo hiểm cháy nổ còn rất lớn, kết hợp với các yếu tố như được đưa vào thực hiện bắt buộc, ý thức của người dân ngày càng tăng, tăng trưởng kinh tế, giá trị sản xuất tăng…sẽ khiến cho nhu cầu về bảo hiểm cháy nổ trong thời gian sắp tới rất lớn. Vì vậy, không riêng gì PJICO mà với tất cả các doanh nghiệp đang kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này, khả năng tăng doanh thu trong khai thác bảo hiểm là không khó. Thứ hai, với việc thành lập các Đại lý ồ ạt trong thời gian vừa qua, chắc chắn thời gian sắp tới (năm 2008), PJICO chưa thể chấn chỉnh lại đội ngũ đại lý này ngay được. Vì vậy, hiệu quả khai thác từ những đại lý không có năng lực có thể không cao mà còn ảnh hưởng tới hình ảnh của công ty và gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động khai thác của các đại lý khác. Thứ ba, vốn điều lệ thấp sẽ khiến PJICO bỏ lỡ nhiều cơ hội khai thác trong các hợp đồng bảo hiểm lớn, cũng như khó khăn hơn so với các doanh nghiệp như Bảo Việt, Bảo Minh, PVI..trong việc chào mời các đối tượng mua là những doanh nghiệp lớn. Thứ tư, trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay, PJICO chỉ đứng vị trí thứ từ, trên PJICO còn có Bảo Việt, Bảo Minh, PVI. Hầu hết những thế mạnh mà PJICO có được, thì các doanh nghiệp trên cũng có hoặc thua kém không nhiều. Mạng lưới hoạt động của PJICO lại tập chung chủ yếu tại địa bàn có nhiều doanh nghiệp khác hoạt động nên để tạo ra một bước đột phá trong khai thác bảo hiểm cháy nổ với PJICO là không dễ dàng. CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY NỔ TẠI PJICO. 3.1 Định hướng và mục tiêu kinh doanh năm 2008. Năm 2008 được coi là năm bản lề của kế hoạch 5 năm của đất nước (2006-2010), Chính phủ đặt ra những mục tiêu rất cao để phát triển kinh tế, xã hội. Các doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế cũng kỳ vọng cao về sự tăng trưởng của họ trong năm 2008. Nằm trong xu thế đó, PJICO cũng đang chuẩn bị các bước cần thiết để chuyển đổi lên mô hình Tổng công ty với dự định tăng vốn điều lệ từ 336 tỷ đồng lên 500 tỷ đồng. Tương ứng với mức vốn điều lệ đó, tổng doanh thu phấn đấu tăng trưởng 20% so với năm 2007. Lợi nhuận trước thuế phấn đấu tăng trưởng 100%. Các chỉ tiêu kinh doanh như sau: Tổng thu kinh doanh đạt 1.250 tỷ đồng, trong đó doanh thu bảo hiểm gốc đạt 1020 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế đạt 100 tỷ đồng. Các kế hoạch doanh thu cụ thể của các nghiệp vụ như sau: Bảng 3.1: Kế hoạch doanh thu các nghiêp vụ năm 2008. TT Nghiệp vụ Doanh thu (Tỷ đồng) Tăng trưởng (so với 2007) 1 Nghiệp vụ xe cơ giới 477 60% 2 Bảo hiểm con người 100 25% 3 Nghiệp vụ hàng hóa 108 20% 4 Nghiệp vụ tàu thủy 130 28% 5 Bảo hiểm tài sản, kỹ thuật, bảo hiểm khác. 205 38% (Nguồn: báo cáo tài chính của PJICO) Bên cạnh đó, năm 2008, PJICO cũng sẽ thực hiện những chương trình đầu tư lớn để phát triển thương hiệu nhằm quảng bá thương hiệu của công ty một cách mạnh mẽ hơn. Đồng thời hoàn thành mục tiêu xây dựng hệ thống ISO: 9000 và triển khai áp dụng trên toàn quốc. Định hướng về sản phẩm: PJICO sẽ tiếp tục tập trung phát triển 6 nhóm sản phẩm chủ lực. ç Bảo hiểm tàu thuyền; ç Bảo hiểm vận chuyển hàng hóa; ç Bảo hiểm cháy và tài sản; ç Bảo hiểm xây dựng lắp đặt; ç Bảo hiểm con người; ç Bảo hiểm xe cơ giới. Trong đó: Đối với nghiệp vụ tàu thủy: Công ty sẽ tiếp tục tập trung mạnh vào bảo hiểm tàu biển, phấn đấu khai thác bảo hiểm được thêm 3 – 5 tàu mới. Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh công tác khai thác tàu thủy nội địa, có những điều chỉnh thích hợp để phù hợp hơn với thị trường. Đối với thị trường bảo hiểm hàng hóa: Năm 2008, PJICO có kế hoạch quay trở lại thị trường bảo hiểm hàng xá, tăng cơ chế khoán, tận dụng nhiều hơn nữa cơ hội thị trường bảo hiểm hàng xuất khẩu. Đối với bảo hiểm cháy và tài sản, xây dựng lắp đặt: Với mục tiêu đạt doanh thu 205 tỷ đồng, tăng trưởng 38% so với năm 2007. Công ty đặc biệt chú trọng tới việc đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ, với mục tiêu đặt ra cho nghiệp vụ này là tăng trưởng từ 60% - 70%; Ngoài việc tăng cường tổ chức đào tạo cấp tốc lực lượng bán hàng, thực hiện các chương trình tuyên truyền quảng cáo cho sản phẩm , PJICO sẽ có cơ chế khoán mạnh đối với nghiệp vụ này để tận dụng tối đa cơ hội thị trường trong năm 2008. Đối với thị trường bảo hiểm con người: bảo hiểm học sinh, sinh viên có thể đã gần tới điểm bảo hòa nên PJICO sẽ tập trung mạnh vào triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới như: bảo hiểm sức khỏe mức cao; Bảo hiểm tai nạn con người có bổ sung thêm các dịch vụ giá trị gia tăng (như hỗ trợ y tế khẩn cấp, tư vấn y tế, khám chữa bệnh tại nhà theo yêu cầu…); Bảo hiểm trọn gói cho hộ gia đình và các sản phẩm bảo hiểm du lịch đang đang có hiệu quả rất cao. Bảo hiểm xe máy do năm 2007 có nhiều khách hàng đã tham gia bảo hiểm 2 năm để được tặng mũ bảo hiểm nên khả năng tăng doanh thu sẽ khó khăn hơn. Nên mục tiêu của công ty sẽ tăng mạnh doanh thu trong bảo hiểm xe ô tô Định hướng đối với hoạt động đầu tư: Công ty tiếp tục đầu tư trên thị trường chứng khoán niêm yết và đăng ký. Đồng thời xúc tiến việc tìm địa điểm để xây dựng trụ sở chính tại Hà Nội. Định hướng đối với hoạt động tái bảo hiểm: Tăng cường nhận tái bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm trong nước khác, góp phần thực hiện chủ trương của Nhà Nước trong việc hạn chế chuyển phí tái bảo hiểm nhiều ra thị trường nước ngoài. Cùng với việc tìm kiếm thêm các thị trường tái bảo hiểm phù hợp để tăng năng lực cạnh tranh của công ty. Định hướng đối với công tác tổ chức, quản lý: Công ty cũng có kế hoạch sẽ cấu trúc lại bộ máy tổ chức tại văn phòng công ty. Thay đổi chức năng, nhiệm vụ, thay đổi phân cấp, thành lập mới một số phòng ban, sắp xếp bố trí lại theo đúng yêu cầu công việc và năng lực chuyên môn từng người. Giao quyền chủ động trong kinh doanh và tổ chức công việc cho các đơn vị trên cơ sở quản lý, kiểm soát được hoạt động của từng đơn vị. Tiếp tục thực thi chính sách giao quỹ tiền lương cho các đơn vị theo doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Định hướng đối với đào tạo cán bộ,đại lý: Tiếp tục tăng cường đào tạo cán bộ và đại lý, thực hiện được trương trình cán bộ cơ sở bảo hiểm PJICO cho tất cả các cán bộ mới được tuyển dụng, đào tạo và cấp chứng chỉ cho 100% đại lý. 3.2 Đề xuất và kiến nghị 3.2.1 Đề xuất với công ty PJICO. - Đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm cháy nổ: Tuy bảo hiểm cháy nổ đã được đưa vào thực hiện bắt buộc nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc tất cả các doanh nghiệp chấp hành đúng quy định của Nhà nước đều hào hứng mua nó. Như đã phân tích ở trên, nhiều khách hàng thuộc diện bắt buộc nhưng thực tế những nguy cơ có thể gây tổn thất cho tài sản của họ đã bị loại trừ, họ được quyền lợi rất ít khi rủi ro xảy ra nếu đúng theo quy định của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Chính vì vậy, PJICO cần phải đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm cháy nổ để kích thích nhu cầu tham gia của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Để có thể đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm, PJICO cần từng nhóm đối tượng cụ thể để đưa ra các sản phẩm bảo hiểm phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách hàng. Những sản phẩm này sẽ dễ dàng thuyết phục khách hàng hơn, từ đó hiệu quả khai thác sẽ cao hơn. - Quảng cáo và khuyến mại: vì bảo hiểm cháy nổ đã được đưa vào thực hiện bắt buộc nên đối với nhiều doanh nghiệp, việc mua bảo hiểm là một nghĩa vụ để thực hiện đúng quy định của Pháp luật chứ không hẳn là họ hiểu được sự cần thiết phải mua bảo hiểm cháy nổ. Trước đó, họ không nghĩ đến việc mua bảo hiểm nên không mấy quan tâm đến các doanh nghiệp bảo hiểm. Thời gian này là thời gian họ đang phân vân, lựa chọn, tìm hiểu về các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường. Chính vì vậy, PJICO cần đẩy mạnh quảng cáo về công ty, về các chính sách khuyến mãi của công ty để thu hút sự chú ý của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Đặc biệt là ở những nơi có nhiều tổ chức, doanh nghiệp hoạt động. Cần với việc thu hút sự chú ý, PJICO cần cho người tham gia thấy rằng họ được gì sau khi phải bỏ ra một khoản tiền để mua bảo hiểm cháy nổ. Đó là lúc cần sử dụng tới khuyến mại. Nếu sử dụng khuyến mại bằng vật chất (như tặng một công cụ PCCC…) sẽ thuyết phục hơn là bằng hàng động ( như việc sẽ bảo dưỡng tất cả các công cụ PCCC hiện có của doanh nghiệp…). Hoặc có thể sử dụng nhiều loại khuyến mãi để doanh nghiệp lựa chọn. - Khai thác qua môi giới: Trong điều kiện hiện nay, khi các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm cháy nổ ngày càng nhiều và sẽ còn tiếp tục gia tăng trong tương lai. Trong khi đó, có rất nhiều doanh nghiệp có nhu cầu mua bảo hiểm và đang tìm hiểu về các doanh nghiệp bảo hiểm thì khai thác qua môi giới là rất cần thiết. Chính vì vậy, PJICO cần đẩy mạnh mối quan hệ với môi giới, tăng hoa hồng cho môi giới, nhằm lôi kéo môi giới giới thiệu sản phẩm bảo hiểm của PJICO. - Tạo ấn tượng tốt với khách hàng ngay cả khi khách hàng chưa tham gia bảo hiểm: Một số chi tiết thường rất nhỏ mà doanh nghiệp bảo hiểm không mấy quan tâm nhưng nó lại đóng góp một phần không nhỏ vào việc tạo dựng ấn tượng, sự tin cậy của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đối với công ty. Ví dụ: Việc xây dựng website của công ty. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, nhiều khi không có đủ thời gian để đi đến tận nơi tìm hiểu, khách hàng thường tìm hiểu qua internet và tìm đến website của các công ty bảo hiểm mà họ đang muốn tìm hiểu. Một website được thiết kế chi tiết, rõ ràng và đầy đủ thông tin sẽ gây được thiện cảm của khách hàng nhiều hơn vì tạo cho người đọc cảm giác luôn có sự minh bạch, rõ ràng trong hoạt động của công ty, từ đó tạo được ấn tượng tốt với khách hàng về công ty. Bên cạnh đó, việc xây dựng số liệu trong công ty phải thống nhất giữa các phòng ban để khi xây dựng các Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính…tránh để xảy ra tình trạng cùng một báo cáo mà số liệu ở các phần lại khác nhau, dễ gây tâm tý phản cảm, không tin cậy khi đọc…Ngoài ra, công tác bồi thường nhanh chóng, minh bạch, rõ ràng là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên hình ảnh tốt đẹp về công ty. 3.2.2 Kiến nghị đối với Nhà Nước. - Cục cảnh sát PCCC cần xử lý nghiêm các trường hợp thuộc diện phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nhưng lại trốn tránh tham gia, theo đúng quy định của pháp luật. Liên tục rà soát, kiểm tra, tránh bỏ sót, nhằm loại bỏ hoàn toàn tâm lý tìm cách né tránh tham gia của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc phải tham gia. - Về chế tài xử phạt: theo quy định, những đối tượng thuộc diện phải `mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nhưng không mua sẽ bị phạt tiền từ 2-5 triệu dồng. Mức phạt này dường như là quá nhẹ với những doanh nghiệp có số lượng tài sản lớn, không đủ sức răn đe các doanh nghiệp bảo hiểm không muốn mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Vì vậy, để đảm bảo vừa công bằng trong xử phạt, vừa răn đe được các doanh nghiệp nên quy định xử phạt theo 2 hình thức. Hình thức 1: Xử phạt theo một số tiền nhất định (từ 2-5 triệu đồng) đối với những doanh nghiệp có tài sản nhỏ, nằm trong một giới hạn nào đó. Hình thức 2: Nếu tài sản của doanh nghiệp vượt quá giới hạn thì sẽ áp dụng hình thức thu theo hệ số: Số tiền phạt = hệ số nhân Í giá trị tài sản của doanh nghiệp Hệ số nhận này được cố định theo quy định. Giá trị tài sản là những tài sản có trong doanh nghiệp, tính theo giá thị trường tại thời điểm xử phạt. Bên cạnh đó, đối với trường hợp những đơn vị vi phạm nhiều lần, theo quy định có thể bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ hoạt động. Hình thức xử phạt này dường như không khả thi lắm. Nếu có rất nhiều doanh nghiệp vi phạm và bị xử phạt theo hình thức này, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nên kinh tế vì mỗi tổ chức, doanh nghiệp là một tế bào làm nên nền kinh tế. Thiết nghĩ, thay vì đình chỉ hoạt động có thể đưa ra một số quy định ưu đãi đối với doanh nghiệp thực hiện tốt việc mua bảo hiểm cháy nổ. Chẳng hạn, khi cấp giấy phép trong một hoạt động nào đó cho các doanh nghiệp sẽ ưu tiên xem xét giấy phép của doanh nghiệp nào thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định, trong đó có việc mua bảo hiểm cháy nổ. - Nhà nước cần có nhiều chiến dịch tuyên truyền về quy định bắt buộc mua bảo hiểm cháy nổ để không chỉ các doanh nghiệp phải tham gia bảo hiểm biết mà cả những người dân cũng hiểu rõ các quy định này. Khiến cho bảo hiểm cháy nổ, tuy là bắt buộc nhưng các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sẽ tự nguyện tham gia vì nhận rõ sự cần thiết của nó. - Bộ Tài Chính cần xem xét lại biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và tự nguyện để giảm sự chênh lệch quá lớn về phí giữa hai loại hình bảo hiểm này. Nhằm đảm bảo sự công bằng đối với tất cả người tham gia bảo hiểm cháy nổ. Đặc biệt, tạo tâm lý thoải mái cho những đối tượng thuộc diện bắt buộc, trước đó đã tham gia bảo hiểm cháy nổ tự nguyện trong nhiều năm. Để làm được điều này, Nhà nước nên quy định biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc với hệ số tính phí bảo hiểm được chia làm 2 mức: tối đa và tối thiểu. Trong đó, mức tối thiểu trong bảo hiểm cháy nổ bắt buộc không nên chênh lệch quá lớn với mức tối đa trong bảo hiểm cháy nổ tự nguyện mà các doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra. Đồng thời, Nhà nước cũng cần yêu cầu các doanh nghiệp không được giảm phí bảo hiểm tự nguyện quá một mức độ nào đó. - Cần có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa Cảnh sát PCCC và doanh nghiệp bảo hiểm, để giúp Cảnh sát PCCC nhanh chóng phát hiện ra những cơ sở cần đưa vào diện bắt buộc mua bảo hiểm. Đồng thời, cũng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nhanh chóng có đủ thông tin về các cơ sở được cấp giấy chứng nhận PCCC để có biện pháp tiếp cận khai thác. KẾT LUẬN Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển, sản xuất ngày càng mở rộng, giá trị sản xuất ngày càng tăng, hàng loạt các cơ sở sản xuất, các tổ chức, doanh nghiệp lần lượt ra đời. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự gia tăng giá trị sản xuất là sự gia tăng số vụ cháy và thiệt hại về người và của từ các vụ cháy. Trong tình hình đó, thấy rõ được sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ, Nhà Nước đã đưa bảo hiểm cháy nổ vào thực hiện bắt buộc, khiến cho nhu cầu về bảo hiểm cháy nổ gia tăng. Tạo ra cơ hội tăng doanh thu trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường. Tuy nhiên, với số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường hiện này và còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới thì sự cạnh tranh trong lĩnh vực này cũng khá gay gắt. Bên cạnh đó, những mâu thuận, khúc mắc trong việc triển khai bảo hiểm cháy nổ bắt buộc giữa người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan Nhà Nước chịu trách nhiệm trực tiếp về vấn đề này tạo ra rất nhiều khó khăn trong khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Trước những cơ hội và những khó khăn mà thị trường bảo hiểm cháy nổ đặt ra cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm đang triển khai loại hình bảo hiểm này. PJICO nên đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ. Tuy hiện nay trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, PJICO chỉ đứng vị trí thứ tư, sau Bảo Việt, Bảo Minh, PVI. Mỗi doanh nghiệp có một thế mạnh khác nhau để khai thác thị trường bảo hiểm cháy nổ. Chính vì vậy cạnh tranh với các doanh nghiệp này là rất khó với PJICO. Để đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ, PJICO cần phải tận dụng triệt để các thế mạnh của mình và nhanh chóng khắc phục các điểm yếu đang tồn tại ở công ty trong thời gian qua. Với chiến lược khai thác hiệu quả, có thể PJICO không dẫn đầu trên thị trường về doanh thu phí bảo hiểm cháy nổ nhưng tốc độ tăng doanh thu của PJICO trong nghiệp vụ này sẽ gia tăng đáng kể trong thời gian sắp tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. David Bland, 1993, Bảo hiểm – Nguyên tắc và thực hành, Học viện Bảo hiểm Hoàng gia Anh, Bản dịch 1998, NXB Tài chính, Hà Nội. 2. Ts. Nguyễn Văn Định, 2005, Giáo trình bảo hiểm, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, XNB Thống kê. 3. PJICO, 2004, Quy tắc bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt, Hà Nội. 4. PJICO, 2007, Bản cáo bạch chào bán cổ phiếu ra công chúng. 5. Nghị định số 130/2006/NĐ- CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. 6. Quyết định số 28/2007/ QĐ- BTC ngày 24/04/2007 của Bộ Tài Chính về việc ban hành quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. 7. Thông tư liên tịch số 41/2007/ TTLT- BTC- BCA ngày 24/04/2007 của Bộ Tài Chính – Bộ Công An về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006. 8. Các trang web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10815.doc
Tài liệu liên quan