Chuyên đề Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm

 Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ Việc hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cần theo hướng làm sao cho quy trình, thủ tục thực hiện quá trình thanh toán được đơn giản hơn, nhanh gọn, chính xác và vẫn thu hút được nhiều khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác thanh toán, tăng khả năng cạnh tranh của các chi nhánh; đơn giản hóa các khâu nghiệp vụ, giảm tối đa các yêu cầu chứng từ đối với khách hàng, bởi càng nhiều giấy tờ thì việc kiểm tra càng mất thời gian. Đồng thời giảm được chi phí cho doanh nghiệp, đảm bảo cạnh tranh được với NHTM khác.  Đổi mới công nghệ ngân hàng Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống NHTMCP CTVN là một đòi hỏi bức thiết. Công nghệ thanh toán là yếu tố quan trọng đẩy nhanh tốc độ thanh toán, nâng cao chất lượng thanh toán, giảm chi phí và góp phần vào việc xây dựng một hệ thống tiên tiến, hội nhập với cộng đồng ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, phát triển TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và TTQT nói chung không thể không gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ ngân hàng. Do vậy, trong thời gian tới kiến nghị lên NHTMCP CT VN một số vấn đề sau: + Xây dựng các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng cho các ứng dụng và các dịch vụ ngân hàng, trong đó có TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ như phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu. + Xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lý thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách nhanh chóng, chính xác. + Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản trị điều hành: quản lý tài chính, quản lý rủi ro, quản lý quan hệ khách hàng, quản lý toàn bộ hệ thống tài chính cũng như nguồn nhân lực của ngân hàng liên quan đến công tác TTQT. + Chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác TTQT. Các chương trình này phải tạo ra các mẫu điện phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước và các ngân hàng đại lý trên thế giới. + Từng bước triển khai dự án xây dựng ngân hàng điện tử, nối mạng giao dịch với các khách hàng, trước mắt là với các khách hàng lớn.  Tăng cường quan hệ đại lý quốc tế Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài kể cả số lượng lẫn chất lượng cũng là một đòi hỏi rất quan trọng. Việc xây dựng mối quan hệ với nhiều ngân hàng sẽ giúp NHTMCP CTVN tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, do đó đẩy nhanh tốc độ giao dịch. Xây dựng quan hệ đại lý với phương châm uy tín, hiệu quả đảm bảo hai bên cùng có lợi. Vì vậy trong thời gian tới NHTMCP CTVN cần chú trọng mở rộng và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng, đặc biệt ở những thị trường XNK quan trọng của Việt Nam như: Nhật bản, Mĩ.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ork… tặng giải thưởng là ngân hàng hàng đầu về tỷ lệ xử lý điện thanh toán chuyển thẳng, tự động qua hệ thống SWIFT với nước ngoài không sai sót. Đến nay, NHTMCP CT chi nhánh HK đã có một hệ thống đông đảo khách hàng với số lượng hơn 100.000 có quan hệ giao dịch quốc tế thường xuyên. Trong đó có các Tổng Công ty lớn có khối lượng thanh toán XNK đứng đầu trong hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam như Tổng Công ty Xăng dầu, Tổng Công ty XNK xây dựng, Tổng Công ty Điện lực... Bên cạnh việc thu hút khách hàng tiềm năng trong nước, NHTMCP CT chi nhánh HK đã bước đầu được các doanh nghiệp nước ngoài, công ty liên doanh lựa chọn là ngân hàng phục vụ mình thực hiện các giao dịch TTQT. Hai là, hoạt động TTQT giúp NHTMCP CT chi nhánh HK tiếp cận với những công nghệ quản lý, thanh toán hiện đại và hiệu quả, từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chi nhánh luôn là một trong những ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thanh toán. Từ năm 2005 NHCT HK đã tiến hành triển khai và thực hiện dự án hiện đại hoá công nghệ ngân hàng (INCAS) nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng nói chung và của hoạt động thanh toán nói riêng. Công nghệ này đã làm thay đổi cơ cấu mô hình tổ chức của hoạt động TTQT tại chi nhánh, giúp cho công tác quản lý hiệu quả hơn. Với hệ thống thanh toán mới, toàn bộ các giao dịch thanh toán hàng xuất nhập khẩu được tiến hành tại TF (Trade Finance – Module giao dịch chi nhánh). Với chương trình này mọi dữ liệu được quản lý tập trung nên không được phép chỉnh sửa dữ liệu, đảm bảo số liệu chính xác, an toàn và giúp cho công tác thống kê báo cáo được nhanh chóng và kịp thời hơn. Ba là, sự phát triển của hoạt động TTQT tạo điều kiện thúc đẩy, hỗ trợ các hoạt động liên quan phát triển như: hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hoạt động bảo lãnh, hoạt động ngân hàng đại lý... từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh HK trên thị trường. Bốn là, từ một ngân hàng chuyên hoạt động kinh doanh đối nội với phần đông khách hàng có giao dịch nội tệ, sang hoạt động kinh doanh đối ngoại, đến nay ngân hàng đã thu hút được nhiều khách hàng trong nước cũng như quốc tế đến giao dịch, nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh của NHCT HK trên trường quốc tế. Uy tín của ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán XNK trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao thông qua việc lựa chọn NHCT HK làm ngân hàng thông báo ngày càng tăng lên thể hiện uy tín của ngân hàng đối với các ngân hàng bạn trên thế giới, lựa chọn NHCT HK là ngân hàng xác nhận cho những thư tín dụng nhập khẩu do các NHTM khác trong nước phát hành, phát hành tái bảo lãnh cho các thư bảo lãnh đối ứng của các ngân hàng nước ngoài và trị giá cũng như số món của các giao dịch tái bảo lãnh ngày càng gia tăng, ký được nhiều hợp đồng tín dụng với nước ngoài để gia tăng nguồn ngoại tệ... Năm là, hoạt động TTQT đã góp phần tăng thu nhập của NHTMCP CT chi nhánh HK. Thu phí dịch vụ mà chủ yếu là thu dịch vụ TTQT không ngừng tăng lên góp phần thực hiện phương châm tăng tỷ trọng thu từ phí trong tổng thu nhập của chi nhánh, phù hợp với xu hướng của một ngân hàng hiện đại. Như đã đề cập ở trên, do năm 2008 khối lượng thanh toán hàng XNK giảm nên phí thu được từ hoạt động này cũng giảm so với năm trước đó. Nhưng đến năm 2009 thì bắt đầu tăng trưởng trở lại. Kết quả là phí dịch vụ thu được từ hoạt động XNK năm 2009 tăng 22% so với cùng kỳ năm 2008. Bảng 12: Mức tăng trưởng thu phí thanh toán xuất nhập khẩu Đơn vị: nghìn USD (Nguồn: Báo cáo thường niên của NHCT HK) 2.3.2 Một số khó khăn chủ yếu trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT HK Hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của chi nhánh nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần đẩy mạnh hoạt động chung của chi nhánh. Tuy nhiên hiện nay nghiệp vụ thanh toán này vẫn còn khó khăn cần khắc phục, giải quyết. Khác với ngân hàng Ngoại Thương, các chi nhánh được thanh toán trực tiếp với ngân hàng nước ngoài, các chi nhánh của NHTMCP CTVN có đủ điều kiện tham gia thanh toán quốc tế đều thực hiện qua đầu mối duy nhất là NHCT VN. Chỉ có NHTMCP CTVN mới được phép đặt quan hệ đại lý và mở tài khoản NOSTRO tại ngân hàng đại lý nước ngoài. Chính vì vậy, những khó khăn tồn tại trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ sẽ được phân tích trên 2 khía cạnh: Những khó khăn tồn tại từ phía NHTMCP CTVN và các chính sách của Nhà Nước. Những khó khăn tồn tại của bản thân chi nhánh. Những khó khăn tồn tại từ phía NHTMCP CTVN và các chính sách của Nhà Nước Một là, hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT còn thiếu và nhiều bất cập. Các văn bản pháp lý hiện hành qui định chồng chéo qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi nên khó áp dụng, hiệu lực pháp lý chưa cao. Chưa có luật ngoại hối, luật hối phiếu, luật séc. Hai là, cán cân thương mại quốc tế và cán cân vãng lai còn thâm hụt làm mất cân đối giữa cung cầu về ngoại tệ, ảnh hưởng đến khả năng mua bán ngoại tệ của NHCT VN nhằm đáp ứng nhu cầu cho hoạt động TTQT của các chi nhánh. Ba là, Việt Nam chưa có thị trường hối đoái hoàn chỉnh: hiện nay nước ta mới có thì trường ngoại tệ liên ngân hàng, hoạt động của thị trường này còn kém sôi động, nghiệp vụ còn đơn giản, đối tượng mua chủ yếu là USD. Thành viên tham gia thị trường này còn hạn chế, chỉ có các NHTM Trung Ương và NHNN mới được phép tham gia thị trường này. Bốn là, quy mô hoạt động TTQT của NHTMCP CTVN còn nhỏ bé, số lượng khách hàng có quan hệ TTQT qua hệ thống NHCT VN còn ít, uy tín của NHCT VN trên thị trường quốc tế đã được nâng cao nhưng vẫn chưa đủ độ tin cậy để các ngân hàng lớn đặt quan hệ, việc mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài ít, mạng lưới ngân hàng đại lý còn hạn chế. Vì vậy quy mô hoạt động TTQT chưa tương xứng với tầm vóc của một ngân hàng thương mại quốc doanh lớn trong nước. Hơn thế nữa, NHTMCP CTVN đang phải đối đầu với những cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các ngân hàng trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Năm là, công nghệ TTQT chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của hệ thống thanh toán ngoại tệ và TTQT trong nội bộ hệ thống NHTMCP CTVN tuy đã được thực hiện trên máy vi tính nhưng chương trình phần mềm chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, mức tự động chưa cao. Việc truyền nhận tin vẫn do con người thực hiện thông qua hệ truyền tin SCOM3 và còn qua nhiều khâu, vì vậy việc truyền tin chậm trễ trong thanh toán và hiệu quả thanh toán chưa cao, làm ảnh hưởng tới uy tín của NHTMCP CTVN. Sáu là, đội ngũ cán bộ TTQT tại Hội sở chính NHTMCP CTVN còn thiếu và chưa đủ mạnh. Bảy là, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTMCP CT VN chưa được đẩy mạnh. NHCT VN còn chưa tham gia đầu tư vào quá trình sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu trong khi đó các ngân hàng nước ngoài như BNP & CREDIT LYONNAIS đã đầu từ vào khai thác dầu thô của PETECHIM gần 200 triệu USD... Qua đó có thể thấy ngân hàng nước ngoài rất năng động, họ biết cách kết hợp các loại hình nghiệp vụ để bổ trợ cho nhau, thúc đẩy sự phát triển chung. Với hoạt động đầu tư dài hạn đó không những họ tăng thêm được khoản tín dụng sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn của mình mà còn đảm bảo khả năng thu hồi vốn, thu hút khách hàng thực hiện thanh toán tại ngân hàng của mình, tăng doanh thu về thu phí dịch vụ. Và ngược lại khi đã có chứng từ xuất trình thanh toán lại xuất hiện nhu cầu tài trợ vốn từ đó taọ ra chu trình khép kín thu hút khách hàng và ràng buộc khách hàng. Những khó khăn chủ yếu của Chi nhánh NHCT HK + Các phương thức TTQT phát triển chưa toàn diện Trong hoạt động TTQT tại chi nhánh hiện nay, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 55% trên tổng số phí thu vào trong hoạt động TTQT, còn lại là phương thức thanh toán nhờ thu, chuyển tiền. Bên cạnh đó chi nhánh có những dịch vụ thanh toán khác như: chi trả kiều hối, thanh toán séc du lịch, thanh toán thẻ VISA card... Điều này cho thấy, các phương thức TTQT tại chi nhánh phát triển chưa toàn diện. Ngay cả trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ cũng có sự chênh lệch rất lớn về số lượng và giá trị L/C xuất nhập. Doanh số thanh toán hàng xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 5% tổng doanh số TTQT tại ngân hàng. Lượng L/C xuất khẩu thông báo và chiết khấu qua chi nhánh còn ít trong khi đó L/C nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn gây khó khăn trong việc tự cân đối nhu cầu mua bán ngoại tệ. Đây là một khó khăn lớn của NHTMCP CT chi nhánh HK trong việc thu hút nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu. Hàng năm, NHCT HK phải tìm nhiều biện pháp với chi phí cao để bù đắp phần thiếu hụt nguồn ngoại tệ trong thanh toán. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do hầu hết các đơn vị xuất khẩu trong nước chủ yếu thực hiện qua hệ thống ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam với bề dày kinh nghiệm và đội ngũ nhân viên lành nghề hơn. + Quy mô hoạt động TTQT còn hạn chế Ở các ngân hàng hiện đại thì doanh thu từ các hoạt động trung gian thanh toán chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng đầu tư. Trong khi đó ở NHTMCP CT chi nhánh HK doanh thu chủ yếu vẫn từ hoạt động tín dụng, doanh thu từ hoạt động TTQT vẫn chiếm một tỷ lệ chưa cao trong tổng doanh thu của ngân hàng. Tỷ trọng thu phí hoạt động TTQT trong tổng thu nhập còn thấp, chiếm khoảng 6% tổng lợi nhuận và 29% phí dịch vụ (năm 2009). + Các sản phẩm, dịch vụ TTQT vẫn chưa phong phú, đa dạng Các hình thanh toán chưa đa dạng, mới giới hạn trong những sản phẩm truyền thống như chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán L/C. Đây là những sản phẩm mà hầu hết các ngân hàng có nên luôn ở trong tình trạng cạnh tranh gay gắt. Các loại L/C đặc biệt đáp ứng được thực tế như L/C giáp lưng, L/C tuần hoàn, L/C chuyển nhượng còn ít được mở thực hiện qua NHTMCP CTVN. Các sản phẩm mới, hiện đại chưa được triển khai như bao thanh toán, thẻ tín dụng quốc tế đa năng... Chưa phát triển dịch vụ tư vấn thanh toán XNK, chưa nối mạng giao dịch với khách hàng, thanh toán biên mậu mới bắt đầu được triển khai. + Thời gian xử lý các giao dịch chưa nhanh Mức độ xử lý tự động các giao dịch chưa cao, giao dịch vẫn phụ thuộc nhiều thao tác của con người, thời gian từ khi bắt đầu đến khi giao dịch hoàn tất vẫn chậm, thậm trí còn gặp trường hợp ách tắc đường truyền, lỗi hệ thống. Do khối lượng các giao dịch của toàn hệ thống NHCT HK ngày càng tăng lên trong khi đó hệ thống máy tính, đường truyền thông chưa được nâng cấp hoặc đã được nâng cấp nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế nên thường hay xảy ra tình trạng nghẽn mạch, làm giảm tốc độ thực hiện giao dịch thanh toán hàng xuất nhập khẩu. + Khả năng cạnh tranh trên thị trường chưa cao NHCT VN được thành lập từ năm 1988 và chi nhánh mới tiến hành hoạt động kinh doanh đối ngoại gần 17 năm. Khoảng thời gian đó chưa đủ để chi nhánh chiếm vị trí cao trên thị trường. Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của những đối thủ sừng sỏ, đã có nhiều năm kinh nghiệm trong hoạt động thanh toán quốc tế như ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (45 năm), các ngân hàng nước ngoài như City Bank, ANZ... chi nhánh đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút khách hàng. Trước tiên TTQT là hoạt động truyền thống của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, họ có nhiều kinh nghiệm, chiếm phần lớn thị phần trên thị trường, nên hầu hết khách hàng đều đặt quan hệ với họ. Đối với những ngân hàng nước ngoài với thế mạnh về vốn, về kinh nghiệm TTQT cũng như trang thiết bị, công nghệ hiện đại, chính sách thông thoáng hợp lý cũng đã thành công trong việc thu hút một số lượng khách hàng, đặc biệt là các công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy khả năng cạnh tranh mở rộng thị trường của chi nhánh hết sức khó khăn. + Đội ngũ cán bộ còn hạn chế về kinh nghiệm Đội ngũ cán bộ thanh toán đa số là trẻ, nhiệt tình, hầu hết tốt nghiệp cao đẳng, đại học hoặc sau đại học. Tuy nhiên khả năng về kinh nghiệm trong công việc còn hạn chế. Trên thực tế cán bộ nhân viên phòng TTQT rất chú trọng đến việc tìm tòi tài liệu nghiên cứu cũng như trau dồi kiến thức, nhưng họ gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc sưu tầm tài liệu, chính điều này đã gây nhiều cản trở trong việc học tập, nâng cao trình độ của cán bộ. Tóm lại, sau 17 năm tiến hành hoạt động TTQT, phòng TTQT đã thu được nhiều thành công, góp phần vào kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Tuy nhiên phòng cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, tồn tại của hệ thống NHCT VN nói chung và bản thân chi nhánh nói riêng. Mỗi khó khăn, tồn tại đều có đặc điểm và nguyên nhân khác nhau. Chính vì vậy việc phân tích tình hình thực tế, nắm bắt thấu hiểu các nguyên nhân nhằm đề ra các giải pháp tháo gỡ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với bản thân chi nhánh. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM Qua quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài, cùng với việc tìm hiểu thực trạng về những thuận lợi cũng như khó khăn của ngân hàng, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến về giải pháp mở rộng hoạt động TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP CT chi nhánh HK. 3.1 Định hướng mở rộng hoạt động TTQT của NHTMCP CTVN nói chung và NHCT HK nói riêng NHCT chi nhánh HK đã xây dựng Chiến lược phát triển đến năm 2012 với mục tiêu xây dựng NHCT HK thành một NHTM chủ lực và hiện đại, hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, an toàn, bền vững, tài chính lành mạnh, có kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, mở rộng và phát triển các kỹ thuật, nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, chất lượng nguồn nhân lực và quản trị ngân hàng đạt mức tiên tiến, có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ tại Việt Nam. Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHTMCP CT chi nhánh HK gắn liền với phương châm kinh doanh trong giai đoạn hiện nay là “Tin cậy – Hiệu quả - Hiện đại” đồng thời có những bước chuẩn bị tích cực cho quá trình mở rộng kinh doanh theo cả chiều rộng và chiều sâu để có đủ điều kiện nội lực thực hiện “Phát triển – Hội nhập”. Các hoạt động dịch vụ và hoạt động kinh doanh đối ngoại được xác định là chiến lược phát triển của NHCT HK nhằm mục tiêu tăng tỉ lệ thu dịch vụ trong doanh thu và phù hợp với hướng phát triển đúng đắn của NHTM hiện đại. NHTMCP CT chi nhánh HK cần tận dụng phát huy những điểm mạnh sẵn có của mình là mạng lưới rộng, hiểu rõ khách hàng truyền thống và uy tín tốt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nhiều thành phần khách hàng. Do vậy, cần tập trung nguồn lực để đạt được mục tiêu do Hội đồng quản trị và Ban điều hành đặt ra, ngân hàng cần xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh đối ngoại đồng bộ và hoàn thiện nhằm tối ưu hoá khả năng cạnh tranh và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, nâng cao hơn thị phần trong hoạt động thanh toán XNK, phát triển mạnh mẽ các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực. Phấn đấu đến năm 2012 đưa NHCT HK nói riêng NHTMCP CTVN nói chung trở thành một ngân hàng tiên tiến có tầm cỡ trong khu vực. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của hệ thống NHCT HK bao gồm nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Xây dựng chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại Một cách đồng bộ và toàn diện nhằm tối đa hoá khả năng cạnh tranh, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Phát triển mạnh và tạo nhiều sản phẩm dịch vụ mới gắn kết với nhau để tạo lập, giữ vững và mở rộng thị trường. Tập trung đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất, con người, hoàn thiện mô hình tổ chức nhằm triển khai và thực hiện tốt chiến lược kinh doanh đối ngoại, trọng tâm là đẩy mạnh hoạt động TTQT, củng cố và phát triển mối quan hệ ngân hàng đại lý của NHTMCP CT... Nâng cao chất lượng công tác thanh toán XNK Đảm bảo cạnh tranh được với các NHTM hàng đầu trong nước như VietcomBank... Tận dụng thế mạnh có mạng lưới khách hàng rộng rãi, có mối quan hệ mật thiết với đông đảo khách hàng truyền thống... để phấn đấu nâng cao thị phần TTQT của NHCT. Thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu, phân tích tình hình hoạt động của các tổ chức tài chính tín dụng, thị trường tài chính, tiền tệ và kinh tế các nước có quan hệ với kinh tế Việt Nam, tạo điều kiện để phát triển kinh doanh đối ngoại có hiệu quả và tăng cường khả năng tư vấn cho khách hàng. Nghiên cứu mở văn phòng đại diện Tại các nước ASEAN, Mỹ, Châu Âu... vào thời gian tới, sau đó nghiên cứu mở chi nhánh NHTMCP CTVN tại các khu vực này vào những năm 2012 để mở rộng kinh doanh quốc tế và hỗ trợ kinh doanh XNK, đầu tư ra nước ngoài... của các doanh nghiệp Việt Nam. Đào tạo và bổ sung đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và kỹ thuật Đang làm việc tại những nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Đây là nhiệm vụ phải được quan tâm hàng đầu đối với cả hệ thống NHTMCP CTVN và các chi nhánh, đặc biệt là năng lực nghiệp vụ tài trợ thương mại XNK và TTQT của các cán bộ tín dụng chuyên trách quan hệ với khách hàng, kỹ năng giao tiếp của cán bộ nghiệp vụ và tiếp thị cũng là nội dung cần đào tạo một cách có hệ thống. Đầu tư thích đáng để công nghệ thông tin thực sự trở thành mũi nhọn Tạo nên sự đột phá cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ, tăng năng lực cạnh tranh. Con người và công nghệ được xem là hai yếu tố đặc biệt quan trọng đem lại sự thành công trong cạnh tranh và hội nhập của NHTMCP CT chi nhánh HK trong những năm tới. Củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại theo mô hình NHTM quốc tế Nghiên cứu, điều chỉnh mô hình tổ chức hiện nay, chức năng và phân cấp quản lý, kinh doanh đối với các bộ phận nghiệp vụ tại hội sở chính và các chi nhánh để phù hợp với xu thế phát triển trong mỗi giai đoạn. Rà soát và hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ hiện có Phát triển hệ thống các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ tự động tại các chi nhánh và điểm giao dịch ngoài ngân hàng để tận dụng ưu thế mạng lưới của NHTMCP CT. Tổ chức và triển khai tốt các hoạt động tiếp thị Nâng cao tính cạnh tranh với bên ngoài đồng thời đảm bảo tính thống nhất và sự phối hợp chặt chẽ từ Hội sở chính đến các chi nhánh, cũng như giữa các phòng ban trong nội bộ từng đơn vị tại NHTMCP CT. 3.2 Giải pháp mở rộng TTQT tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm Mở rộng và phát triển hoạt động TTQT có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTMCP CT nói chung và chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng. Điều đó không những nâng cao hơn uy tín của ngân hàng mà còn tạo vị thế cho ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Qua đánh giá thực trạng hoạt động TTQT tại NHCT HK, ta nhận thấy bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì ngân hàng cũng không tránh khỏi những hạn chế còn tồn tại. Dựa trên những tồn tại đó và định hướng phát triển hoạt động TTQT của chi nhánh, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động TTQT tại NHCT chi nhánh HK. 3.2.1 Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trình độ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi quá trình sản xuất. Để tiến hành mọi quá trình sản xuất, điều đầu tiên là phải quan tâm đến nhân tố con người. Do đó, tư tưởng chủ đạo trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của NHCT VN là "Con người là vốn quý nhất. Đầu tư vào con người có ý nghĩa sống còn đối với sự thành đạt của ngân hàng". NHCT HK với một đội ngũ cán bộ, công nhân viên giàu kinh nghiệm, trẻ khoẻ, là một điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung, cho hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Nhưng mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động và phát triển, do đó nhận thức của con người về sự vật hiện tượng đó cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Hoạt động TTQT là một hoạt động không ngừng được cải tiến cho phù hợp với nhu cầu thực hiện của hoạt động thương mại quốc tế. Mà cán bộ ngân hàng không chỉ giỏi về nghiệp vụ còn phải là người nhiệt tình, niềm nở, giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, sẵn sàng hướng dẫn và giúp khách hàng làm thủ tục một cách nhanh gọn, tư vấn cho khách hàng thực hiện hoạt động của mình an toàn và hiệu quả nhất. Vì vậy yêu cầu phải bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho các cán bộ công nhân viên của ngân hàng có thể thực hiện theo các hướng sau: Tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, chuyên sâu về chuyên môn, trang bị kiến thức về rủi ro mà các doanh nghiệp XNK của Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới, triển vọng XNK của Việt Nam, luật lệ, tập quán thương mại quốc tế và phổ biến các kỹ thuật thanh toán mới được áp dụng trên thế giới... Đặc biệt trong những lớp học này có thể mời các chuyên gia nước ngoài về thanh toán quốc tế giảng dạy, để cán bộ và nhân viên ngân hàng trong các bộ phận có liên quan đến thanh toán quốc tế có điều kiện để trau dồi về nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ. Cử cán bộ đi học nước ngoài chuyên về lĩnh vực TTQT, tìm hiểu những thông tin về TTQT mà trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay đang được sử dụng và trong tương lai gần sẽ áp dụng tại các nước công nghiệp phát triển. Tranh thủ lớp tập huấn, đào tạo do NHTMCP CTVN tổ chức, các lớp đào tạo do các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế tài trợ. Phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các thanh toán viên, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích nêu ra các sáng kiến mới, thường xuyên phân tích các nhược điểm, các vụ việc liên quan làm khách hàng phàn nàn, từ đó tìm ra cách khắc phục. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá trình độ cán bộ để thực hiện đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực cho cán bộ làm công tác TTQT. NHCT chi nhánh HK cũng cần có chế độ khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn, hoàn thành suất sắc công việc được giao và có nhiều sáng tạo. Có chế độ kỷ luật với những cán bộ không hoàn thành công việc được giao, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú ý đến nguồn nhân lực bổ sung, thay thế. Ngân hàng có thể thông qua các trường đại học để lựa chọn các sinh viên có khả năng, năng lực đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng, cũng có thể tổ chức các cuộc tuyển chọn, hoặc thông qua NHTMCP CTVN thực hiện các cuộc điều chuyển nhân sự để lựa chọn nhân viên đáp ứng yêu cầu của công việc. 3.2.2 Đầu tư đổi mới cơ sở vật chất cũng như hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Cơ sở vật chất là phương tiện để ngân hàng thực hiện các hoạt động, cung cấp dịch vụ. Cơ sở vật chất bao gồm nhà cửa, thiết bị máy móc, phương tiện đi lại, phương tiện thông tin... Sản phẩm dịch vụ cũng như các sản phẩm nói chung, chất lượng của nó phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất, thiết bị. Một ngân hàng với trụ sở khang trang, rộng rãi sẽ tạo niềm tin, ấn tượng tốt cho khách hàng, cho đối tác, đặc biệt là khách hàng và đối tác nước ngoài. Một ngân hàng với hệ thống thông tin, truyền tin kịp thời, an toàn, chính xác là hết sức cần thiết và ảnh hưởng rất lớn đền chất lượng dịch vụ. Đặc trưng quan trọng của hoạt động ngân hàng chủ yếu liên quan đến tiền tệ, thực hiện dịch vụ chủ yếu là trung gian cho khách hàng, trong các hoạt động liên quan đến nhiều khách hàng, đối tác nên yêu cầu kịp thời, an toàn, chính xác rất cao. Đặc biệt là hoạt động TTQT, ngân hàng với vai trò là cầu nối giữa khách hàng là đối tác nước ngoài với khách hàng là đối tác trong nước, là những người cách xa nhau về địa lý, khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán, thói quen làm lại càng cần thiết hơn. Do đó ngân hàng cần thiết phải đầu tư đổi mới cơ sở vật chất theo hướng tiếp cận các công nghệ mới, hiện đại. Ngân hàng có thể thực hiện theo các hướng: + Trích và lập quĩ đầu tư phát triển, sử dụng các quĩ này một cách hợp lý, hiệu quả như đầu tư để nâng cấp máy móc thiết bị, trang bị thêm các thiết bị hiện đại, đủ công suất, thích hợp với chương trình phần mềm giao dịch, đảm bảo xử lý thông tin thông suốt ngay cả trong những tình huống phức tạp vào giờ cao điểm. Đầu tư mới, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin đúng hướng, đồng bộ, hiệu quả, có tính thống nhất; xây dựng các bộ tiêu chuẩn đạt trình độ quốc tế trong việc quản lý và kiểm soát chất lượng hệ thống công nghệ thông tin (CNTT); tăng cường chất lượng quản trị, điều hành hệ thống CNTT; phát triển nguồn nhân lực CNTT. Cố gắng phấn đấu xây dựng NHCT chi nhánh HK trở thành một NHTM hàng đầu trong công tác áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại vào hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ tự động hoá 100% các giao dịch với khách hàng; hỗ trợ và phát triển các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; hỗ trợ kịp thời và chính xác trong chỉ đạo, quản lý – điều hành, quản trị rủi ro. + Đẩy mạnh các phong trào thi đua nghiên cứu, áp dụng các sáng kiến về công nghệ trong hoạt động ngân hàng. Có các khuyến khích vật chất cho những cán bộ, công nhân viên có thành tích trong việc sáng kiến, áp dụng các công nghệ ngân hàng mới. Hình thành đội ngũ nhân lực CNTT của chi nhánh đảm bảo đủ về lượng – mạnh về chất. + Mạnh dạn ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới trên thế giới để nâng cao hiệu quả thanh toán. Đồng thời với việc hiện đại hoá công nghệ thì ngân hàng cũng cần phải đảm bảo an toàn về công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng để giữ vững uy tín của ngân hàng trên thị trường. 3.2.3 Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các hình thức L/C Đối với ngân hàng, chất lượng sản phẩm là đảm bảo đối với khách hàng về khả năng chi trả, thực hiện thanh toán không sai sót, đảm bảo an toàn thanh toán cho khách hàng, tốc độ thanh toán nhanh. Để nâng cao chất lượng thanh toán, NHCT chi nhánh HK cần không ngừng hoàn thiện quy trình thanh toán và cải tiến kỹ thuật để đảm bảo an toàn và tốc độ thanh toán cho ngân hàng và khách hàng. Đồng thời, ngân hàng cũng cần mở rộng mối quan hệ nhằm thu thập thông tin của khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Trong bối cảnh hội nhập, trước cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về sử dụng các sản phẩm mới, NHCT HK cần nhanh chóng xây dựng một chiến lược đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ liên quan đến thanh toán xuất nhập khẩu, nghiên cứu và khẩn trương triển khai các loại hình tài trợ xuất nhập khẩu như bao thanh toán... Việc đa dạng hoá loại hình dịch vụ không chỉ giúp NHCT HK thu hút khách hàng, mà còn giảm thiểu rủi ro do sức ép cạnh tranh tăng lên khi mà số lượng các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại nước ta ngày càng nhiều hơn, những ngân hàng này có tiềm lực rất lớn về tài chính và khả năng cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên điều quan trọng và cần quan tâm đó là khách hàng có sử dụng các dịch vụ hay không. Hầu hết các khách hàng còn lạ lẫm và không có bộ phận chuyên trách về các dịch vụ này nên nhu cầu từ phía khách hàng gần như không có. Vì vậy để việc áp dụng các hình thức L/C có hiệu quả, ngân hàng ngoài việc phải hoàn thiện các hình thức L/C mà còn phải tạo cho khách hàng cảm giác tin tưởng và dễ hiểu về sản phẩm của mình, từ đó thu hút khách hàng đến với các dịch vụ của mình. 3.2.4 Tăng cường công tác phân tích đối thủ cạnh tranh Hiểu biết đối thủ cạnh tranh là điều kiện tiên quyết để hoạch định chính sách đối phó có hiệu quả, vì thế nên có biện pháp phân tích đối thủ cạnh tranh, tránh việc thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh một cách tự phát. Bằng việc thường xuyên theo dõi và nắm bắt các thông tin về đối thủ cạnh tranh thị trường trong nước cũng như thị trường trong khu vực và thị trường quốc tế để có thể biết được các ngân hàng, những tổ chức tài chính nào mới ra đời, từ đó nghiên cứu phân tích chính sách kinh doanh, thực trạng tình hình khả năng tài chính của họ, tìm ra ưu nhược điểm của họ, nhằm có những nhận định hay đánh giá kịp thời về đối thủ cạnh tranh đó. Việc thường xuyên có những phân tích đối thủ cạnh tranh sẽ giúp ngân hàng biết được sản phẩm, chính sách ưu đãi để thu hút khách hàng của họ, học hỏi được kinh nghiệm cũng như cách thức tiến hành công việc của họ, từ đó đề ra những biện pháp phát triển, có kế hoạch hoạt động kinh doanh phù hợp và kịp thời. 3.2.5 Tăng cường hoạt động Marketing Như đã biết, một đặc trưng quan trọng của hoạt động của ngân hàng là quan hệ lâu dài với khách hàng. Mặt khác, các sản phẩm dịch vụ của hoạt động ngân hàng mang tính dịch vụ, phi vật chất, chất lượng của các sản phẩm phụ thuộc lớn vào thái độ của khách hàng đối với sản phẩm đó. Do vậy, quan hệ tốt với khách hàng, với đối tác là cơ sở của hoạt động ngân hàng. Để xây dựng quan hệ tốt với khách hàng, đối tác hiện nay NHCT HK đã có nhiều nỗ lực, hoạt động thiết thực nhưng chưa có đồng bộ, chưa mang tính hệ thống và chưa có chiến lược lâu dài. Vì vậy, NHCT HK có thể tập trung vào một số hướng sau đây: + Đưa phong cách phục vụ khách hàng lịch sự, trung thực, tận tình, chu đáo trở thành một nét văn hoá đặc trưng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại, cũng như trong hoạt động kinh doanh chung của NHCT HK. Để thực hiện điều này, ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp có hiệu quả, cụ thể là từng bước tiến tới đồng phục cho toàn bộ cán bộ, nhân viên ngân hàng; tổ chức các lớp tập huấn về giao tiếp khách hàng, giải quyết một cách lịch sự các tình huống khó xảy ra trong hoạt động ngân hàng; thường xuyên đẩy mạnh hoạt động thi đua lập thành tích trong quan hệ giao tiếp khách hàng. Có khuyến khích vật chất cho các cán bộ, công nhân viên lập thành tích tốt trong quan hệ giao tiếp khách hàng như trả lại tiền thừa cho khách, thu hút khách hàng mới, mở rộng quan hệ đối tác. + Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo. Để xây dựng hình ảnh tốt trong mắt khách hàng và đối tác, đặc biệt là các khách hàng và đối tác nước ngoài là những người có ngôn ngữ, phong tục tập quán khác so với mình, ngân hàng cần phải đẩy mạnh hoạt động thông tin quảng cáo. Ngân hàng có thể tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá với toàn ngành, các hoạt động văn hoá, thể thao tổ chức trên địa bàn quận... Đây là hoạt động dễ thực hiện, có thể sử dụng khả năng hiện có như đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngân hàng, sự ủng hộ của công chúng nên giải pháp này rất thiết thực. + Đẩy mạnh các biện pháp cạnh tranh về giá và các tiện ích kèm theo. Cạnh tranh về giá là biện pháp cạnh tranh hiệu quả và thiết thực nhất đang được áp dụng rộng rãi trong hoạt động kinh doanh nói chung, trong hoạt động ngân hàng nói riêng. Để thực hiện giải pháp này, trên cơ sở khung giá dịch vụ do NHCT HK đưa ra, ngân hàng tiết kiệm tối đa các chi phí thực hiện dịch vụ nhằm giảm tối thiểu đến mức có thể giá dịch vụ. Bên cạnh giá dịch vụ thì các tiện ích kèm theo cũng có tác động rất lớn trong việc thu hút khách hàng như: ngân hàng nên tổ chức các cuộc tập huấn chung cho khách hàng trong việc thực hiện các thủ tục TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ; in sao các văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành hoạt động TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ; tư vấn cho khách hàng trong hoạt động ký kết hợp đồng thương mại quốc tế, nhằm tạo quan hệ tốt với khách hàng, hạn chế những rủi ro đối với khách hàng và gián tiếp là những rủi ro của ngân hàng. 3.2.6 Mở rộng hệ thống ngân hàng đại lý Ngân hàng đại lý là các ngân hàng thực hiện chức năng thông báo, thanh toán, thực hiện các chỉ thị của ngân hàng mở L/C ở nước ngoài, các ngân hàng này là mắt xích quan trọng trong chu trình TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ. Ngân hàng đại lý cũng có thể là ngân hàng mở L/C trong quan hệ thanh toán giữa bên mua và bên bán, khi đó qua quen biết các ngân hàng nước ngoài cũng có thể lựa chọn ngân hàng mình làm ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng thanh toán cho họ, qua đó mở rộng được hoạt động đồng thời mở rộng quan hệ với các khách hàng và đối tác nước ngoài. Để làm được điều này, ngân hàng có thể thông qua mạng lưới ngân hàng đại lý của NHTMCP CTVN, hoặc thông qua trực tiếp các ngân hàng đại lý từng quen biết... Do vậy trong thời gian tới NHCT HK cần tiếp tục củng cố mạng lưới ngân hàng đại lý hiện có, tích cực và chủ động mở rộng thêm mạng lưới ngân hàng đại lý sang thị trường mới mà các doanh nghiệp của Việt Nam bắt đầu có quan hệ làm ăn buôn bán, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán kịp thời của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống đại lý cần phải mở rộng ra cả các công ty tài chính, các công ty bao thanh toán. Bộ phận ngân hàng đại lý cần phải cập nhật thông tin của các tổ chức tài chính trên thế giới, căn cứ vào uy tín nội địa của họ, thị trường hoạt động để đánh giá, cho điểm và thiết lập hạn mức giao dịch với các tổ chức tài chính đó. Đây sẽ là nguồn thông tin quan trọng giúp bộ phận thanh toán hạn chế và lường trước các rủi ro sẽ có thể xảy ra khi tiến hành giao dịch với các tổ chức tài chính này. Thông qua hệ thống các ngân hàng đại lý để giới thiệu về hoạt động và vị trí của NHCT HK đến khách hàng ở các nước. Qua đó, chi nhánh Hoàn Kiếm có thể mở rộng hoạt động thanh toán ra nước ngoài. 3.2.7 Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn khách hàng đối với hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ Một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế, tồn tại trong việc phát triển hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ là sự hiểu biết của các doanh nghiệp về phương thức này: kinh nghiệm về kinh doanh ngoại thương, sự am hiểu về thông lệ và tập quán quốc tế trong kinh doanh quốc tế và TTQT của các đơn vị này còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn khách hàng và việc tư vấn này phải thể hiện bằng văn bản vì làm như vậy sẽ đảm bảo tính pháp lý trong giao dịch giữa các thanh toán viên của ngân hàng với khách hàng, tăng cường độ tin cậy của khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn. Đối với đơn vị nhập khẩu: Người nhập khẩu thường gây ra rủi ro cho ngân hàng phát hành khi họ mất khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm cam kết của mình. Để có thể đem lại lợi ích chính đáng cho nhà xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi của ngân hàng, các cán bộ cần tư vấn cho những vấn đề sau: + Tư vấn cho đơn vị nhập khẩu nên mở loại L/C nào: Đối với những khách hàng là đơn vị nhập khẩu mày móc thiết bị giá trị lớn mà phía đối tác nước ngoài yêu cầu tiền đặt cọc, thanh toán viên có thể tư vấn cho họ sử dụng L/C dự phòng, vì đây là hình thức mà người nhập khẩu được đảm bảo sẽ nhận được sản phẩm cung ứng từ nhà xuất khẩu, đồng thời người nhập khẩu còn được bồi hoàn toàn bộ số tiền đặt cọc cũng như chi phí liên quan nếu người xuất khẩu không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo yêu cầu. Đối với đơn vị nhập khẩu hàng hoá với khối lượng lớn, giao hàng nhiều lần, nên khuyên họ sử dụng L/C tuần hoàn, đây là phương thức giúp cho khách hàng tránh được tình trạng ứ đọng vốn và giảm được chi phí cũng như các thủ tục có liên quan. Đối với khách hàng nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về gia công, sau đó xuất hàng sang nước cung cấp nguyên liệu, thanh toán viên có thể tư vấn sử dụng loại L/C đối ứng, hình thức đảm bảo nhất cho các đơn vị gia công. Loại L/C này đảm bảo đồng thời thanh toán cho người xuất khẩu giá trị nguyên liệu nhập cũng như sản phẩm hàng hoá được sản xuất từ chính nguyên liệu đó. Trong trường hợp này việc sử dụng L/C đối ứng đem lại ưu việt hơn hẳn sử dụng L/C không huỷ ngang bởi lẽ sau khi nhập và thanh toán giá trị nguyên liệu, các sản phẩm sản xuất ra không được phía đối tác đồng ý nhập lại và người gia công sẽ gặp phải rủi ro lớn do hàng hoá mang tính đặc thù khó có thể bán được. + Công việc tư vấn cho đơn vị trong việc đưa ra các điều khoản vào L/C, không nên đưa ra quá nhiều điều khoản vào vì dễ dẫn đến sai sót. Trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, khi sửa đổi L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình. Đối với các đơn vị xuất khẩu: Các đơn vị xuất khẩu hay gây rủi ro cho ngân hàng thông báo, ngân hàng chiết khấu khi họ lập bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh rủi ro đó, ngân hàng có thể tư vấn cho những vấn đề như sau: + Tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu người mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất. Hiện nay, loại L/C không huỷ ngang, có xác nhận và miễn truy đòi là có lợi nhất cho bên bán. Tuy nhiên không nhất thiết trường hợp nào cũng phải mở L/C có xác nhận vì phí xác nhận cao và bên nhập khẩu phải kí quĩ tại ngân hàng mở, nếu có khó khăn đối với người nhập khẩu, họ có thể không thực hiện hợp đồng thương mại. + Cán bộ ngân hàng cần giúp cho đơn vị xuất khẩu tìm hiểu kĩ các điều khoản và điều kiện trong L/C, tránh những sai sót về chứng từ để có thể làm cho ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán. Các thanh toán viên nên tư vấn cho đơn vị cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. L/C cho phép đòi tiền bằng điện là cách thức có lợi hơn cả vì tiền được thu nhanh hơn, tạo điều kiện tăng vòng quay của vốn nhanh. + Nên tư vấn cho đơn vị trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng thanh toán. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuân lợi hơn. Tư vấn cho đơn vị các điều kiện bất lợi của L/C như thời hạn giao hàng muộn nhất, thời hạn hiệu lực của L/C... + Các cán bộ làm công tác TTQT cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót, xem xét kỹ những lí do từ chối mà ngân hàng mở L/C đưa ra có hợp lí không. Tư vấn cho doanh nghiệp trong trường hợp giải quyết hàng hoá khi bị từ chối, hàng hoá đã bị chuyển ra nước ngoài, vì vậy doanh nghiệp phải có các biện pháp khẩn cấp để hạn chế tối đa thiệt hại. Trong trường hợp đó, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp liên hệ với ngân hàng đại lý nước ngoài nhờ họ giữ hộ hàng hoá hoặc tìm cách tiêu thụ hàng hóa hộ. Ngoài ra, ngân hàng còn nên tư vấn cho doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp giữa họ với bên mua nước ngoài. 3.2.8 Nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra kiểm toán nội bộ để phòng ngừa rủi ro Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế về lĩnh vực ngân hàng hiện nay, hoạt động TTQT ngày càng đa dạng và phức tạp hơn, rủi ro ngày càng nhiều hơn. Yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra, kiểm soát nội bộ để phòng ngừa rủi ro. Thực tế hiện nay cho thấy bộ phận kiểm tra, kiểm soát về hoạt động TTQT của NHCT HK còn yếu, phần lớn cán bộ kiển tra không có nghiệp vụ TTQT. Vì vậy, công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động này trong thời gian qua chưa thực sự mang lại hiệu quả. Trong thời gian tới NHCT HK cần có kế hoạch đào tạo toàn diện các mặt nghiệp vụ và đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ TTQT cho các cán bộ kiểm tra, kiểm soát để công tác này thực sự phát huy tác dụng. Cán bộ trước khi được sắp xếp vào công tác kiểm tra phải có thời gian được phân công làm công tác TTQT, cọ sát và nắm bắt thực tế. Chỉ khi được trang bị một lượng kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực TTQT thì bộ phận kiểm tra, kiểm soát mới mạnh dạn xây dựng chương trình kiểm toán cho hoạt động này. Khi đó mức độ sai sót sẽ giảm đi và hiệu quả của hoạt động TTQT sẽ được nâng lên. Cần xây dựng kế hoạch và quy trình kiểm tra hoạt động TTQT một cách thường xuyên như kiểm tra việc chấp hành các quy chế, quy trình TTQT; phát hiện các sai sót trong xử lý quy trình nghiệp vụ nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ phải ngày một nâng dần về chất, phát triển về lực nhằm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao, thật sự trở thành công cụ quản lý có hiệu quả của Ban lãnh đạo NHCT HK. 3.2.9 Tập trung nghiên cứu, phân tích các yếu tố biến động của môi trường kinh doanh để có các chiến lược và biện pháp cụ thể thích nghi với môi trường thị trường Hoạt động ngân hàng là một hoạt động chịu tác động lớn bởi sự biến động của môi trường thị trường, và những tác động này mang tính chất lan truyền nhanh với tốc độ chóng mặt. Chẳng hạn, một sự sụp đổ của một hãng kinh doanh lớn là khách hàng lớn của ngân hàng, sẽ kéo theo sự khó khăn trong hoạt động kinh doanh không chỉ của ngân hàng mà còn của các khách hàng khác của ngân hàng khác. Từ đó gây ra dây chuyền sụp đổ nhanh chóng của hệ thống ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần thiết phải nghiên cứu môi trường thị trường để có thể có các quyết định đúng đắn, kịp thời. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước, Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng Nhà nước đóng vai trò quản lý vĩ mô trong nền kinh tế, các chính sách kinh tế của Nhà nước tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Từ khi UCP 600 có hiệu lực tại Việt Nam, tất cả các NHTM nước ta đều áp dụng vào giao dịch TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nhằm hoà nhập vào mạng lưới TTQT. Thực tế cho thấy tất cả các nước có hoạt động TTQT đã áp dụng UCP 600, họ đều có những văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện UCP 600. Vì vậy đề nghị trong thời gian tới Nhà nước sớm xây dựng những văn bản pháp luật hướng dẫn để các ngân hàng có thể ổn định, phát triển, và nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời còn là cơ sở giải quyết những tranh chấp thương mại xảy ra. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu Để đẩy mạnh xuất khẩu, hoàn thiện nhập khẩu trong điều kiện mở cửa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho việc phát triển hoạt động TTQT nói chung và TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động XNK theo hướng: + Hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp XNK theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế để quản lý tốt và khuyến khích hoạt động XNK. + Chính phủ cần tiếp tục phát huy tính chủ động tích cực trong định hướng, giám sát và hỗ trợ cho các doanh nghiệp XNK. Thường xuyên tổ chức các cuộc trao đổi trực tiếp giữa Chính phủ, các Bộ và các doanh nghiệp nhằm kịp thời giải quyết khó khăn vướng mắc trong hoạt động XNK. Nhà nước sớm xây dựng chiến lược, kế hoạch và các phương án kinh doanh với nội dung cụ thể theo từng thời gian, từng bước. Nhà nước cần có thông tin kịp thời, chính xác về thị trường thế giới, bởi thiếu thông tin thị trường thế giới, các doanh nghiệp sẽ không dự đoán chính xác xu hướng thị trường, kinh doanh có thể thua lỗ. + Điều chỉnh cơ chế quản lý XNK thông qua việc áp dụng đa dạng các công cụ và biện pháp trong ngoại thương theo hướng ngày càng nới lỏng, mềm dẻo và tạo điều kiện thúc đầy kinh doanh XNK phát triển. Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Thương mại thực hiện có hiệu quả sâu hơn chính sách thương mại phát triển theo hướng khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu nhằm cải thiện cán cân TTQT. Song hành với việc đa dạng hoá thị trường, sản phẩm và đối tác, cần phải đa dạng hoá các công cụ điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế. Muốn thúc đẩy xuất khẩu thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu cũng phải được coi trọng như: ưu tiên lãi suất theo cơ chế tỷ giá, trợ cấp trực tiếp, miễn thuế các chi phí đầu vào, giá cả các dịch vụ công cộng, cước phí vận tải, bảo hiểm, giá điện nước, giá xăng dầu... + Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, XNK hàng hoá và dịch vụ. Khai thác triệt để có hiệu quả những tiềm năng sẵn có về tài nguyên, sức lao động, phấn đấu giảm giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, công nghệ cao. Mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, duy trì mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội phát triển và xâm nhập các thị trường có tiềm năng như Trung quốc, Nhật bản, Mỹ, Hàn Quốc... Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện các cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, WTO. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài. 3.3.2 Kiến nghị với Ngâng hàng Công Thương Việt Nam Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ Việc hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cần theo hướng làm sao cho quy trình, thủ tục thực hiện quá trình thanh toán được đơn giản hơn, nhanh gọn, chính xác và vẫn thu hút được nhiều khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác thanh toán, tăng khả năng cạnh tranh của các chi nhánh; đơn giản hóa các khâu nghiệp vụ, giảm tối đa các yêu cầu chứng từ đối với khách hàng, bởi càng nhiều giấy tờ thì việc kiểm tra càng mất thời gian. Đồng thời giảm được chi phí cho doanh nghiệp, đảm bảo cạnh tranh được với NHTM khác. Đổi mới công nghệ ngân hàng Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống NHTMCP CTVN là một đòi hỏi bức thiết. Công nghệ thanh toán là yếu tố quan trọng đẩy nhanh tốc độ thanh toán, nâng cao chất lượng thanh toán, giảm chi phí và góp phần vào việc xây dựng một hệ thống tiên tiến, hội nhập với cộng đồng ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, phát triển TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và TTQT nói chung không thể không gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ ngân hàng. Do vậy, trong thời gian tới kiến nghị lên NHTMCP CT VN một số vấn đề sau: + Xây dựng các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng cho các ứng dụng và các dịch vụ ngân hàng, trong đó có TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ như phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu. + Xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lý thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách nhanh chóng, chính xác. + Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản trị điều hành: quản lý tài chính, quản lý rủi ro, quản lý quan hệ khách hàng, quản lý toàn bộ hệ thống tài chính cũng như nguồn nhân lực của ngân hàng liên quan đến công tác TTQT. + Chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác TTQT. Các chương trình này phải tạo ra các mẫu điện phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước và các ngân hàng đại lý trên thế giới. + Từng bước triển khai dự án xây dựng ngân hàng điện tử, nối mạng giao dịch với các khách hàng, trước mắt là với các khách hàng lớn. Tăng cường quan hệ đại lý quốc tế Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài kể cả số lượng lẫn chất lượng cũng là một đòi hỏi rất quan trọng. Việc xây dựng mối quan hệ với nhiều ngân hàng sẽ giúp NHTMCP CTVN tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, do đó đẩy nhanh tốc độ giao dịch. Xây dựng quan hệ đại lý với phương châm uy tín, hiệu quả đảm bảo hai bên cùng có lợi. Vì vậy trong thời gian tới NHTMCP CTVN cần chú trọng mở rộng và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng, đặc biệt ở những thị trường XNK quan trọng của Việt Nam như: Nhật bản, Mĩ... Có chính sách khen thưởng kịp thời NHTMCP CTVN cần điều chỉnh các chính sách tiền lương, khen thưởng, trợ cấp hợp lý nhằm khuyến khích động viên những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác nhằm khích lệ những cán bộ cống hiến vì sự nghiệp phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó là việc xử phạt nghiêm minh đối với trường hợp vi phạm đến qui định của ngân hàng, để có sự tiến bộ của cán bộ công nhân viên trong thời gian tới. KẾT LUẬN Trước xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá như hiện nay, nền kinh tế thế giới đang đặt ra những thách thức và những vận hội mới cho các quốc gia trên con đường từng bước đi lên của mình. Việt Nam cũng trong hoàn cảnh này, vì vậy quan hệ đối ngoại đang là vấn đề đặt lên hàng đầu trong chính sách của nước ta. Các doanh nghiệp từ đây càng có nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó các ngân hàng có điều kiện thực hiện các dịch vụ của mình rộng rãi hơn, do đó thu nhập sẽ tăng lên làm cho nền kinh tế đất nước phát triển đi lên. Trong bối cảnh đó, hoạt động thanh toán quốc tế đã trở thành một trong những mảng hoạt động dịch vụ lớn, mang lại nhiều lợi ích cho các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, đây cũng là một loại hình dịch vụ bị cạnh tranh rất lớn, đặc biệt khi Việt nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Việc tìm kiếm giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế của NHCT HK đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Với chuyên đề "Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT Hoàn Kiếm" em đã tập trung phân tích thực trạng tình hình hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng với mục đích đưa ra những giải pháp nhằm phát triển hoạt động này. Việc mở rộng thanh toán quốc tế của NHCT HK có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự nghiệp phát triển NHCT HK nói riêng mà với cả hệ thống NHCT VN nói chung và sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương của Việt Nam ngày càng phát triển, đưa đất nước ngày càng hội nhập sâu với khu vực và thế giới. Em mong rằng, với tầm hiểu biết ít ỏi của mình cũng đóng góp một phần nào đó cho quá trình mở rộng và phát triển của ngân hàng và quá trình đi lên của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S.Rose – NXB Tài chính Kế toán ngân hàng – NXB thống kê 2005 Ngân hàng thương mại – Reed Edwardk – TP HCM Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic.S.Mishkin Nghiệp vụ thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo – Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân Giáo trình Thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – Học Viện Ngân Hàng Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Đinh Xuân Trình – Trường Đại học Ngoại Thương Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung Ương – Lê Vinh Danh – NXB Chính trị Quốc Gia Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán quốc tế của NHCT HK Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT HK. Các tạp chí Ngân hàng, thời báo Ngân hàng, tạp chí thị trường tài chính tiền tệ, tạp chí Con số và sự kiện các năm 2007, 2008, 2009. websize NHCT VN: www.vietinbank.vn DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NGUYÊN VĂN TTQT Thanh toán quốc tế NHCT VN Ngân hàng Công Thương Việt Nam NHCT HK Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm NHTM Ngân hàng thương mại NHNN Ngân hàng Nhà nước XNK Xuất nhập khẩu VietinBank Ngân hàng Công Thương Việt Nam VietcomBank Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam BIDV Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Môc lôc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25571.doc
Tài liệu liên quan