Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh

Chất lượng tín dụng là thuật ngữ chỉ hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại, được cấu thành bởi hai yếu tố: “Mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại”. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại là: tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ tiềm ẩn trên tổng dư nợ, tỷ lệ thu nợ bằng xử lý tài sản đảm bảo, tỷ lệ mất vốn, tốc độ tăng trưởng dư nợ, vòng quay vốn tín dụng, tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng trên tổng thu nhập, mức sinh lời vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó những nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng có những ảnh hưởng quyết định. Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh là một Chi nhánh có mới được thành lập trong hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Hoạt động cho vay luôn đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn không nhỏ cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Qua quá trình tìm hiểu và phân tích, hoạt động của chi nhánh đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy mới thành lập được gần 5 năm nhưng đến nay dư nợ đã gần ngang bằng với các ngân hàng thương mại lâu năm trên địa bàn tỉnh. Cùng với đó, chất lượng tín dụng không ngừng được cải thiện nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh những thành tựu đạt được, những khó khăn mà chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh đã và đang phải trải qua là không nhỏ. Thông qua việc đánh giá chất lượng tín dụng của chi nhánh trong thời gian vừa qua, có thể khẳng định để cho vay trở thành hoạt động mang lại nguồn thu bền vững cho chi nhánh và đáp ứng được các nhu cầu cho nền kinh tế. Chi nhánh cần thực hiện nhiều biện pháp trong thời gian tới để cải thiện chất lượng tín dụng và mở rộng quy mô của mình.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g gia vị Sơn Hà, công ty TNHH Nghiệp Quảng, công ty TNHH Tân Hồng Ngọc, công ty TNHH Samwon… + Hoạt động thẻ: Chi nhánh không ngừng tuyên truyền quảng cáo nhằm phổ biến loại hình dịch vụ rút tiền tự động tại những nơi đông dân cư, các khu công nghiệp nhằm thu hút nguồn tiền lương ổn định của cán bộ viên chức tại các khu công nghiệp, chỉ rõ sự an toàn và thuận tiện khi sử dụng thẻ ATM. Đến nay chi nhánh đã phát hành được hơn 11000 thẻ ATM, MTV, SG…bằng 142.37% so với năm 2006 ( năm 2006 phát hành 7.726 thẻ). + Kinh doanh ngoại tệ: Kinh doanh ngoại tệ là hoạt động đặc thù của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh nói riêng. Năm 2007 là năm có nhiều về biến động tỷ giá ngoại tệ quy đổi nên việc kinh doanh ngoại tệ gặp nhiều khó khăn, do vậy lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh trong năm 2007 đạt 503 triệu đồng. Các quy định về quản lý và kinh doanh ngoại tệ được thực hiện nghiêm túc, tỷ giá mua bán hàng ngày được chi nhánh niêm yết công khai, chấp hành nghiêm túc trạng thái ngoại hối được giao. + Hoạt động ngân quỹ: Hoạt động thu chi tiền mặt kịp thời nhanh chóng, chính xác với khối lượng lớn (tổng thu tiền mặt 1.520.647 triệu đồng và 2.709.816 USD, tổng chi tiền mặt là 1.524.408 triệu đồng và 2.711.868 USD) cho khách hàng, tổ chức điều chuyển an toàn trên 1.200 chuyến hàng đặc biệt, tổ chức tốt công tác kiểm kê cuối ngày đúng thành phần, thu giữ được 2.720.000 đồng tiền giả, đảm bảo an toàn tuyệt đối các loại tài sản được bảo quản trong kho quỹ, không để xảy ra mất mát, thiếu… + Bảo lãnh: Hoạt động bảo lãnh của chi nhánh chủ yếu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh thanh toán, giá trị đến cuối năm 2007 đạt 4.586 triệu đồng và 398.000 USD. * Kết quả kinh doanh Đơn vị: tỷ đồng STT Chỉ tiêu Số tiền I Tổng thu 59,523 1 Thu lãi vay 49,097 2 Thu lãi tiền gửi 7,335 3 Thu lãi ngoài 3,091 II Tổng chi 42,932 1 Chi trả lãi tiền gửi 8,283 2 Chi trả lãi tiền vay 20,416 3 Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá 0,494 4 Chi ngoài lãi 13,739 III Thu nhập trước thuế 16,591 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh năm 2007 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh. 2.2.1 Tình hình hoạt động cho vay của chi nhánh. Ngay từ khi thành lập chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh đã chú trọng đến việc mở rộng cho vay trên cơ sở đảm bảo chất lượng tín dụng, chủ động tìm kiếm các dự án, tìm kiếm khách hàng, và mở rộng thị phần cho vay, đẩy mạnh tiếp cận các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh để thu hút khách hàng, bố trí cán bộ có năng lực trình độ, kinh nghiệm tốt phụ trách cho vay những khách hàng lớn và những địa bàn có nhu cầu vay lớn. Bảng dư nợ cho vay Đơn vị: tỷ đồng Năm 2006 2007 Chỉ tiêu Thực hiện So với năm trước (%) So với kế hoạch (%) Thực hiện So với năm trước (%) So với kế hoạch (%) Tồng dư nợ 498 34,2 109 728 46.18 117 Phân theo thời hạn - Dư nợ ngắn hạn 197 14,0 102,5 239 21,3 102,8 - Dư nợ trung và dài hạn 301 21,2 130 489 65,4 116 Phân theo ngoại tệ - Dư nợ VNĐ 187 15,3 238 27,3 - Dư nợ ngoại tệ quy VNĐ 311 26,2 490 57,6 Phân theo đối tượng khách hàng - Khách hàng cá nhân 35 15,5 28 - 20 - Khách hàng doanh nghiệp 463 21,3 700 51,2 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh năm 2006,2007. * Về dư nợ cho vay Dư nợ cho vay của chi nhánh tăng đều qua các năm với tốc độ tăng trung bình trong hai năm trở lại đây là 40%. Trong đó: - Năm 2006: dư nợ cho vay đến thời điểm 31/12/2006 đạt 498 tỷ đồng, tăng so với năm 2005 là 127 tỷ đồng (34,2%), đạt 109% kế hoạch Trung ương giao. Trong đó cơ cấu nợ theo kỳ hạn: + Dư nợ cho vay ngắn hạn 197 tỷ đồng, chiếm 39.56% tổng dư nợ cho vay và tăng 14% so với năm 2005. + Dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 301 tỷ đồng, chiếm 60,44% tổng dư nợ cho vay và tăng 21,2% so với năm 2005 - Năm 2007: Dư nợ cho vay đến thời điểm ngày 31/12/2007 là 728 tỷ đồng, tăng so với năm 2006 là 230 tỷ đồng, đạt 117% kế hoạch Trung ương giao + Dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 239 tỷ đồng, chiếm 32.8% tổng dư nợ và tăng 21,3% so với năm 2006 + Dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 489 tỷ đồng, chiếm 67.2% tổng dư nợ và tăng 65,4% so với năm 2006. Nhìn vào kết quả trên có thể cho thấy, về qui mô và cơ cấu cho vay theo kỳ hạn của Chi nhánh đang diễn biến theo chiều hướng tích cực. Dư nợ tăng dần qua các năm, năm sau tăng nhanh hơn năm trước, đặc biệt vào thời điểm cuối năm 2007 dư nợ cho vay tăng rất mạnh; cơ cấu dư nợ diễn biến theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn và tăng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, tuy nhiên tốc độ thay đổi vẫn chưa nhanh. - Đặc biệt, cho vay đối với các doanh nghiệp của Chi nhánh luôn chiếm tỷ trọng rất cao (năm 2007 chiếm 96,1% tổng dư nợ). Đây cũng là một đặc điểm đặc trưng của Ngân hàng Ngoại thương. * Chất lượng các khoản vay Năm vừa qua là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng. Với chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh, hoạt động cho vay của chi nhánh diễn ra khá thuận lợi. Chất lượng các khoản vay tương đối tốt. Cụ thể: - Đối tượng cho vay của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, hoạt động sản xuất của họ mang tính truyền thống của các làng nghề. Đây là một trong những đối tượng được UBND tỉnh rất quan tâm, tạo điều kiện nên những doanh nghiệp này làm ăn rất có hiệu quả. Trong năm 2007, chi nhánh đã cho vay mới được 17 doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp Tiên Sơn, cụm công nghiệp Phong Khê, làng nghề Đồng Kỵ, thị trấn Từ Sơn, Thành phố Bắc Giang…Các doanh nghiệp được vay vốn làm ăn khá hiệu quả nên việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng thực hiện khá tốt. Tuy nhiên năm vừa qua có rất nhiều những biến động về giá cả nguyên vật liệu… khiến cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xây dựng cơ bản (giá thành xây dựng nhà xưởng tăng quá cao so với dự kiến, nguyên vật liệu đắt đỏ, chi phí sản xuất: xăng dầu, điện… tăng cao) làm cho dự án đi vào sản xuất chậm hơn so với dự kiến, do đó việc hoàn thành nghĩa vụ với ngân hàng bị chậm trễ. Đứng trước tình hình trên, Chi nhánh đã chủ động tiến hành định kì đánh giá lại khách hàng, tăng cường theo dõi, giám sát các khoản cho vay, đồng thời đưa ra các giải pháp xử lý như: - Thay đổi hình thức cho vay như chuyển từ cho vay theo hạn mức, luân chuyển sang cho vay từng lần hoặc chỉ giới hạn một mức dư nợ nhất định với các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tình hình kinh doanh có rủi ro cao. - Đánh giá lại các khoản cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản để đưa ra các giải pháp phù hợp. - Gia hạn thời gian trả nợ cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn thực sự. Do theo sát diễn biến các khoản cho vay và đưa ra các giải pháp kịp thời nên trong giai đoạn này tỉ lệ nợ xấu của Chi nhánh năm qua chỉ còn 1,88%. * Xử lý nợ tồn đọng. Năm 2006, nợ đọng của chi nhánh là 10,01 tỷ đồng (chiếm 2,01% tổng dư nợ năm 2006). Do đó những món nợ này còn kéo sang năm 2007 làm cho hoạt động kinh doanh của năm 2007 cũng bị ảnh hưởng theo. Do đó, chi nhánh đã tích cực đôn đốc, tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp để họ có thể trả nợ cho ngân hàng. Với những khoản nợ mà khách hàng hoàn toàn mất khả năng trả nợ, Chi nhánh đã tích cực gửi công văn tới phòng thi hành án đề nghị thi hành án để thu hồi nợ, còn đối với các khoản nợ tồn đọng khác chi nhánh luôn bám sát khả năng trả nợ của khách hàng để thu hồi vốn. Trong năm 2007, chi nhánh đã thu hồi được 6,3 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là nợ xấu của năm 2006. 2.2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Về quy mô cho vay: Trong năm 2007, tổng dư nợ của chi nhánh đạt 728 tỷ đồng. Trong đó, tổng dư nợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 610 tỷ đồng, chiếm 83,8% tổng dư nợ. Tuy nhiên, chi nhánh mới chỉ chiếm khoảng 7% tổng dư nợ trên địa bàn tỉnh, như vậy là chưa xứng tầm với một ngân hàng có vị thế như ngân hàng Ngoại thương. Mặt khác, chi nhánh mới chỉ cho vay được trên 60 doanh nghiệp trong tổng số 2243 doanh nghiệp trong địa bàn tỉnh. Chi nhánh sử dụng hầu hết nguồn vốn của mình vào hoạt động cho vay (chiếm 81.25% tổng nguồn vốn). Tình hình huy động vốn: Năm 2007 chi nhánh đã huy động được trên địa bàn 297 tỷ đồng, tuy rằng tăng nhiều hơn năm 2006 là 90 tỷ đồng nhưng nguồn vốn tự huy động chỉ chiếm 33.14% tổng nguồn vốn, từ đó cho thấy chi nhánh chưa chủ động được nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, thị phần huy động vốn của chi nhánh trên địa bàn tỉnh mới chỉ chiếm 3.5%, đây là con số rất khiêm tốn so với vị thế của ngân hàng Ngoại thương. Kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động đặc thù của ngân hàng Ngoại thương nói chung và chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh nói riêng, tuy nhiên lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ năm qua mới chỉ đạt 530 triệu đồng. Từ số liệu trên cho ta thấy hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của chi nhánh chưa thực sự chủ động và độc lập, vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng Ngoại thương Trung ương. Khả năng huy động vốn của chi nhánh chưa cao, nguồn vốn hoạt động vẫn chủ yếu do ngân hàng Ngoại thương Trung ương cấp. * Độ an toàn của vốn vay - Nhóm chỉ tiêu phản ánh độ an toàn + Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Năm 2006 2007 Tỉ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản 100% 100% Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh năm 2006, 2007. - Tỷ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Tỷ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản của chi nhánh đạt 100%. Tài sản đảm bảo là một trong những lá chắn an toàn của ngân hàng để đối phó với khả năng mất vốn. Tỷ lệ này là rất cao tuy nhiên nợ xấu của chi nhánh trong năm 2007 vẫn còn lớn là do một số thủ tục pháp lý nên chi nhánh chưa thanh lý được một số tài sản thế chấp Tuy lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản mức cao nhưng chi nhánh cần chọn lựa những tài sản trong sạch, có tính thanh khoản cao để làm tài sản đảm bảo cho mình. Thực tế cho thấy dù có tài sản đảm bảo cao nhưng nợ xấu của chi nhánh năm 2006 vẫn ở mức lớn. Ngân hàng sẽ không có nguồn tài sản bù đắp dẫn đến nguy cơ mất vốn và giảm hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng + Tỉ lệ nợ xấu Bảng dư nợ xấu của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh Đơn vị: tỷ đồng Phân loại 2006 2007 Nhóm 3 0,998 0,921 Nhóm 4 4,202 4.896 Nhóm 5 3,810 4,883 Tổng dư nợ xấu 10,01 13.7 Trong năm 2007, tình hình nợ xấu của chi nhánh đã giảm so với năm 2006 nhưng vẫn chiếm 1.88% tổng dư nợ của chi nhánh. Đặc biệt nợ xấu năm 2007 chủ yếu tập trung vào nhóm 4 và nhóm 5 là những nhóm có nguy cơ mất vốn rất cao. + Tỉ lệ nợ gia hạn: Tỉ lệ nợ gia hạn năm 2006 là 5,02% và năm 2007 là 4,53%, tuy tỉ lệ này diễn biến theo chiều hướng giảm nhưng so với tỷ lệ nợ quá hạn đã qua xử lý thanh lý tài sản còn khá cao. Tỷ lệ nợ quá hạn sau khi xử lý thanh lý năm 2006 là 1,3% và năm 2007 là 1,6%. Tỉ lệ nợ gia hạn cho thấy rủi ro tín dụng của chi nhánh khá cao, cho thấy các khoản cho vay của ngân hàng chất lượng chưa đảm bảo, tiềm ẩn nhiều rủi ro dẫn đến ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Nợ quá hạn của chi nhánh tính đến 31/12/2007 là 13,7 tỷ đồng, chiếm 1.88% tổng dư nợ của chi nhánh. Tỷ lệ này đã giảm so với năm 2006 (nợ quá hạn năm 2006 là 2.1%) do trong năm 2007 chi nhánh đã tích cực chỉ đạo các cán bộ tập trung thu hồi những món nợ xấu kể cả việc đem thanh lý những tài sản thế chấp. Do đó, đã chấm dứt được 90% nợ xấu của năm 2006, góp phần làm trong sạch, lành mạnh bảng cân đối của ngân hàng. * Cấu trúc danh mục cho vay: Trong năm vừa qua, danh mục cho vay của chi nhánh đã đa dạng hơn rất nhiều so với các năm trước. Cụ thể, chi nhánh đã cho vay mới được 17 doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp, các làng nghề truyền thống: sắt Đa Hội, gỗ Đồng Kỵ, giấy Phong Khê… Các doanh nghiệp vay vốn hoạt động sản xuất kinh doanh trong rất nhiều lĩnh vực: sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất đồ mĩ nghệ, may mặc, vật liệu xây dựng, lắp ráp chế tạo máy….do đó, xét một cách tổng thể sẽ góp phần làm giảm rủi với nguồn vốn của ngân hàng. Đặc biệt, trong năm vừa qua, chi nhánh đã mở rộng đầu tư về địa bàn Bắc Giang, nơi có khu công nghiệp Đình Trám, Đồng Vàng rất phát triển do địa bàn Bắc Giang chưa có chi nhánh của ngân hàng Ngoại thương. - Kỳ hạn của danh mục cho vay: Kỳ hạn cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của chi nhánh rất đa dạng từ ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn. Tuy nhiên chủ yếu vẫn là trung và dài hạn (chiếm 64,3%). Do đó việc cân đối giữa kỳ hạn của nguồn vốn và kỳ hạn cho vay đôi khi không phù hợp cũng gây khó khăn về thanh khoản cho chi nhánh. * Mức độ sinh lời - Tỉ lệ thu từ lãi cho vay: nguồn thu từ lãi vay chiếm 82.5% trong tổng thu của chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh còn có một số khoản thu khác từ tiền gửi và các hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình. Qua đó cho thấy hoạt động cho vay vẫn là hoạt động chủ đạo của chi nhánh trong năm 2007. - Tỉ lệ thu nhập từ lãi cho vay/dư nợ bình quân. Trong năm 2007, tỉ lệ này của chi nhánh là 2,61%. Tỉ lệ này khá cao, nó cho thấy khả năng kiểm soát chi phí và mức sinh lời của chi nhánh từ hoạt động cho vay của chi nhánh là rất lớn. - Chênh lệch lãi suất bình quân: Trong năm qua, lãi suất cho vay bình quân của chi nhánh là 9.6%/năm, lãi suất huy động bình quân là 7,2%/năm. Chênh lệch lãi suất bình quân là 2,4%. Tuy nhiên, lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân không phải do chi nhánh tự đặt ra mà phụ thuộc rất nhiều theo sự chỉ đạo của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng nhà nước. 2.2.3 Đánh giá khái quát chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh. 2.2.3.1 Thành tựu đạt được: - Về độ an toàn của hoạt động tín dụng, các chỉ tiêu đã phân tích cho thấy độ an toàn tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh những năm vừa qua đã dần được cải thiện, cụ thể là chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và chỉ tiêu tỷ lệ mất vốn khá thấp và có giảm dần qua các năm. Đơn vị thường xuyên chuyển nợ quá hạn kịp thời, hàng quý phân loại tài sản Có để trích lập quỹ dự phòng rủi ro đề bù đắp những khoản nợ khó đòi đã chuyển ra theo dõi ngoại bảng, không còn khả năng thu hồi. Hiện nay, quỹ dự phòng rủi ro của Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh đã có thể bù đắp được tất cả các khoản nợ đó. - Về khả năng sinh lời, trong những năm nghiên cứu, mức sinh lời vốn tín dụng của Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh ở mức khả quan, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của đơn vị và ngày càng tăng thêm cùng với sự tăng trưởng dư nợ. - Hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh ngày càng được mở rộng, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng tín dụng qua các năm, năm sau có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm trước. - Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh đã chú trọng cấp tín dụng đến nhiều thành phần kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cơ cấu cấp tín dụng thay đổi theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần, và tập trung vào các khách hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả, lành mạnh, các dự án đầu tư có triển vọng tốt. Việc mở rộng tín dụng kết hợp với đa dạng hoá các hình thức tín dụng, cùng với việc mở rộng đối tượng cho vay đã tạo điều kiện cho việc tiếp cận giữa vốn tín dụng ngân hàng với doanh nghiệp được thuận lợi hơn. - Công tác thẩm định và tổ chức quản lý tín dụng của Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh ngày càng được hoàn thiện và nâng cao, góp phần giảm thiểu và khống chế rủi ro tín dụng cũng như nâng cao chất lượng tín dụng tại đơn vị. Các dự án được thẩm định trên nhiều phương diện như: tài chính, thị trường, xã hội, kỹ thuật. Các chỉ tiêu tính toán trong thẩm định được mở rộng, ngoài việc xem xét nguồn trả nợ của dự án, được bổ sung các chỉ tiêu phân tích hiện đại như: điểm hoà vốn, giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), các chỉ tiêu đánh giá liên quan tới việc tiêu thụ, cạnh tranh, tuổi đời dự án … Việc thẩm định dự án từ chỗ dựa vào kinh nghiệm là chính trong thời gian trước, đến chỗ áp dụng những phương pháp mang tính khoa học, nhìn nhận vấn đề rộng hơn, kỹ thuật thẩm định dần dần hoàn chỉnh cả về phương pháp và thực hành. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ tín dụng về thu nhập và phân tích thông tin khách hàng về tình hình tài chính, khả năng thanh toán, uy tín, tài sản bảo đảm… đã có những tiến bộ rõ rệt nhờ việc cập nhật kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ thông qua hoạt động đào tạo và đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên, liên tục cho cán bộ tín dụng của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh. - Tổ kiểm tra nội bộ, đây là bộ phận thường xuyên thực hiện nghiệp vụ giám sát đối với mọi hoạt động của chi nhánh, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Căn cứ vào các văn bản, quy chế của Nhà nước, các văn bản pháp lý liên quan, phòng đã thường xuyên cử các đoàn kiểm tra, kiểm tra kiểm soát việc chấp hành quy chế, nội quy, quy trình thẩm định dự án để nâng cao chất lượng tín dụng. Hàng tháng, hàng quý tổ chức kiểm tra nội bộ việc chấp hành các chủ trương, chính sách, chế độ để có biện pháp bổ cứu kịp thời. Nhờ đó, việc chỉ đạo kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động tín dụng của chi nhánh đã từng bước được củng cố và nâng cao, hoạt động tín dụng đã đi vào nề nếp hơn, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao. - Công tác phục vụ khách hàng có nhiều đổi mới thích ứng với kinh tế thị trường, có chính sách khách hàng hợp lý nên số lượng khách hàng đến giao dịch với Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh ngày càng đông, góp phần tăng nguồn vốn huy động, và sử dụng dịch vụ từ những khách hàng đó. Bên cạnh đó, chi nhánh đã có những chính sách khách hàng hợp lý cả trong công tác huy động và cho vay, khuyến khích vật chất đối với khách hàng có uy tín, có giá trị giao dịch lớn và thường xuyên với ngân hàng, tạo được ấn tương tốt và uy tín với khách hàng. Qua đó, ngày càng tăng được số lượng khách hàng, mở rộng được hoạt động huy động vốn và cho vay. - Chi nhánh đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài với nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đây là những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có uy tín với ngân hàng và chi nhánh xác định đây là những bạn hàng lâu dài của mình. 2.2.3.2 Các hạn chế và nguyên nhân của chúng a, Các hạn chế. * Tỉ lệ nợ xấu tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong năm 2007, nợ xấu của Chi nhánh là 13.7 tỷ đồng. Trong đó, trên 70% nợ xấu thuộc về các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy rằng năm qua có rất nhiều biến động lớn gây khó khăn cho doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của mình. Nhưng qua đó cho thấy, các doanh nghiệp chưa có tầm nhìn xa, không có những dự phòng trong trường hợp khẩn cấp cho mình. Mặt khác, cán bộ tín dụng cũng chưa lường hết được những khó khăn trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong tương lai, nên đã chấp nhận cấp vốn cho doanh nghiệp. Kết quả gây lãng phí nguồn vốn của nhà nước. * Quy mô cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 2243 doanh nghiệp được cấp phép và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, có đến 95% số doanh nghiệp thuộc diện vừa và nhỏ (có nguồn vốn dưới 5 tỷ đồng) và các doanh nghiệp này hầu hết thuộc sở hữu tư nhân dưới hình thức các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Thực tế cho thấy số vốn thực của các doanh nghiệp luôn thấp hơn số vốn đăng ký, tình trạng  thiếu minh bạch trong hồ sơ sổ sách, quan hệ tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp, cũng như sự thiếu chuyên nghiệp trong xây dựng dự án. Hệ thống thông tin về khách hàng chưa đầy đủ, vì vậy việc xem xét thực trạng hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, trách nhiệm đối với các khoản tín dụng nhiều khi chưa rõ ràng... khiến cán bộ tín dụng ngập ngừng, chưa dám mạnh dạn cho vay theo yêu cầu doanh nghiệp đề ra. * Thiếu vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh dù các doanh nghiệp đã tiếp cận tốt với ngân hàng. Ngoài hạn chế về năng lực tài chính, còn một hạn chế căn bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là phần lớn các doanh nghiệp chưa biết cách xây dựng dự án, và các báo cáo tài chính, sổ sách kế toán không rõ ràng minh bạch, nên không thể đánh giá đúng năng lực của doanh nghiệp... Xin đơn cử một ví dụ: Công ty TNHH Toàn Phát chuyên sản xuất, đầu tư thương mại các ngành hàng công nghiệp, có dự án đầu tư một dây chuyền sản xuất đá cây cần vay vốn ngân hàng. Doanh nghiệp đã đến đặt vấn đề xin vay vốn của chi nhánh. Dự toán cho công trình hơn 3,5 tỷ đồng. Hiện doanh nghiệp này đã có một xưởng đầu tư thiết bị 7 tỷ đồng, bao gồm nhà xưởng, nguyên vật liệu và sản phẩm, doanh nghiệp này muốn thế chấp số tài sản này để tiếp tục vay vốn mở rộng quy mô. Tuy nhiên, việc định giá nêu trên của doanh nghiệp lại khác xa với ngân hàng. Kết quả là doanh nghiệp không được vay đủ số tiền mong muốn. Trong trường hợp này, ngân hàng khuyên khách hàng nên tìm thêm tài sản để đem thế chấp tại ngân hàng. Do đó, doanh nghiệp phải chạy đôn chạy đáo mượn thêm một số tài sản khiến cho doanh nghiệp hết sức vất vả và mất thời gian. Tình trạng trên sẽ dẫn đến trường hợp doanh nghiệp khai khống giá trị tài sản đem thế chấp của mình. Nếu cán bộ tín dụng không am hiểu chuyên sâu về các lĩnh vực này sẽ dẫn đến những rủi ro rất lớn cho ngân hàng. * Công tác xử lý nợ đọng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế. Trong những năm qua, công tác thu hồi nợ đọng của chi nhánh thông qua con đường khởi kiện vẫn còn mất thời gian chờ đợi xét xử, sau đó lại bị kéo dài thời gian thi hành án, nên kết quả thu hồi nợ rất thấp. Đối với tài sản đảm bảo tiền vay là đất đai, nhà ở tại các vùng nông thôn, ven đô thị rất khó phát mại do khách hàng vay vốn thiếu thiện chí hợp tác với chi nhánh, với cơ quan pháp luật để xử lý tài sản. b. Nguyên nhân của chúng - Nguyên nhân từ phía ngân hàng + Một là, chính sách cho vay còn nhiều bất cập. Chính sách tín dụng nói chung, chính sách cho vay nói riêng đã được ngân hàng ngoại thương Việt Nam quy định trong Sổ tay Tín dụng và phổ biến cho toàn hệ thống. Tuy nhiên, có thể thấy chính sách tín dụng chưa có tính định hướng cụ thể cho hoạt động cho vay của ngân hàng dẫn đến chưa phát huy được vai trò định hướng cho hoạt động cho vay của ngân hàng. Chính sách tín dụng còn nhiều thiếu sót quan trọng như các nội dung về: Chính sách khách hàng: mới chỉ dừng ở việc chấm điểm tín dụng , chưa đề cập một cách chi tiết về định hướng của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đối với từng nhóm khách hàng, từng ngành nghề cụ thể. Chính sách qui mô và giới hạn tín dụng: chưa xây dựng được giới hạn tín dụng cho từng nhóm đối tuợng khách hàng. Do vậy hoạt động kiểm soát qui mô và giới hạn tín dụng của Ngân hàng còn rất nhiều khó khăn và không hiệu quả. Chính sách lãi suất: Chính sách tín dụng mới chỉ đề cập đến cách thức tính lãi suất cho vay, chưa đi vào quy định cụ thể về lãi suất cho vay theo từng nhóm chỉ tiêu: kì hạn, loại hình, ngành nghề trong từng thời kì cụ thể. Sự thiếu sót này gây ra những khó khăn cho cán bộ tín dụng khi quyết định mức lãi suất cho vay trong các hợp đồng tín dụng. Do đó ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Chính sách đảm bảo: những yêu cầu về đảm bảo mà cụ thể là tài sản đảm bảo vẫn chỉ được hướng dẫn một cách chiếu lệ, chưa có tính thực tiễn để góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Chính sách xử lí tài sản có vấn đề: thiếu sự hệ thống hoá thành văn bản chính thức; dẫn đến khi có nợ quá hạn, nợ xấu các cán bộ tín dụng gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý. + Hai là, qui trình cho vay chưa hoàn thiện Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh là một trong những chi nhánh mới được thành lập. Có nhiều doanh nghiệp quan hệ với ngân hàng đã lâu năm nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp là khách hàng mới. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam vẫn chưa xây dựng đưọc một qui trình tín dụng hoàn chỉnh do vậy gây ra rất nhiều khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc ra quyết định cho vay, dẫn đến nhiều khoản vay không hiệu quả. Các doanh nghiệp mà chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh cho vay rất đa dạng, do đó quan hệ tín dụng với ngân hàng cũng rất đa dạng bao gồm cả cho vay, bảo lãnh, mở L/c, chiết khấu chứng từ.v.v..nên việc quản lý tập trung đối với những đối tượng khách hàng này là rất cần thiết để giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả. Hiện nay, tại chi nhánh các phòng ban vẫn hoạt động riêng biệt. Trong đó phòng tài trợ thương mại phụ trách về các hoạt động thanh toán quốc tế, mở L/c, còn phòng khách hàng phụ trách cho vay và bảo lãnh. Sự thiếu liên kết trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng đẫn đến việc quản lý rủi ro đối với các khách hàng lớn trở nên thiếu tập trung và kém hiệu quả. Đồng thời gây ra sự lãng phí về nguồn lực, khi đối với cùng một khách hàng khi có hoạt động tín dụng mỗi phòng lại phải phân tích riêng, dẫn đến thông tin thiếu chính xác và không đầy đủ. Do vậy không thể đánh giá đựoc rủi ro tổng thể đối với một khách hàng, dẫn đến việc xác định các hạn mức tín dụng (hạn mức cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, thấu chi, L/c miễn ký quĩ) đối với mỗi khách hàng là không thực hiện đựơc. Các cán bộ tín dụng chỉ căn cứ vào nhu cầu phát sinh của khách hàng đối chiếu với khả năng của ngân hàng để đưa ra phán quyết tín dụng. Cách làm này là hết sức thủ công và bị động, không tạo thể chủ động cho ngân hàng, dẫn đến khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng rất thấp và do vậy ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Việc xác định hạn mức cho vay của ngân hàng cũng cần một qui trình cụ thể. Hiện nay các các bộ tín dụng của chi nhánh vẫn chỉ căn cứ vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp và phương án, dự án kinh doanh để xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng. Trong khi hạn mức tín dụng có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến rủi ro của ngân hàng. + Ba là, chất lượng thẩm định cho vay còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện quy trình thẩm định cho vay chưa đầy đủ, còn qua loa không đảm bảo tính chặt chẽ. Chưa thực sự coi trọng tính khả thi, hiệu quả của dự án, tính pháp lý của hồ sơ, tình hình tài chính và năng lực của khách hàng thậm chí còn thực hiện chiếu lệ hình thức. Năng lực đội ngũ cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng nói chung còn nhiều yếu kém đặc biệt là kiến thức về kĩ thuật, kinh tế, pháp luật,...chưa thực sự nắm vững và làm theo quy trình, đa số làm theo kinh nghiệm, chưa đủ khả năng thẩm định kĩ càng các dự án và khách hàng. Nhất là đối với các dự án lớn, dự án trung và dài hạn thì nhiều cán bộ chưa thẩm định nổi. Quá chú trọng đến tài sản đảm bảo mà không chú ý đến hiệu quả của dự án, dẫn đến cho vay bảo đảm bằng chính tài sản của dự án nhưng khi dự án không hiệu quả thì tài sản thế chấp đó đem ra phát mại thì cũng không có ai mua. Một thời gian dài cơ chế chính sách lỏng lẻo, chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm như thưởng, phạt, trách nhiệm đến cùng về tài sản và luật pháp đối với các khoản cho vay của các cá nhân đưa đến rủi ro cho ngân hàng. Trường hợp cán bộ tín dụng quyết định cho vay những dự án không hiệu quả nhưng không có hình thức xử lý gì. + Bốn là, chất lượng đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Về trình độ cuả cán bộ, Các cán bộ của Ngân hàng nói chung đều có trình độ chuyên môn khá tốt. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trong việc nắm bắt các kiến thức mới, các phương pháp mới. Mặt khác, các cán bộ tín dụng chủ yếu đều có thâm niên lâu năm, nên có nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực truyền thống. Nhưng trong môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh yêu cầu các cán bộ tín dụng phải nhanh nhậy hơn, nhanh chóng nắm bắt, chủ động tìm kiếm các nguồn khách hàng mới, đây là một điểm thiếu sót rất lớn của ngân hàng hiện nay. Về đạo đức cán bộ: Các cán bộ tín dụng phần lớn đều có đạo đức tốt, tuy nhiên vẫn còn một số mặt hạn chế - Tình trạng thiếu nghiêm túc trong tác nghiệp, dẫn đến không tuân thủ các kỉ luật của ngân hàng. - Một số cán bộ không tuân thủ đầy đủ qui trình cho vay của ngân hàng dẫn đến các khoản cho vay chất lượng không cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng - Các cán bộ tín dụng chưa nhận thức đựợc ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động cuả Ngân hàng nên không tích cực trong công tác đôn đốc thu hồi nợ. - Nhiều cán bộ thiếu năng động trong công tác tìm hiểu khách hàng, tìm hiểu thị trường dẫn đến không có đựơc nguồn thông tin chính xác, phần lớn chỉ dựa vào các thông tin do chính khách hàng cung cấp. + Năm là, chất lượng thông tin còn thấp. - Chất lượng thông tin nói chung và chất lượng thông tin tín dụng của Việt nam nói riêng cón rất nhiều hạn chế. - Chúng ta mới chỉ có Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN CIC, cung cấp thông tin về các tổ chức tài chính, các tổng công ty. Các ngân hàng thương mại nhà nước cũng có trung tâm thông tin riêng. - Tuy nhiên có thể thấy thông tin là vấn đề bất cập lớn trong hoạt động của các Ngân hàng nói chung và chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh nói riêng. - Trong hoàn cảnh hiện nay khi mà ngân hàng đang thực hiện chủ trương đa dạng hoá đối tượng khách hàng, giảm thiểu nhóm đối tượng khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, việc có được một hệ thống thông tin đa dạng, đầy đủ và chính xác có ý nghĩa sống còn đối với hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên cho đến nay Ngân hàng ngoại thương Việt Nam vẫn chưa xây dựng được hệ một hệ thống thông tin hoàn chỉnh của ngân hàng. Các nguồn thông tin chủ yếu vẫn do phòng cung cấp thông tin tín dụng của NHNN CIC cung cấp. Mà hiện nay CIC mới chỉ cung cấp thông tin về các tổ chức tài chính và các tổng công ty là chủ yếu, các thông tin về các đối tượng khác rất ít và hầu như không có. - Trong điều kiện đó, các cán bộ tín dụng buộc phải dựa vào nguồn thông tin thu thập chủ yếu qua các kênh như: từ chính doanh nghiệp, cơ quan thuế, chính quyền địa phương, các phương tiện thông tin đại chúng mà phổ biến là qua Internet. Những nguồn thông tin này về độ chính xác, tính tập trung không cao, các cán bộ tín dụng buộc phải sàng lọc khá nhiều. - Chúng ta chưa có các kênh thông tin về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, hạn chế khả năng cho vay với đối tượng khách hàng này. - Mặt khác, hiện nay chúng ta chưa có hệ thống chỉ số trung bình của ngành làm cơ sở để đánh giá, nên việc thẩm định khách hàng hoàn toàn thiếu cơ sở. Ngân hàng cũng chưa có được hệ thống dự báo phân tích môi trường kinh tế vĩ mô, phân tích ngành để làm cơ sở cho các quyết định chiến lược. Thông tin là đầu vào cho quá trình phân tích, đánh giá và ra quyết định của cán bộ tín dụng, chất lượng thông tin có vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính chính xác của các quyết định và do vậy ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cho vay của ngân hàng . Chương III. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh 3.1 Định hướng phát triển hoạt động cho vay của chi nhánh trong thời gian tới. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ đạo, nhưng không thể nằm ngoài hệ thống các hoạt động chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh. Do vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng tại đơn vị, cũng phải dựa trên những định hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh trong thời gian tới. Dựa trên những đánh giá chung về những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình những năm qua và tiếp tục thực hiện phương châm “phát triển - an toàn - hiệu quả”, ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh đã đề ra một số chỉ tiêu cơ bản cho hoạt động của mình trong năm 2008 cụ thể như sau: + Nguồn vốn duy trì ở mức 977 tỷ đồng (cao hơn mức bình quân năm 2007 là 81 tỷ đồng) + Dư nợ cho vay tăng 27,7% so với năm 2007. Số tuyệt đối tăng 202 tỷ đồng. + Lợi nhuận hạch toán nội bộ 30 tỷ đồng. + Tỷ trọng dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ nhỏ hơn 1%. + Thu phí dịch vụ là 3.5 tỷ đồng (tăng 73.3% số thực hiện năm 2007) + Thu nợ khó đòi ngoại bảng 10 tỷ đồng. + Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm 10% trong tổng dư nợ . + Tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo chiếm 100% trong tổng dư nợ. + Thanh toán xuất nhập khẩu tăng 30% so với năm 2007 + Công tác phát hành thẻ: tăng 25% so với năm 2007 Các định hướng còn lại là: - Cơ cấu lại mô hình tổ chức quản lý theo tiêu chuẩn của một ngân hàng thương mại hiện đại, lành mạnh về tài chính, có đủ khả năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng mới, đa dạng với chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại. - Thực hiện tốt các nội dung của đề án cơ cấu lại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh, xử lý nợ đọng và tài sản tồn đọng nhằm nhanh chóng lành mạnh tài chính toàn hệ thống. - Tích cực cải thiện hoạt động huy động vốn. - Mở rộng và củng cố quan hệ đối nội và đối ngoại. Chú ý xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ chặt chẽ với ngân hàng đại lý của các nước trên thế giới. Bởi vì, hệ thống ngân hàng đại lý mở rộng và phát triển sẽ giúp cho công tác thanh toán quốc tế của chi nhánh được nhanh chóng, an toàn và hiệu quả hơn. 3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh. 3.2.1 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định Lợi nhuận và rủi ro luôn tồn tại song song, mà mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng là rất cao, do đó làm thế nào để hạn chế rủi ro là vấn đề không chỉ chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh mà cả hệ thống các ngân hàng thương mại đều phải quan tâm. Công tác thẩm định có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng, vì nếu nó được tiến hành một cách chính xác, với chất lượng cao sẽ đảm bảo cho ngân hàng thương mại lựa chọn được những dự án, những khoản tín dụng vừa được đảm bảo an toàn, vừa có khả năng sinh lời cao. - Đặc biệt, Bắc Ninh là một tỉnh được mệnh danh là trăm nghề, việc sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu gắn với những yếu tố mang tính truyền thống, dựa trên những kinh nghiệm vốn có; hoạt động kinh doanh còn thiếu bài bản, sổ sách nhiều khi không rõ ràng, không có phương án sản xuất kinh doanh cụ thể. Do đó, yêu cầu đối với cán bộ tín dụng là phải nắm rõ được đặc điểm của từng doanh nghiệp, về mặt hàng sản xuất, khả năng tiêu thụ, về những yếu tố chi phí, lợi nhuận…về môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tình hình thực tế cho thấy, hiện nay trong cùng một làng nghề như giấy Phong Khê, sắt Đa Hội, gỗ Đồng Kỵ….cũng có đến vài chục doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong cùng một làng nghề có những đặc điểm tương đối giống nhau về mặt hàng sản xuất, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào, thậm chí quy mô cũng xấp xỉ nhau…Vì vậy tính cạnh tranh là rất cao. Trong việc thẩm định và quyết định cấp tín dụng, không nên coi tài sản thế chấp là chỗ dựa an toàn cho việc cấp tín dụng. Tài sản thế chấp là cơ sở để ngân hàng thu hồi nợ khi người vay không trả được nợ, nhưng để thanh lý tài sản thu hồi nợ là một công việc hết sức khó khăn, nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay, và thu nợ bằng tài sản không phải là giải pháp tốt mà chỉ là giải pháp tình thế, bắt buộc. Vì vậy, việc lựa chọn tài sản đảm bảo tại đơn vị cũng cần được cải tiến hơn, đảm bảo đó phải là những tài sản có tính thanh khoản cao, dễ mua bán và chuyển nhượng. 3.2.2 Tăng cường kiểm tra và giám sát đối với những khoản tín dụng. Sự biến động và sức ép ngày càng tăng của thị trường làm doanh nghiệp không có khả năng thích ứng kịp thời, hoạt động kinh doanh khó khăn dẫn đến mất khả năng thanh toán. Đối tượng khách hàng của tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và những doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên những tác nhân rủi ro khác trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh quốc tế và các biến động trong tỷ giá, giá cả hàng hoá… sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp, từ đó cũng ảnh hưởng đến ngân hàng. Hơn nữa khách hàng không phải lúc nào cũng đạt được tình trạng tài chính tốt, các khoản vay thường xuyên thay đổi, tác động vào vị thế tài chính, năng lực hoàn trả của người vay. Do đó ngân hàng luôn thường xuyên định kỳ kiểm tra toàn bộ các khoản vay cho đến khi hết hạn. Chi nhánh cần thực hiện kiểm soát và xem xét định kỳ tất cả các loại hình cho vay, kiểm tra theo chu kỳ các khoản vay lớn và kiểm tra bất thường đối với các khoản vay nhỏ. Tổ chức kiểm soát cẩn thận và nghiêm túc để đảm bảo xem xét, đánh giá tất cả các đặc tính quan trọng của các khoản cho vay, kế hoặch thanh toán của khách hàng đảm bảo phải phù hợp vời kỳ hạn của các khoản vay. Ngoài ra ngân hàng cũng cần phải thường xuyên đánh giá chất lượng và tình trạng của tài sản thế chấp. Đối với tài sản thế chấp là bất động sản, ngân hàng phải xem xét tính pháp lý của tài sản này bởi tại Việt Nam các quyết định liên quan đến sở hữu bất động sản còn chưa đồng bộ, nhiều trường hợp khách hàng sử dụng một tài sản để thế chấp đi vay vốn ở nơi khác mà ngân hàng không hề biết, khi khách hàng mất khả năng trả nợ việc xử lý tài sản gặp rất nhiều khó khăn. Đối với những tài sản là máy móc, thiết bị…ngân hàng cần thường xuyên đánh giá giá trị của những tài sản này bởi nó luôn bị hao mòn trong quá trình sử dụng, có thể giảm giá trị khi xử lý. Chi nhánh cần theo dõi tình hình tài chính của khách hàng, nắm bắt những thay đổi của thị trường bởi chỉ một sự thay đổi có thể làm tăng hoặc giảm nhu cầu tín dụng của khách hàng. Các khoản cho vay lớn có ảnh hưởng nghiêm trọng đối với tình hình tài chính của ngân hàng nếu rủi ro xảy ra, do đó ngân hàng phải theo dõi thường xuyên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, các khách hàng lớn của doanh nghiệp và tình hình nợ của doanh nghiệp. Đối với các khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng càng phải thường xuyên theo dõi nhiều hơn. Cùng với việc kiểm soát các khoản cho vay, chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh cần thực hiện quản lý nợ quá hạn một cách bài bản và có hệ thống, thực hiện phân loại nợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau như theo thành phần kinh tế, theo ngành nghề, theo loại tiền và theo nguyên nhân… từ đó đánh giá chất lượng các khoản cho vay từ đó có những biện pháp quản lý phù hợp. Kiểm soát tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với chất lượng tín dụng của ngân hàng, nó không chỉ giúp ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề mà hơn nữa còn giúp ngân hàng xác định được vấn đề các cán bộ tín dụng có tuân theo đúng chính sách cho vay của ngân hàng không. 3.2.3 Tăng cường huy động vốn. Trong năm vừa qua, hoạt động huy động vốn của chi nhánh đã tăng 43.5% so với năm 2006, tuy nhiên nó mới chiếm 33.14% tổng nguồn vốn của chi nhánh. Một số giải pháp để công tác huy động vốn của chi nhánh đạt hiệu quả hơn là: Đơn vị cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn hơn nữa, một hình thức có thể áp dụng là phát hành trái phiếu ngân hang: trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn, là giấy nhận nợ của ngân hàng đối với người mua cam kết sẽ trả nợ và lãi theo kỳ hạn đã cam kết trong hợp đồng. Để trái phiếu ngân hàng thêm hấp dẫn, đơn vị nên chú trọng phát hành trái phiếu vô danh để giúp người mua trái phiếu dễ dàng trong việc chuyển nhượng, thanh toán khi cần thiết, và tạo điều kiện cho trái phiếu dễ lưu hành trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra đơn vị còn có thể phát hành kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi và đa dạng hoá các hình thức huy động về thời hạn và thể thức huy động, tạo sự thuận tiện, nhanh chóng nhất cho khách hàng. 3.2.4 Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Thực tế chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh hiện nay có một đội ngũ cán bộ tín dụng nói chung là tương đối tốt, nhưng cũng cần có những giải pháp sau để nâng cao chất lượng đội ngũ này hơn nữa, đáp ứng những nhu cầu phát triển của hoạt động tín dụng nói riêng, và toàn bộ các hoạt động của đơn vị nói chung trong thời kỳ mới: - Tích cực đào tạo, nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Chiến lược đào tạo trên cơ sở quy hoạch xác định rõ đối tượng và nội dung đào tạo, chú trọng cả về kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn và các kiến thức xã hội khác. - Về tuyển dụng, tuyển mộ, chi nhánh cần ban hành và cụ thể hoá các chính sách thu hút nhân tài, nhất là các chuyên gia đầu ngành, chuyên gia giỏi, những người có trình độ trong lĩnh vực chuyên môn, sản phẩm mới công nghệ ngân hàng. - Lựa chọn và bố trí các cán bộ có trình độ chuyên môn, có đạo đức tốt vào các vị trí phù hợp, đảm bảo đúng người đúng việc, nhằm khai thác tối đa tiềm năng, sử dụng triệt để năng lực, sở trường, thế mạnh của từng cán bộ. - Có chế độ bố trí nhân sự, chính sách tiền lương, và chế độ phê bình, chế độ khen thưởng công bằng, hợp lý dựa trên năng lực và thành tích làm việc để khuyến khích sự nỗ lực, cạnh tranh lành mạnh giữa các cán bộ. - Bảo đảm tính kế thừa giữa các lớp cán bộ, trẻ hoá đội ngũ cán bộ, mạnh dạn sử dụng và bố trí cán bộ trẻ, có năng lực phẩm chất thực sự vào chức vụ quản lý. - Chi nhánh cần tạo điều kiện về thời gian, hỗ trợ về tài chính cho những cán bộ đang đi học nâng cao trình độ. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với ngân hàng ngoại thương Việt Nam Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nên có chủ trương khuyến khích nâng cao chất lượng hoạt động nói chung, chất lượng cho vay nói riêng với từng chi nhánh. Trong hoạt động cho vay, thực hiện phân loại và đánh giá tiềm lực và khả năng của từng chi nhánh một cách cụ thể hơn qua đó đưa ra các hạn mức cho vay với từng chi nhánh một cách chính xác và hợp lí. Theo đó, qua đánh giá chung về hiệu quả cho vay của chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh có thể thấy, chi nhánh hoàn toàn có thể mở rộng hơn nữa qui mô cho vay mà vẫn đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Do vậy, đề nghị Ngân hàng ngoại thương Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho Chi nhánh nâng cao hạn mức dư nợ hàng năm bằng cách cấp thêm nguồn vốn kinh doanh cho chi nhánh, qua đó đạt hiệu quả cao hơn và thu được lợi nhuận lớn hơn. Xuất phát từ những hạn chế trong chính sách tín dụng hiện nay, đề nghị Ngân hàng ngoại thương Việt Nam hoàn thiện chính sách tín dụng theo hướng hợp lý hoá và cụ thể hoá nhằm phát huy tính hiệu quả trong việc định hướng cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng của toàn hệ thống. Chính sách tín dụng mới cần có những định hướng cụ thể trong các chính sách như: chính sách khách hàng, chính sách qui mô và giới hạn tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách đảm bảo tiền vay.v.v.. nhằm tạo ra một khuôn khổ chung cho các đơn vị định hướng thực hiện. - Chính sách khách hàng: phải định hướng cụ thể những nhóm khách hàng là đối tượng ưu tiên của Ngân hàng và kèm theo các ưu tiên cụ thể phù hợp với chiến lược danh mục đầu tư của Chi nhánh trong từng thời kỳ. - Chính sách qui mô và giới hạn tín dụng: cần phải thiết lập một hệ thống chấm điểm tín dụng hoàn thiện nhằm xác định rủi ro với từng nhóm khách hàng từ đó giúp cán bộ tín dụng có cơ sở và chủ động hơn trong việc xác định qui mô và giới hạn tín dụng cho từng nhóm khách hàng. - Chính sách lãi suất: bên cạnh việc xác định công thức tính lãi suất, chính sách lãi suất phải được xây dựng một cách linh hoạt để các đơn vị lấy đó làm căn cứ kết hợp với thực trạng tại đơn vị để tính toán mức lãi suất hợp lý. - Chính sách đảm bảo tiền vay: Cần phải thiết lập những qui định rõ ràng hơn trong vấn đề đảm bảo tiền vay bên cạnh các qui định mang tính hướng dẫn. Các qui định này phải có sự kết hợp giữa các yêu cầu về pháp lý với chính sách cho vay riêng của ngân hàng, nhằm giúp cán bộ nắm vững hơn về các yêu cầu trong đảm bảo tiền vay. Về mặt nhân sự: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần thực hiện tốt hơn nữa các chính sách về nhân sự nhằm nâng cao chất lượng nhân sự như tuyển chọn, đào tạo cán bộ, khen thưởng kịp thời, rõ ràng để tạo động lực và cạnh tranh cho cán bộ nhân viên Ngân hàng. Đồng thời cần cho phép các chi nhánh chủ động hơn trong công tác tuyển chọn cán bộ, đặc biệt là chế độ lương, thưởng, phạt. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cần bổ sung các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành cơ chế, thể lệ tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra kiểm soát từ phía Ngân hàng Nhà nước, xây dựng hệ thống thanh tra đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo thực hiện hoạt động kiểm soát hệ thống ngân hàng có hiệu quả nhất, các sai sót do vi phạm quy chế, thể lệ tín dụng phải được xử lý nghiêm túc. Mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng (CIC). Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng, ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã sớm cho chủ trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Có thể nghiên cứu bổ sung vào điều kiện vay vốn những đối tượng khách hàng hay dự án đầu tư phải có mua bảo hiểm kinh doanh trong khi sử dụng vốn vay. Ngân hàng Nhà nước cần từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính. Ngân hàng Nhà nước cần tăng thêm quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh nói riêng, vai trò quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước là cần thiết song ở một mức độ nhất định, chỉ mang tính định hướng chứ không nên ra những yêu cầu mang tính áp đặt. Để nâng cao hiệu quả quản lý, Ngân hàng Nhà nước nên sử dụng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ bao gồm nghiệp vụ thị trường mở, công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái. Về cơ cấu tài chính, Ngân hàng Nhà nước cần giúp ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh nói riêng xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và tăng vốn điều lệ nhằm lành mạnh hoá tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và giảm thiểu rủi ro. 3.3.3 Kiến nghị đối với nhà nước. Trước hết, nhà nước cần thay đổi phương pháp quản lý đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế hiện nay năng lực sản xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp của Việt Nam còn hạn chế, trình độ nguồn nhân lực không cao do khả năng quản trị nhân lực kém, bởi vậy nhà nước cần thiết điều chỉnh cơ chế, chính sách nhằm quản lý chặt chẽ hơn nữa hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nhà nước cần triệt để thực hiện quá trình cải cách doanh nghiệp, chỉ giữ lại những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hoặc những doanh nghiệp có tính định hướng trong nền kinh tế, các doanh nghiệp còn lại có thể cổ phần hoá, giải thể, sáp nhập. Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu gồm cả kinh tế và hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê và chế độ kiểm toán bắt buộc. Để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, nhà nước cần có những chính sách bảo vệ quyền lợi của người sản xuất, chống hàng giả, hàng lậu giúp các doanh nghiệp yên tâm sản xuất. Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý để bảo vệ quyền lợi của bất cứ doanh nghiệp nào hạn chế rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra nhà nước cũng cần có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng để ngân hàng thực sự đóng vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn, hỗ trợ cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Nhà nước cần tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có giấy phép đăng ký kinh doanh như: cấp giấy phép kinh doanh và quy mô hoạt động phải phù hợp với số vốn sở hữu và năng lực quản lý thực tế, cần tiến hành thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép kinh doanh của các trường hợp buôn lậu, lừa đảo, sản xuất hàng giả… một cách nghiêm khắc hơn. KẾT LUẬN Chất lượng tín dụng là thuật ngữ chỉ hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại, được cấu thành bởi hai yếu tố: “Mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại”. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại là: tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ tiềm ẩn trên tổng dư nợ, tỷ lệ thu nợ bằng xử lý tài sản đảm bảo, tỷ lệ mất vốn, tốc độ tăng trưởng dư nợ, vòng quay vốn tín dụng, tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng trên tổng thu nhập, mức sinh lời vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó những nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng có những ảnh hưởng quyết định. Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh là một Chi nhánh có mới được thành lập trong hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Hoạt động cho vay luôn đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn không nhỏ cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Qua quá trình tìm hiểu và phân tích, hoạt động của chi nhánh đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy mới thành lập được gần 5 năm nhưng đến nay dư nợ đã gần ngang bằng với các ngân hàng thương mại lâu năm trên địa bàn tỉnh. Cùng với đó, chất lượng tín dụng không ngừng được cải thiện nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh những thành tựu đạt được, những khó khăn mà chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh đã và đang phải trải qua là không nhỏ. Thông qua việc đánh giá chất lượng tín dụng của chi nhánh trong thời gian vừa qua, có thể khẳng định để cho vay trở thành hoạt động mang lại nguồn thu bền vững cho chi nhánh và đáp ứng được các nhu cầu cho nền kinh tế. Chi nhánh cần thực hiện nhiều biện pháp trong thời gian tới để cải thiện chất lượng tín dụng và mở rộng quy mô của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, chủ biên GS.TS Nguyễn Hữu Tài Nxb thống kê. 2. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, tác giả TS Lưu Thị Hương, Nxb giáo dục. 3. Giáo trình Ngân hàng thương mại, tác giả PGS.TS Phan Thị Thu Hà chủ biên, Nxb Thống kê. 4. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Frederic S.Mishkin, Nxb khoa học kỹ thuật. 5. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 6. Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh các năm 2006 và năm 2007. 7. Quy chế cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 8. Quy chế hoạt động của chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh. 9. Website của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh và một số báo điện tử. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28526.doc
Tài liệu liên quan