Chuyên đề Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thương mại

Tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đang vào giai đoạn gấp rút. Các doanh nghiệp cũng đang chuẩn bị toàn bộ nguồn lực cần thiết để chạy đua với thời gian, nhằm tìm ra giải pháp tối ưu và một vị trí an toàn khi hội nhập diễn ra. Suy cho cùng những giải pháp tối ưu đó là để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Dù là DNTM hay doanh nghiệp sản xuất thì mục tiêu cuối cùng cũng là sống còn của doanh nghiệp phải tiêu thụ được hàng hoá dịch vụ. Nó thực sự quan trọng với mọi doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và các Mac đã từng nói “tiêu thụ là bước nhảy nguy hiểm của hàng hoá, nếu bước nhảy đó không thành công thì kẻ bị té mang thương tích không phải là hàng hoá mà chính là người kinh doanh hàng hoá đó - doanh nghiệp”. Để tránh cho mình không bị thương tích trong bước nhảy nguy hiểm đó mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải biết nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình trước khi quá muộn.

doc56 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Bởi muốn khuyến khích cạnh tranh đồng thời chống được độc quyền thì hành động của phía người tiêu dùng sẽ đóng góp phần không nhỏ cùng sự nỗ lực thực sự của nhà kinh doanh chân chính, cơ quan quản lý trong việc tạo lập môi trường (sân chơi) công bằng. Như vậy xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống lại độc quyền là trách nhiệm, quyền lợi không của riêng ai. Nó thành công đến mức nào còn phụ thuộc vào tất cả các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh cũng như mọi người tiêu dùng trong nền kinh tế quốc dân. 2. Mục tiêu chính sách cạnh tranh Việt Nam Trên cơ sở khuyến khích cạnh tranh lành mạnh chống lại độc quyền và cạnh tranh bất hợp pháp tạo ra “sân chơi” bình đẳng trong kinh doanh Thương mại. Chính phủ cũng mong muốn thực hiện được các mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội một cách tốt hơn. Trước tiên nhằm tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam có được thế và lực đủ sức phát triển và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của chúng trên thị trường nội địa cũng như quốc tế. Thông qua hàng loạt các chính sách ưu đãi, khuyến khích và làm quen với thách thức cạnh tranh gay gắt trước khi thực hiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đồng thời thực hiện việc cung ứng thoả mãn tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch vụ trong xã hội. Một nền kinh tế muốn phát triển không thể để tồn tại hiện tượng thiểu phát trong chỉ số tiêu dùng. Để GDP gia tăng thì phải đẩy mạnh vòng luân chuyển của vốn hàng hoá và tiền tệ trong quốc gia. Vậy nên chủ trương kích cầu là động thái hướng vào tiêu dùng nhằm nâng cao tỷ trọng thu nhập từ nội địa trong kết cấu GDP. Với tỷ trọng 52% trong năm 2001 chúng ta chưa thể nói chủ động cao trong nền kinh tế do vẫn bị phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, thị trường xuất khẩu. Trong khi chỉ số tiêu dùng tăng không đáng kể (chưa loại trừ yếu tố phạm phát của giá). Dù mục đích là nâng cao năng lực cạnh tranh đơn vị hay cung ứng tốt hơn cho người tiêu dùng thì suy cho cùng cũng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Trên cơ sở tạo dựng môi trường cạnh tranh giúp qúa trình phân bổ các yếu tố của sản xuất hiệu quả hơn đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ tổ chức quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh. Trên cơ sở luật hoá các nội dung để thực thi sẽ tranh thủ được nguồn lực bên ngoài quan trọng - vốn đầu tư nước ngoài. Nó sẽ hỗ trợ tích cực cho qúa trình hội nhập kinh tế cũng như cổ phần hoá của Việt Nam. II. Năng lực cạnh tranh của DNTMVN trên một số phương diện. Theo bảng xếp thứ hạng cạnh tranh tổng thể các nền kinh tế của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năm 1999 Việt Nam được xếp vị trí 48 trong số 59 quốc gia được khảo sát. Nhưng đến năm 2000 thì vị trí đó không còn nữa, Việt Nam đã phải xếp thứ 53/59. Như vậy, trước ngưỡng cửa hội nhập với sự cạnh tranh gay gắt, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam hiện còn rất yếu kém trong đó sự hiện diện các DNTM. Hệ thống doanh nghiệp thương mại Việt Nam mới ở giai đoạn đầu làm quen với kinh tế thị trường. Thời gian hình thành và phát triển chưa phải là dài nhưng bản thân nó đã hứng chịu ảnh hưởng không mấy tích cực từ những di họa của cơ chế tập trung xin cho. Các doanh nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước) có thói quen kinh doanh theo kiểu cấp - phát - giao - nộp dưới chỉ tiêu, định mức sẵn có nhưng thiếu thực tế của cấp trên. Do vậy, đã mất đi tính linh hoạt, năng động cần thiết của một doanh nghiệp thương mại. Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thực sự thì số doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn do năng lực thực có yếu kém. Hàng trục năm qua các doanh nghiệp thương mại đã nỗ lực cao độ để thích ứng với môi trường kinh doanh có cạnh tranh mạnh mẽ. Song năng lực cạnh tranh của họ mới được nâng lên từng bước rất khiêm tốn và vẫn ở mức thấp (so với đối thủ nước ngoài). Điều này được thể hiện ở : 1. Sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp thương mại : Doanh nghiệp thương mại (DNTM) với tư cách là trung gian, nhịp cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Bởi vậy, hầu hết các sản phẩm đến với người tiêu dùng đều phải qua một số khâu trung gian. Nhờ đó, sản phẩm kinh doanh của DNTM về lý thuyết là rất đa dạng, ở nhiều cấp độ giá trị, chủng loại hác nhau. Nhưng thực tế dễ nhận thấy rằng sản phẩm của DNTM Việt Nam bị xem là nghèo nàn, đơn điệu thậm chí còn lạc hậu (doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm thời trang, điện tử, tin học). Và nữa, tính thiếu đồng bộ cho sản phẩm (với một số sản phẩm yêu cầu các sản phẩm dùng kèm hoặc dịch vụ song hành) đây là điều không nên mắc phải nhưng vì nhiều lý do như nghiên cứu không kỹ, năng lực kinh doanh có hạn, nguồn vốn eo hẹp… mà các doanh nghiệp đã bỏ qua hoặc thờ ơ. Sự thiếu hiểu biết, quan tâm này sẽ làm phương hại đến lợi ích hiện tại cũng như lâu dài của doanh nghiệp do đòi hỏi của người tiêu dùng về tính đồng bộ trong sản phẩm dịch vụ được cung ứng ngày một cao (trong đó tính thuận tiện sẽ được coi trọng hơn cả). Xét về tổng thể thì sản phẩm của các DNTM mới chỉ dừng ở những loại hàng hoá dịch vụ có giá trị thấp và vừa, quy mô của chúng cũng tương tự. Các doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh những sản phẩm hữu hình phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống (ăn, mặc, ở và đi lại) hoặc các dịch vụ vui chơi giải trí mang tính phổ thông (du lịch, nhà hàng). Chỉ có rất ít doanh nghiệp thương mại của Việt Nam kinh doanh những loại sản phẩm công nghệ, trí tuệ cao phục vụ cho sản xuất, phát triển kinh tế quốc dân (dây truyền sản xuất, công nghệ viênc thông, viễn thám…). Sự thiếu vắng cộng với nhỏ lẻ của DNTM tham gia kinh doanh dịch vụ có quy mô lớn đã làm lu mờ hình ảnh DNTM Việt Nam trong lĩnh vực này. Đó là lĩnh vực kinh doanh tài chính, bảo hiểm, tư vấn, bản quyền. Hiện tại nó đã bị các Công ty liên doanh nước ngoài chi phối. Trong các lĩnh vực này phái Việt Nam cũng chỉ có một số ít Công ty độc quyền Nhà nước nắm giữ nhưng năng lực cạnh tranh cũng không mấy khả quan và luôn bị các doanh nghiệp thương mại nước ngoài lần lướt, cạnh tranh. Dù sao thì nền kinh tế nước ta mới trong giai đoạn đang phát triển nên các DNTM của Việt Nam còn phải học hỏi nhiều nhiều hơn nữa. Do đó khả năng kinh doanh các loại sản phẩm, dịch vụ cao cấp của chúng chưa thể thực hiện tốt được và càng không thể sánh được với những Công ty kinh doanh nước ngoài xuất thân từ nhiều nền kinh tế vượt ta cả thế kỷ phát triển. Nếu vấn đề chỉ dừng ở đó thì có thể chấp nhận và hy vọng trong tương lai sản phẩm kinh doanh của các Công ty thương mại sẽ phong phú về chủng loại, đa dạng về kiểu dáng… và thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nhưng lại ngặt nỗi, ngay cả những yêu cầu tưởng chừng như đơn giản đó mà sản phẩm thông dụng của đa số doanh nghiệp cũng chưa có đưọc và vẫn phải phấn đấu. Những yếu kém đó phải chăng xuất phát từ việc kinh doanh thiếu bài bản hay sự eo hẹp về nguồn lực mà các doanh nghiệp thương mại phải co về giải quyết vấn đề ngắn hạn có tính chất đối phó để rồi mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của sự yếu kém. Hậu quả là cơ cấu sản phẩm được kinh doanh chưa phải là đa dạng nhưng cũng chẳng được chuyên sâu. Bởi hầu hết các nhà kinh doanh đều say mê với công việc song kiến thức kinh nghiệm lại thiếu hụt nên khả năng dự báo gần như không hiệu quả. Hạn chế này buộc họ phải theo đuổi thị trường và kinh doanh theo kiểu thương vụ nên không hề sản phẩm nào có chút lời đều là đối tượng “đầu tư” của họ. Với cách thức kinh doanh đó, việc thiếu đầu tư tập trung là tất yếu nên tính chuyên hoá thấp. Cơ cấu sản phẩm đã bị coi là kém hấp dẫn, vấn đề chất lượng sản phẩm cũng chẳng khả quan hơn. Do nghiệp vụ kinh doanh thấp nên các chi phí cho qúa trình kinh doanh nhiều đã đội giá bán lên cao không tương xứng với giá trị thực của sản phẩm. ấy là chưa kể tới một số ít doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh theo lối chụp giật đã bán hàng giả cho người tiêu dùng. Hiện tượng này dù không nhiều nhưng nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh các doanh nghiệp thương mại và càng không có lợi cho qúa trình nâng cao năng lực cạnh tranh về lâu dài. DNTM tham gia vào qúa trình lưu thông hàng hoá không chỉ đơn giản là thực hiện các nghiệp vụ vận động vật lý và chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ mà cần phải biết tiếp tục sản xuất trong qúa trình lưu thông để tạo ra giá trị gia tăng va giá trị khách hàng nâng cao khả năng sinh lợi. Về điểm này các doanh nghiệp nước ta đã làm nhưng kết quả không cao. Nó thể hiện ở sự khác nhau không đáng kể giữa sản phẩm kết thúc qúa trình sản xuất và sản phẩm đến tay người tiêu dùng về mặt mẫu mã, bao bì đóng gói. Có chăng cũng chỉ là những thao tác còn lại được bên sản xuất nhượng lại cho DNTM hoàn thành nốt. Sự sáng tạo thực sự của DNTM trong việc tăng giá trị, nâng cao sức hấp dẫn của sản phẩm là rất ít ỏi. Chính những hạn chế trên cùng với năng lực sản xuất trong nước thấp, khả năng nhập khẩu có giới hạn đã ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ đổi mới sản phẩm, tạo ra yếu tố mới lạ để thu hút khách hàng. Mô hình chung làm cho sản phẩm, dịch vụ của DNTM Việt Nam kém sức thuyết phục. Do đó, khả năng cạnh tranh ở thị trường nội địa thấp và càng khó hơn trên thị trường quốc tế. Nói vậy không có nghĩa DNTM Việt Nam hoàn toàn lép vế trước đối thủ cạnh tranh. Với những doanh nghiệp định hướng đúng loại sản phẩm có ưu thế họ vẫn cạnh tranh tốt trên thị trường (kể cả thị trường quốc tế). Những sản phẩm có sức cạnh tranh của Việt Nam chủ yếu thuộc về nông - lâm - thủy sản (gạo, cà phê, điều, tâm…) hay các hàng gia công xuất khẩu : giầy dép, may mặc. Trong điều kiện quan hệ thương mại nước ta chưa được mở rộng (chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc - MNF). Các mặt hàng xuất khẩu của ta vào thị trường Mỹ phả chịu thuế suất rất cao. Ví dụ hàng may mặc gấp 2,5 lần, giày dép 35% trong khi các nước khác chỉ chịu 85, - 10% và hàng nông hải sản cũng ở tình trạng tương tự tự do thị trường này áp dụng nhiều hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 - 14000 ; HACCP ; GMP, QS 9000. Như vậy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đứng trên góc độ sản phẩm còn rất thấp và thiếu ổn định. Hiện tại việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều DNTM Việt Nam phải dựa vào một số ít sản phẩm có hàm lượng lao động nhiều, giá trị nhỏ : nông hải sản, hàng gia công. Trong tương lai các doanh nghiệp phải từng bước chuyển sang nhóm sản phẩm có giá trị lớn cùng các dịch vụ thị trường mới đảm bảo cho sự phát triển bền vững và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bảng : Hệ số lợi thế so sánh một số ngành sản phẩm giữa các nước ASEAN Nguồn : Báo cáo của World Bank - 1999 Ngành sản phẩm Inđonêxia Malayxia Philippin Singapore Thái Lan Việt Nam Chế biến thuỷ sản 3,4 0,7 3,7 0,5 8,7 11,3 Xay xát và chế biến lương thực 0,1 0,02 0,1 0,2 3,3 6,6 Chế biến bảo quản rau quả 0,6 0,3 4,5 0,1 3,1 1,5 Đồ uống 0,0 0,1 0,1 0,3 0,1 0,1 Chế biến dầu mỡ động thực vật 2,7 16,2 3,6 1,5 0,7 0,0 Sợi chỉ và vải dệt các loại 1,6 0,4 0,4 0,2 1,2 1,8 Quần áo 2,1 1,4 4,4 0,5 2,2 3,1 Giầy dép và sản phẩm da 4,6 0,3 1,5 0,1 2,9 4,0 2. Vấn đề lao động trong doanh nghiệp thương mại : Ai cũng cho rằng đây là nhân tố mang lại lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Song hiện nay, nó vẫn chỉ ở dạng tiềm năng hoặc chỉ có lợi thế về số lượng do phần lớn là lao động phổ thông. Nhưng kể từ sau khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á diễn ra thì lợi thế nhân công rẻ số lượng nhiều của Việt Nam hầu như không còn do bị Phillippine và Inđônêxia cạnh tranh mạnh mẽ, gần đây và tương lai thì nhân công Trung Quốc sẽ là đối thủ cạnh tranh đáng gờm trong khu vực. Hơn thế, do đặc thù của kinh doanh thương mại nên lao động trong DNTM cũng có những yêu cầu tương đối toàn diện nếu không muốn nói là cao hơn trong kinh doanh sản xuất. Vì vậy, số lượng lao động đông chưa hẳn là lợi thế mang lại sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nếu như trình độ lao động chỉ ở mức phổ thông (chưa qua đào tạo chuyên nghiệp - nghiệp vụ). Bởi lao động trong kinh doanh thương mại không chỉ đòi hỏi về chuyên môn mà còn sử dụng nhiều kiến thức xã hội, tâm lý… và khả năng ứng xử, giao tiếp linh hoạt : một kiến thức tổng hợp như vậy sẽ nâng cao đáng kể năng suất lao động trong doanh nghiệp thương mại. Hiện tại, lực lượng lao động thương mại có thể nói là tạp chủng nhất song các ngành nghề lĩnh vực. Không như những ngành nghiên cứu khoa học và sản xuất thuần túy khác, cơ chế mới mở ra các doanh nghiệp có điều kiện phát triển tựa như “trăm hoa đua nở”. Chúng được “nở” ra bởi nhiều nhiều cá nhân, tổ chức không giống nhau về xuất phát điểm : ngành nghề được đào tạo, khả năng trình độ… Rất nhiều cá nhân tham gia kinh doanh thành công mặc dù họ không được đào tạo chuyên môn cơ bản thậm chí chỉ từ lao động phổ thông mà nên. Nhưng họ cùng mong muốn kinh doanh để kiếm tiền và làm giàu cho bản thân, xã hội. Thực tế đó, đã phản ánh năng lực nghiệp vụ của đa số lao động thương mại chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan của kinh doanh hiện đại và nền kinh tế thị trường. Năng lực lao động hạn chế nhiều mặt nên kết quả lao động thấp kéo theo số lượng lao động nhiều để rồi vòng luẩn quẩn của năng suất lao động thấp số lượng lao động nhiều cứ tiếp diễn trong doanh nghiệp. Trong bối cảnh chung, năng lực của đội ngũ quản lý chỉ có số ít được đào tạo cơ bản xong khả năng thực tế lại rất hạn chế. Phương châm của họ là vừa làm vừa học, có thất bại mới đến thành công. Vì thế, chủ yếu lấy kinh nghiệm để tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động. Nhưng mặt trái của phương châm này là thiếu đi tính khoa học, logic nên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác dự báo, nắm bắt cơ hội trong điều kiện môi trường kinh doanh thường xuyên biến động. Nhìn chung, sự yếu kém về nghiệp vụ, năng lực quản lý của đội ngũ lao động đã dẫn đến kết quả tất yếu là năng suất lao động thấp. Đây là một trở ngại rất nan giải khi thực hiện chiến lược giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp về mặt giá. Bởi giá là một trong bốn yếu tố của phối thức Marketing mix được mọi Công ty sử dụng để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm DNTM Việt Nam kém sức cạnh tranh. Bởi khả năng điều hành thiết lập mạng lưới kinh doanh không tối ưu nên các chi phí vận chuyển, phục vụ khách hàng cao đã đội giá thành lên làm cho giá bán cao. Càng khó khăn hơn trong hoạt động quản trị nhân sự của đơn vị. Để làm tốt nhiệm vụ này đòi hỏi các ông chủ phải biết sử dụng nhiều công cụ đòn bẩy khác nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Đến nay nghệ thuật đãi ngộ, quản trị nhân sự vẫn là mong muốn của nhiều nhà quản trị Việt Nam, họ còn phải dày công học hỏi và đúc kết trong cả cuộc đời. Trước cuộc sống còn nhiều khó khăn người lao động đôi khi vì mưu sinh vật chất tầm thường mà bỏ qua giá trị đạo đức tinh thần, tự tôn cá nhân cộng đồng. Dođó, mục tiêu xây dựng nền văn hoá doanh nghiệp đặc sắc, hình ảnh doanh nghiệp có tính cạnh tranh cao sẽ gặp rất nhiều rào cản để có được thành công như nhiều doanh nghiệp truyền thống của Nhật Bản, Hoa Kỳ. Qua những phân tích trên đây, ta thấy rõ vấn đề lao động doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiềukhó khăn trong qúa trình đổi mới nâng cao. Xem ra, lao động có lợi thế rẻ nhưng lại hoá ra đắt (do năng suất thấp). Chính vì vậy muốn khắc phục điểm yếu cơ bản này các doanh nghiệp phải có chiến lược nâng cấp lao động cho tương lai. Bởi vấn đề lao động sẽ quyết định những yếu tố còn lại và kết quả được thua sau cùng của mỗi doanh nghiệp nói chung và DNTM nói riêng. 3. Nguồn vốn cho hoạt động : Nhìn chung nguồn vốn của các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế, quy mô nhỏ và thiếu. Chỉ tính riêng vốn lưu động, các doanh nghiệp Nhà nước mới được đáp ứng 27% nhu cầu. Thiếu vốn nên việc đầu tư và phân bổ cho các nghiệp vụ kinh doanh luôn ở tình trạng “giật gấu bá vai”. Thực tế nhiều doanh nghiệp đã phải nhìn cơ hội trôi qua chỉ vì không có vấn đề thực hiện cơ hội thành lợi nhuận. Thiếu vốn tất yếu dẫn đến tình trạng nợ nần, các khoản nợ của DNNN ngày càng gia tăng (bảng bên) Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 Tổng số nợ phải trả Tỷ đồng 110656 122299 123193 189617 Tỷ lệ so với vốn Nhà nước % 114,5 116 113 130 Tổng số phải thu Tỷ đồng 64141 53715 67993 78456 Trong đó nợ khó đòi Tỷ đồng 4223 4500 1658 26629 Các DNTM do đặc trưng của lĩnh vực hoạt động nên kết cấu vốn lưu động trên vốn cố định gần như đối lập với doanh nghiệp sản xuất. Quy mô và nhu cầu vốn lưu động lớn hơn nhiều so với vốn định. Theo số liệu điều tra hiện nước ta có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với gần 3 triệu lao động. Nhưng so với các doanh nghiệp của ASEAN doanh nghiệp Việt Nam là quy mô nhỏ, tài sản cố định bình quân cho một lao động chỉ ở 44.000.000VNĐ. Trong khi đó vốn lưu động mới chỉ đáp ứng được 27% (doanh nghiệp Nhà nước). Vậy nên tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNTM là rất phổ biến. Thực tế này ảnh hưởng rất lớn đến việc đầu tư chiến lược của nhiều DNTM trong việc mở rộng kinh doanh, thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và càng khó khăn trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác cùng loại ở khu vực. Do thiếu vốn nên hầu hết các DNTM đã cắt giảm đáng kể kinh phí đầu tư quảng cáo xúc tiến sản phẩm dịch vụ cho công chúng. Nó hoàn toàn đối lập với tư tưởng của kinh doanh hiện đại mà điển hình là câu hói “nếu tôi có 10 đồng kinh doanh tôi sẵn sàng chi 6 đồng cho quảng cáo xúc tiến” của nhà kinh doanh nổi tiếng nào đó. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa làm cho sản phẩm của Việt Nam luôn chập pha so trên thị trường nội địa cũng như quốc tế. Sự chậm chễ đó đã làm giảm đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng sinh lời của thương vụ. Bởi nó đã mất đi tính mới lạ, bất ngờ của sản phẩm kinh doanh khi đến tay khách hàng (chỉ còn là sản phẩm cũ, lỗi thời). Hiện tại nguồn vốn cấp cho các doanh nghiệp (cả DNNN và các loại doanh nghiệp còn lại) là rất hạn chế. Do đó các doanh nghiệp đều phải tự tìm nhiều nguồn vốn vay khác nhau : qua ngân hàng, công chúng, cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp để tăng vốn hoạt động. Trong khi thị trường vốn tự do ở nước ta chưa phát triển nên khả năng huy động vốn theo cách thứ 2 (gần như là cách duy nhất) thường có chi phí lớn làm cho khả năng tái đầu tư của doanh nghiệp thấp. Nguồn vốn đã ít nhưng nhiều doanh nghiệp bị tồn kho hàng hoá (nguy hiểm hơn là hàng hoá kém phẩm chất) cộng với các khoản chi phí trung gian vận chuyển cao là kết quả của nghiệp vụ, tổ chức yếu kém do đầu tư không đủ. Các doanh nghiệp không thoát khỏi vòng luẩn quẩn này thì đã khó nay lại càng khó hơn. Theo số liệu thống kê thì từ năm 1986 đến nay, giá xăng dầu tăng 42,2%, cước vận chuyển tăng 130%, thuế sử dụng đất là 90,9%, điện 37%, ngoại tệ 20,2%, tiền cũng tăng 75%. Ngoài ra còn thêm các loại tiêu cực phí đã góp phần không nhỏ làm tăng chi phí doanh nghiệp. Đối chiếu với bảng chi phí đầu tư của một số nước trong khu vực, ta thấy chi phí trung gian của doanh nghiệp Việt Nam tương đối cao. Bảng : Chi phí đầu tư tại một số thành phố chính ở Đông Nam á tháng 12/2000 Đơn vị : USD Khoản chi Hà Nội TP HCM Singapore Bangkok Kualalumper Manila Chi phí thuê đất khu CN (m2/tháng) 2,62/năm 2,25/năm 6,9 0,50 5,7-8,5 85 Chi phí thuê văn phòng (m2/tháng) 18-21 14-16 49,91 10,09 17 27,58 Chi phí điện thoại tối thiểu/ngày/tháng 1,86 1,86 4,78 2,29 2,21 13,41 Giá điện cho SXKD (Kw/h) 0,07 0,07 0,07 0,04 0,05 0,09 Cước vận chuyển Container cao 40 jeet 1500 1400 500-600 1350 970 1169 Thuế GTGT mức cơ bản - VAT - % 10 10 3 7 5-15 10 Như vậy, dù doanh nghiệp sản xuất hay thưởng với mức chi phí đầu tư trung gian cao. Điều trở nên bất lợi trong cạnh tranh với các doanh nghiệp của ASEAN. Những chi phí cao này sẽ trực tiếp làm suy giảm hiệu suất đồng vốn, lại đặt trong hoàn cảnh thiếu hụt vốn lớn nên trên phương diện vốn các doanh nghiệp TMVN rất khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Thực tế các DNTM đa số phải theo phương châm lấy ngắn nuôi dài nên chỉ có rất ít doanh nghiệp có “của để dành” để thực hiện đầu tư chiến lược. Đây vẫn là bài toán cần các doanh nghiệp Việt Nam giải quyết trong suốt thời kỳ CNH - HĐH đất nước. 4. Công nghệ kinh doanh : Hiện tại, các doanh nghiệp của Việt Nam chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Do đó, công nghệ được sử dụng cũng tương ứng với quy mô đó. Trong công nghệ tổ chức bộ máy quản lý thường theo mô hình trực tuyến chức năng. Với công nghệ này thì cấu trúc của doanh nghiệp tương đối đơn giản và quyền lực được tập trung cộng với its cấp quản lý trung gian nên nó có khả năng thích ứng linh hoạt cao với những biến động từ phía môi trường và đối thủ cạnh tranh - lợi thế của quy mô nhỏ. Nhưng cũng chính quy mô nhỏ đã tiết chế khả năng tiếp cận và vận dụng những công nghệ tiên tiến mang lại hiệu quả cao trong sản xuất cũng như kinh doanh. ở doanh nghiệp thương mại muốn kinh doanh tốt đòi hỏi đầu tư cho việc xây dựng thiết kế hạ tầng mạng lưới tiêu thụ là khá lớn (ngoai việc đầu tư vốn cho hàng hoá) chẳng hạn như mặt bằng kinh doanh, kho tàng bến bãi, phương tiện vận chuyển, trang thiết bị phục vụ kinh doanh tại các cửa hàng văn phòng… Do đó, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ khó có thể đáp ứng được những yêu cầu về dịch vụ, văn minh của kinh doanh hiện đại. Hơn thế, ngày nay hoạt động thương mại mang tính toàn cầu rộng rãi và sử dụng nhiều công nghệ, phương thức kinh doanh hết sức hiện đại : thương mại điện tử. Phạm vi hoạt động lớn kéo theo những chiến lược kinh doanh mang tính chất khu vực và quốc tế. Khi đó, công nghệ kinh doanh không thể thiếu hoạt động Marketing. Nhờ có nó mà doanh nghiệp sẽ nắm bắt kịp thời hơn những thông tin thị trường : nhu cầu, giá cả, cung cầu,… xu thế biến động của thị trường hàng hoá Công ty đang quan tâm. Qua đó, nó giúp cho cấp quản trị ra quyết sách đúng đắn trước tình thế thị trường. Từ việc tổ chức nguồn hàng, mạng lưới tiêu thụ đến các hoạt động, chương trình tiếp thị chào hàng thực hiện xúc tiến bán. Đứng trước những công nghệ kinh doanh hiện đại mà nhiều Công ty thương mại nước ngoài đã áp dụng có hiệu quả. Các DNTM Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém. Đa phần doanh nghiệp thương mại thực hiện nghiệp vụ bán lẻ theo phương thức cổ điển (truyền thống) chỉ số ít áp dụng kiểu hiện đại, song vì nhiều lý do họ đã không thành công (90% các siêu thị kinh doanh bị thua lỗ). Trong hoạt động kinh doanh, giao dịch trên mạng mới được số ít doanh nghiệp thử nghiệp (chưa sử dụng phổ biến). Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài. Coi đó là phương thức kinh doanh không thể thiếu. Việc tổ chức các hoạt động quảng cáo xúc tiến hay nghiệp vụ Marketing chỉ được doanh nghiệp thực hiện một cách cầm chừng. Có thể nói nhiều DNTMVN không biết tới sự tồn tại của lý thuyết Marketing hỗn hợp trong kinh doanh. Vậy nên thực hiện cạnh tranh trên thị trường gặp rất nhiều khó khăn trước các đối thủ kinh doanh có bài bản, kinh nghiệm. Thành công của họ phần lớn do biết vận dụng, điều chỉnh một cách hợp lý quan hệ của một biến số trong phối thức Marketing hỗn hợp cho từng thị trường, sản phẩm cụ thể. Ngày nay không ít nhà quản trị đã tách Marketing ra thành một biến số độc lập với công nghệ và toòn tại bình đẳng với các biến số còn lại là lao động và vốn. Chúng cùng có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do khả năng hạn hẹp về vốn nên thực tế các DNTM Việt Nam không thể tránh được tình trạng (hiện tượng) áp dụng công nghệ kinh doanh thiếu đồng bộ. Đó là nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh, ảnh hưởng xấu đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu công nghệ sản xuất có thể đo lường và lượng hoá được mức độ tụt hậu của các DNVN là 10 - 20 năm rồi mức độ hao mòn hữu hình từ 30 - 50%. Sau đó trên cơ sở cung cấp vốn đầu tư có thể dễ dàng đạt được công nghệ sản xuất tiên tiến. Ngược lại, những công nghệ trong KDTM thuộc về mô hình và hữu hình, khó nắm bắt để lượng hoá. Chính vì vậy việc đổi mới áp dụng sẽ gặp nhiều khó khăn mà tỷ lệ thành công lại không cao. Bởi nó phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và khả năng sáng tạo của mỗi con người, doanh nghiệp cho dù quy trình nhận thức nó đã được hệ thống hoá để đi đến sáng tạo. Tuy vậy chúng cũng rất mơ hồ. Để có được thành công đòi hỏi sự cố gắng bền bỉ của nhiều thế hệ các nhà kinh doanh Việt Nam. Nó không thể thực hiện theo kiểu đốt cháy giai đoạn. Và đây mới là vấn đề khó khăn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện hội nhập thành công. II. Cơ hội và khả năng của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế : Hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới đang là xu thế tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã cam kết thực hiện AFTA, gia nhập APEC, ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ và xin gia nhập WTO. Bước tiến đó đã mở ra nhiều cơ hội mới cho hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam. Hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi mở cửa thị trường hàng hoá dịch vụ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do hàng rào thuế quan và phi thuế quan được rỡ bỏ giữa những quốc gia thực hiện hội nhập. Họ cũng thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại. Các tranh chấp Thương mại được giải quyết công bằng. Thực hiện bình đẳng trong đàm phán. Khi đó nhiều sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam sẽ vươn ra thị trường khu vực,thế giới. Nó sẽ là nguồn thu lớn của doanh nghiệp, quốc gia. Hiện tại, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chưa được 400USD/ năm. Như vậy, nếu chỉ dựa vào thị trường trong nước, các doanh nghiệp khó có thể phát triển nhanh. Hội nhập sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, khả năng tích luỹ vốn cao hơn nên cơ hội phát triển tốt hơn. Thực hiện hội nhập doanh nghiệp Việt Nam có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu nhờ quá trình hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ diễn ra phổ biến hơn. Trên cơ sở tranh thủ học hỏi được kinh nghiệm quản lý công nghệ sản xuất kinh doanh và bổ sung các lợi thế sẵn có giữa các quốc gia, doanh nghiệp. Với DNVN thì điểm yếu nhất chưa phải là vốn mà có khả năng quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nên quá trình hợp tác đầu tư sẽ tạo ra thực tế sinh động để phía DNVN học hỏi năng lực cốt lõi trong quản lý của đối tác. Tận dụng lợi thế so sánh sẵn có về nhân công, tài nguyên kết hợp với kinh nghiệm mới, các DNVN hoàn toàn có thể nâng cao năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì thế DNVN sẽ từng bước được cải thiện nhờ quá trình đa phương hoá đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới. Song cơ hội luôn đi với thách thức, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các DNVN còn nhiều khí khăn phải giải quyết. Đối với các Tổng Công ty lớn đó là vấn đề điều chỉnh cơ cấu, đổi mới tổ chức quản lý, công nghệ và phương pháp làm việc hay giải quyết lao động dôi dư…Với doanh nghiệp vừa và nhỏ (chủ yếu) là quy mô sản xuất kinh doanh và vốn ít nên khó đáp ứng được các hoạt động ở tầm khu vực và thế giới nếu không có giải pháp liên minh kết hợp để cùng “chiến đầu”. Hơn vậy, năng lực cạnh tranh của chúng ta xét cả cấp độ doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân hiện còn thấp. Đây là thách thức lớn mà các doanh nghiệp gặp phải. Ngoài ra, sự khác biệt tương đối lớn giữa kinh doanh trong nước và quốc tế đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược thích nghi hoá cao để làm quen với môi trường kinh doanh mới (khả năng ngoại ngữ, kiến thức luật, tập quán tiêu dùng, văn hoá kinh doanh…) Chính vì vậy, hội nhập sẽ tạo ra sức ép lớn với DNVN, trong việc đổi mới nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nếu các DNVN không dám nhập cuộc, không tận dụng được thời cơ thì thách thức sẽ lớn hơn, khả năng tụt hậu xa hơn. Bởi khi hội nhập ta buộc phải rỡ bỏ các loại hàng rào bảo hộ đang sử dụng nên sản xuất kinh doanh trong nước sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với các đối thủ “mang chuông đi đánh xứ người”. Lúc đó, chỉ doanh nghiệp có khả năng thực sự mạnh mới tồn tại, phát triển. Số còn lại sẽ bị thôn tính hoặc phải chia sẻ quyền lợi, thị phần. Để quá trình thực hiện hội nhập thu được kết quả tốt, Chính phủ đã rất quyết tâm trong việc dìu dắt các doanh nghiệp có khả năng dưới nhiều hình thức : Vốn vay, thông tị…Chính sách ưu đãi. Song song với hoạt động của Chính phủ các doanh nghiệp cũng đang nỗ lực tự thân vận động để tìm giải pháp tối ưu cho mình trước khi thời hạn hội nhập đến. Do đó, khả năng thành công của các DNVN theo nhiều chuyên gia đánh giá là khả quan. Bởi chúng ta có những hạn chế thật nhưng thế mạnh, lợi thế cạnh tranh của ta cũng không ít. Vấn đề ở chỗ vận dụng xử lý nó như thế nào ? Phần 3 Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. I. Giải pháp ở tầm vĩ mô 1. Các cấp quản lý phải thực sự đổi mới tư duy và thống nhất vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Chỉ khi ấy, cạnh tranh mới trở thành động lực cho phát triển kinh tế xã hội. Bởi không ít người vẫn cho rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì không thể tồn tại cạnh tranh, vì nó là biểu hiện của chủ nghĩa tư bản. Đó là một các nghĩ sai lầm sẽ thủ tiêu động lực của sự phát triển. Một nền kinh tế phát triển với các chủ thể “khoẻ mạnh” -các doanh nghiệp không gì hay hơn là khuyến khích họ cạnh tranh lành mạnh với nhau để từng bước cùng phát triển đồng thời chống lại những độc quyền bất hợp pháp (thậm chí cả độc quyền Nhà nước thái quá). Chúng ta không chỉ đổi mới tư duy và thừa nhận cạnh tranh mà phải khuyến khích tạo dựng cho nó một cơ sở pháp lý vững chắc để điều chính hoạt động cạnh tranh của các chủ thể tham gia. Bởi luật hoà cạnh tranh sẽ đưa nó vào đời sống kinh tế nhanh hơn và hiệu quả hơn. Không những thế luật đó còn phải phù hợp với các luật lệ cạnh tranh quốc tế để các doanh nghiệp trong nước từng bước làm quen chuẩn bị tốt hơn cho hội nhập kinh tế ngày một tới gần. Thực tế cho thấy, thể chế nào doanh nghiệp ấy. Một thể chế kinh tế phù hợp với lòng dân, thực trạng đất nước và quy luật phát triển của thời đại sẽ có tác dụng thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển của đất nước, thúc đẩy sự hình thành một hệ thống doanh nghiệp lành mạnh, có khả năng cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý ổn định, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Mọi hoạt động đều xuất phát theo luật, ngoài ra không còn ràng buộc gì khác nhanh chóng xây dựng bộ máy làm luật chuyên nghiệp để nâng cao tính khả thi sát thực tránh sự chung chung rất khó phân định trong cạnh tranh. Như vậy mới tránh khỏi nạn giấy tờ, cơ chế xin cho hoành hành, tạo điều kiện cho cạnh tranh phát triển giữa các doanh nghiệp một cách lành mạnh. 2. Xây dựng và hoàn thiện môi trường kinh doanh bình đẳng : Hệ thống pháp luật của ta cần phải được tiếp tục hoàn thiện. Trong các luật, pháp lệnh và nghị định vẫn còn nhiều điều chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ. Nên các chính sách chưa ổn định gây tâm lý sao động cho chủ đầu tư. Do thực tế Việt Nam thừa nhận kinh tế nhiều thành phần nên rất cần thiết sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp thành phần kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam. Nó phải phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế với khu vực và thế giới không thể coi thành phần doanh nghiệp Nhà nước là đứa con cưng mãi được. Đã tới lúc phải có một luật điều chỉnh tất cả các loại hình doanh nghiệp hiện có. Trước mắt, cần phải khuyến khích bằng chính sách, để cạnh tranh được phát triển độc quyền bị đẩy lùi, cho phép các doanh nghiệp tự do lựa chọn lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong danh mục cho phéo nhằm tạo cơ hội tiếp cận, khẳng định vị trí bình đẳng cho mọi doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Cạnh tranh tự do theo khuôn khổ pháp luật đồng thời phù hợp với luật pháp thông lệ quốc tế là điêù đáng làm. Mặt khác, nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính để khuyến khích đầu tư kinh doanh lành mạnh, giảm chi phí thời gian cơ hội cho các doanh nghiệp. 3. Chính phủ cần có những giải pháp tốt để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triênr hoàn thiện đồng bộ các thị trường : Hàng hoá, dịch vụ, vốn, lao động, công nghệ…Tạo điều kiện luân chuyển năng động các nguồn lực cho sự phát triển doanh nghiệp. Phát triển hoàn thiện môi trường này như việc đảm bảo môi trường sống tốt cho bất cứ sinh vật nào (nước, đất, không khí và thức ăn…). Chỉ có phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ thì các DNTM mới có cơ hội để tiến lên mà năng lượng cần thiết, không thể thiếu cho nó là vốn, lao động và công nghệ. Đó vừa là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp theo hướng nâng cao sức cạnh tranh và hiệu qủa hoạt động vừa là yêu cầu của chính quá trình hội nhập kinh tế. Bất kỳ sự chậm trễ nào đều phải trả giá. Cải cách hành chính cũng là giải pháp quan trọng để cải thiện môi trường kinh doanh cho các nhà đầu tư tập trung công sức, trí tuệ vào giải quyết các vấn đề kinh doanh thay vì phải đối phó thủ tục hành chính. 4. Đồng thời thực hiện những giải pháp cần thiết hỗ trợ phát triển các lĩnh vực có lợi thế tương đối, có sức cạnh tranh trong nền kinh tế thông qua những hỗ trợ về tài chính, phương pháp bảo hộ sản xuất kinh doanh trong nước trước sự xâm lẫn thái quá của hàng hoá nhập khẩu. Sự hỗ trợ đó cuối cùng phải nhằm việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung, chứ không phải để duy trì một cơ chế kinh tế hiệu quả có sẵn. Vì vậy, phải thể chế hoá cho sự phát triển thị trường vốn trong nền kinh tế đặc biệt là thị trường giao dịch chứng khoán. Rồi chính sách thuế cần cải tiến theo hướng ổn định công bằng. Từ khía cạnh pháp luật cũng như khía cạnh chính sách kinh tế, cải cách hệ thống thuế là hết sức cần thiết và bắt buộc khi tham gia hội nhập. Cải cách chính sách thuế phải gắn kết chặt chẽ chính sách phát triển các ngành kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và tăng sức cạnh tranh và độ an toàn khi hội nhập. Cải cách hệ thống thuế phải tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện vấn đề cắt giảm dần hàng rào thuế quan theo lộ trình đã định. Cạnh đó Nhà nước cần thay đổi cách “bảo hộ” cho các doanh nghiệp theo hướng Nhà nước sẽ là người đứng ra tìm đối tác kinh doanh cho các doanh nghiệp bằng cách mở rộng hợp tác quốc tế, tìm kiếm và ký kết các hiệp định Thương mại song phương và đa phương. 5.Đào tạo, nâng cao lực lượng làm kinh tế, kinh doanh trong cơ chế mới: Kinh doanh Thương mại là một nghề gắn liền với nó là những con người danh nhân, giám đốc được luật pháp thừa nhận và bảo vệ như bao nghề khác. Cùng với việc tạo ra cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong tuyển dụng cần phải bồi dưỡng, đào tạo để hình thành đội ngũ danh nhân thực thụ ngày càng lớn mạnh. Lực lượng đó sẽ giúp sức đắc lực cho quá trình quản lý phát triển kinh tế doanh nghiệp cũng như quốc gia, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường chỉ khi đào tạo tốt và quyền lợi gắn liền với trách nhiệm của họ. Thực tế lao động ở nước ta nhiều song phần lớn là lao động phổ thông kỹ năng thấp. Trước yêu cầu phát triển cần phải đào tạo được đội ngũ lao động tận tâm, nhiệt tình, chất lượng cao, giỏi ngoại ngữ và kỹ thuật đàm phán, am hiểu pháp luật, thông lệ quốc tế và quốc gia…Đây chính là một trong những nhân tố tiên quyết nên khả năng cạnh tranh dài hạn của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế sau này.Công việc này đòi hỏi đầu tư lớn nên Nhà nước phải là chủ đầu từ tiên phong trong đầu tư xây dựng. 6. Ngoài ra, lĩnh vực quan trọng không thể thiếu để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNTM là đẩy mạnh thiết lập xây dựng hoàn thiện hệ thống hạ tầng đồng bộ trong hoạt động kinh doanh Thương mại. Trong đó có hai hệ thống cơ bản là giao thông và thông tin liên lạc. Bởi ngày nay, cạnh tranh giữa các quốc gia không phải là ưu thế về ý thức hệ mà về thị trường và các nguồn lực khan hiếm. Những cái đó chỉ có được nhanh nhất, chính xác qua hệ thống tin hiện đại. Hiện tại thì hạ tầng thông tin của ta tương đối hoàn thiện nhưng vấn đề ở chỗ sử dụng, khai thác. Trên phạm vi quốc gia và quốc tế thì việc tìm kiếm thông tin, cơ hội doanh nghiệp phải dựa nhiều vào các tổ chức hữu quan và các hiệp hội có thế lực. Do vậy sự trợ giúp của chính phủ trong đầu tư, tìm kiếm cơ hội cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Trong thời gian tới sẽ cần sự giúp đỡ nhiều hơn từ phía Bộ Thương mại, phòng công nghiệp và Thương mại Việt Nam…để thực hiện cạnh tranh có hiệu quả và hội nhập thành công. II. Giải pháp cho tầm vi mô 1. Tận dụng triệt để lợi thế cạnh tranh sẵn có và từng bước học hỏi kinh nghiệm. Tạm coi lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và DNTM Việt Nam nói riêng là nhân công rẻ, quy mô sản xuất kinh doanh linh hoạt dễ thích ứng. Do vậy việc theo sau, rượt đuổi cũng có những lợi thế nhất định trước các đối thủ. Nhưng nếu tự mãn thái quá vào độ linh hoạt thì các doanh nghiệp cũng rất dễ thay đổi và làm mất đi tính truyền thống của doanh nghiệp. Và học hỏi sẽ là nhiệm vụ cả đời với mọi người, nó càng cần thiết hơn với các Giám đốc, chủ doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp, điều rất cần của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự kiên trì học hỏi sẽ mang lại kết quả cao hơn trong việc xử lý và cập nhật thông tin liên quan đến việc ra quyết định trước đối thủ sau này. Tận dụng nguồn lực sẵn có thể hiện qua việc sắp xếp nhân sư dũng vị trí, tạo ra ekíp làm việc hiệu quả cao nhất. Hay việc sử dụng đồng vốn trong tay hiệu quả. Tuy rằng vốn ít nhưng các doanh nghiệp phải làm thế nào để tăng vòng quay của vốn thì lợi nhuận sẽ không nhỏ “Mèo bé bắt chuột bé” là cách tiến hành kinh doanh hiệu quả lâu dần tích tiểu thành đại sẽ giúp doanh nghiệp thay đổi về chất, trở nên lớn mạnh. 2. Chủ động đầu tư kinh phí cùng Nhà nước đào tạo nhân lực và đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh. Muốn làm được mọi việc thì vấn đề trước tiên phải giải quyết là tư duy. Tư duy có đi trước một bước thực tế mới được vạch ra. Do vậy đào tạo nhân lực sẽ phục vụ lợi ích trực tiếp của doanh nghiệp nên trách nhiệm cũng thuộc về doanh nghiệp. Tư duy đi trước là tiền đề quan trọng cho việc hoạch định các vấn đề trong tương lại về đường hướng phát triển của sản phẩm cũng như công nghệ lao động của doanh nghiệp. Nó sẽ giải quyết vấn đề còn hạn chế của 4 nhóm nhân tố đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại : sản phẩm, lao động, vốn và công nghệ. Bởi các vấn đề này thuộc những yếu tố khách quan (ngoài doanh nghiệp) : Như cầu, thị trường, thị hiếu và thuộc về tương lai nên rất cần đến khoa học dự báo của con người. Chất lượng dự báo sẽ liên quan trực tiếp đến kết quả tương lai. Bởi vậy đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp vừa là mang tính cần thiết hiện tại vừa thể hiện sự chuẩn bị chu đáo cho tương lai doanh nghiệp. 3. Các doanh nghiệp nên có kế hoạch liên kết trong kinh doanh để đấu lại những đối thủ nước ngoài trên thị trường nội địa, làm cơ sở để phát triển ra thị trường ngoài quốc gia. Theo đó các doanh nghiệp liên minh vừa phải chung sống hoà bình vừa phải cạnh tranh để phát triển (dựa vào nhau). Các thành viên sẽ tự biết khai thác lợi thế dị biệt của nhau để tạo sức mạnh tổng hợp trên thị trường đủ sức cạnh tranh đối thủ. Nếu như vậy các doanh nghiệp phải biết hy sinh đúng lúc những quyền lợi riêng để phục vụ lợi ích của liên minh điều này thật không dễ dàng nhưng vẫn phải thực hiện. Họ có thể tiến hành theo kiểu “chạy tiếp sức thay vì mạnh ai nấy chạy”. Qua đó mỗi người đều phải nỗ lực chạy nhanh hơn đồng đội (tinh thần cạnh tranh). Nhưng cũng sẵn sàng trao “gậy” cho đồng đội khi cần thiết (tinh thần hợp tác). Làm được điều đó các doanh nghiệp sẽ tận dụng được hai ưu thế của cạnh tranh và hợp tác. Cạnh tranh để có được sản phẩm tốt nhất, giá cả hạ nhất, hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp cùng phát triển. 4. Điều đặc biệt đáng chú ý là các doanh nghiệp của ra chưa biết sử dụng hiệu quả phối thức Mar - mix trong kinh doanh và các doanh nghiệp trên thế giới coi nó là “4 nốt nhạc kỳ diệu” của doanh nghiệp. Trong khi các Công ty nước ngoài sử dụng rất thành thạo phối thức này thì các doanh nghiệp Việt Nam mới ở mức làm quen một cách hình thức. Đây chính là ngọn nguồn của việc kém linh hoạt trong thị trường do không thu nhập phân tích đúng đủ các luồng thông tin nhất và tin phản hồi. Tiến tới để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp phải có chiến lược cho hoạt động Marketing hiệu quả xứng với tầm vóc của nó. Đó cũnglà yêu cầu khách quan với kinh doanh Thương mại khi mà tình thế thị trường cung lớn hơn nhiều so vơí cầu và cầu thì không ngừng nâng cao về mặt chất. Nếu thiếu hoạt động Marketing thì Công ty kinh doanh đã dần xa vời với nhu cầu, thị trường thực tế, thật khác nào tách ra đi tìm cái chết riêng. Và rất nhiều nhà nghiên cứu Marketing đã từng ví von rằng : “kinh doanh mà không biết làm Marketing khác khi nháy mắt với người yêu trong bóng tối”. Vậy đó hoạt động Marketing được đánh giá rất cao. Tóm lại, giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Thương mại Việt Nam không chờ đợi ai khác mà các doanh nghiệp phải thực sự nỗ lực trước khi có sự giúp đỡ từ phía chính phủ và và cơ quan chức năng khác. Bởi chính phủ dù muốn nhưng thực lực cũng hạn chế. Hơn thế, không ai cứu mình tốt bằng tự cứu lấy bản thân trước khi có sự giúp đỡ của người khac . III. Một số kiến nghị Trên đây những giải pháp đề ra cũng đã nhiều và đều là cơ bản và cần thực hiện cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Những vấn đề thuộc về môi trường chính sách, việc trợ giúp này khác với chính phủ và các cơ quan chức năng cũng như vấn đề đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh, cải tiến quản lý, mẫu mã xác lập nhãn hiệu của doanh nghiệp… là vấn đề muôn thủa, lâu dài và đã được bàn bạc nhiều. Vậy nên, trong bài viết này em nêu kiến nghị nhỏ sau nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và DNTM Việt Nam nói riêng. 1. Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ). Do bản chất các doanh nghiệp thương mại là kinh doanh dịch vụ khách hàng lĩnh vực hoạt động của nó trong lưu thông hàng hoá, dịch vụ. Vậy nên doanh nghiệp thương mại chỉ phát triển khi cơ cấu về dịch vụ trong nền kinh tế thực sự mở rộng (bao gồm cả dịch vụ sản phẩm hữu hình và vô hình). Nhưng nền tảng cho sự phát triển dịch vụ vẫn phải dựa trên sự phát triển của sản phẩm công, nông nghiệp trong nền kinh tế đặc biệt là sự phát triển về chất. Nhà nước cần xây dựng chiến lược cạnh tranh tích cực bằng cách tổ chức lại cơ cấu ngành kinh tế, thực hiện bảo hộ tạm thời và có chọn lọc những ngành đang hoặc sẽ có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Phát triển vùng nông nghiệp chuyên canh song song với công nghiệp chế biến đẩy mạnh và tăng cường công nghệ sau thu hoạch…làm hậu thuẫn cho các doanh nghiệp thương mại. Cần khẳng định rằng các đặc khu kinh tế và các Tổng Công ty sẽ là cứu cánh cho chiến lược đuổi vượt của kinh tế Việt Nam. Chỉ với các Công ty có sức cạnh tranh thực sự mạnh nước ta mới đủ sức chủ động hội nhập quốc tế. 2. Xây dựng truyền thống văn hoá doanh nghiệp : Không ít người tự cho rằng doanh nghiệp có tiềm lực tài chính không lớn thì nói đến văn hoá chỉ là phù phiếm cùng tốn kém. Sự thật xây dựng truyền thống văn hoá doanh nghiệp là hoạt động đầu tư lâu dài và tốn kém, lợi ích của nó không thể có ngay trong một sớm một chiều mà phải tính bằng cả năm trời hay thập kỷ, thậm chí cả thế kỷ. Nhưng khi đã thành công thì lợi ích nó mang lại cho doanh nghiệp không gì đo lường được. Kết quả này đã được nhiều công ty thành danh thế giới chứng minh : National, Cocacola…Họ là những Công ty mẫu mực trong việc xây dựng thương hiệu bảo vệ uy tín trước khách hàng và đối thủ cạnh tranh cũng như đội ngũ lao động của hãng. Truyền thống văn hoá đó là tổng hợp những giá trị vật chất tinh thần cao quý được kết tục trong qúa trình phát triển doanh nghiệp, được mọi thành viên tôn trọng và kế thừa. Với các doanh nghiệp có lịch sử cả hàm năm phát triển xưng hùng thì sức mạnh văn hoá của nó vô cùng lớn và có khả năng cạnh tranh sinh lời đáng kể. ở Việt Nam thì doanh nghiệp có nhiều tồn tại cũng lâu song giá trị văn hoá cốt lõi theo đúng nghĩa thì lại không. Bởi vậy hoạt động kinh doanh Thương mại gặp nhiều khó khăn, nhất là các DNTM - làm dâu trăm họ nên vui lòng khách mới đến vừa lòng khách sẽ đi lại lâu dài. Vậy nên các DNTM cần bắt tay ngay vào việc xây dựng cho mình một mô hình văn hoá đặc trưng, một triết lý kinh doanh hiện đại có sức thuyết phục và thiết thực. Sau đó từng bước giá trị hoá nó lên tầm cao. Khởi đầu có thể xây dựng môi trường văn hoá bên trong qua chế độ lương bổng, đãi ngộ tuyển dụng nhân sự, xây dựng mối quan hệ thành viên gắn bó hướng tới tinh thần đồng đội cao…Có thưởng phạt phân minh để tạo điều kiện cạnh tranh là động lực phát triển doanh nghiệp. Trên cơ sở đó nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, dịch vụ nhưng phải gắn liền với mục tiêu giảm giá cá. Từ nội lực văn hoá doanh nghiệp đi đến xây dựng hình ảnh uy tín doanh nghiệp trong khách hàng bằng chính sản phẩm, dịch vụ tối ưu đó. Đồng thời nhờ văn hoá truyền thống để khẳng định vị thế doanh nghiệp trước đối thủ. Đây mới là cách xây dựng doanh nghiệp bền vững nhưng cũng rất khó khăn. Bởi lẽ nó khó xây nên cũng không dễ để bắt trước dù rất muốn. Nhưng khi có được rồi sẽ là tín vận hiệu quả nhất trên thị trường, khả năng sinh lời là rất cao (siêu lợi nhuận). Nó khó xây nhưng mất đi cũng chẳng mấy khó khăn nên việc bảo vệ và phát triển văn hoá truyền thống đem lại càng khó hơn. Dù khó đến mấy các doanh nghiệp vẫn phải làm để nâng cao khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của thưởng hiệu nhằm mục đích cuối cùng là lợi nhuận. 3. Lập ra hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng : Đây thuộc tổ chức phi chính phủ nhưng nó lại có vai trò tương đối lớn trong việc khuyến khích cạnh tranh lành mạnh chống lại độc quyền. Cũng như phiên tào cần có thẩm phán xét xử và các bên cáo, bên nguyên cùng luật sư của họ mới đảm bảo công bằng. Trên thị trường cũng vậy luật đã có nhưng để thực thi hiệu quả phải có thế lực thi hành. Thế lực mạnh hơn ai hết đối với các doanh nghiệp chính là khách hàng của nó. Họ sẽ sắm khá nhiều vai cùng lúc là khách hàng (bên cáo), là luật sư, thẩm phán . Quyền nhiều vậy song họ không lộng hành mà rất công bằng. Do họ là người đánh giá, tiêu dùng và thẩm định chất lượng cuối cùng của sản phẩm nên họ sẽ “tố cáo” và “định án” chính xác cho sản phẩm, doanh nghiệp liên quan bằng việc chấp nhận hay không chấp nhận tiêu dùng sản phẩm đó. Cũng do khách hàng là “Thượng đế, ân nhân” của doanh nghiệp nên doanh nghiệp phải tôn trọng phán quyết của thế lực này. Càng không thể phản đối khi phán quyết đó rất công bằng. Nếu doanh nghiệp bị khách hàng từ chối coi như mất “đất làm ăn” trên thị trường. Do đó, doanh nghiệp phải tự chăm sóc cho mình và cạnh tranh lành mạnh để tránh bị “tẩy chay” sẽ làm cho hoạt động cạnh tranh tốt đẹp hơn. Như vậy lập ra hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một hoạt động rất có ý nghĩa không chỉ với riêng người tiêu dùng mà với cả doanh nghiệp lẫn nền kinh tế. Một việc làm nhất cử lưỡng tiện như thế không có lý do gì để phản bác nhưng đến nay người tiêu dùng Việt Nam vẫn không có được một tổ chức đủ mạnh để thực hiện trọng trách đó. Nên chăng vấn đề này cần có cơ quan Chính phủ đứng ra đỡ đầu để nó ra đời và vận hành hiệu quả. Kết luận Tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đang vào giai đoạn gấp rút. Các doanh nghiệp cũng đang chuẩn bị toàn bộ nguồn lực cần thiết để chạy đua với thời gian, nhằm tìm ra giải pháp tối ưu và một vị trí an toàn khi hội nhập diễn ra. Suy cho cùng những giải pháp tối ưu đó là để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Dù là DNTM hay doanh nghiệp sản xuất thì mục tiêu cuối cùng cũng là sống còn của doanh nghiệp phải tiêu thụ được hàng hoá dịch vụ. Nó thực sự quan trọng với mọi doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và các Mac đã từng nói “tiêu thụ là bước nhảy nguy hiểm của hàng hoá, nếu bước nhảy đó không thành công thì kẻ bị té mang thương tích không phải là hàng hoá mà chính là người kinh doanh hàng hoá đó - doanh nghiệp”. Để tránh cho mình không bị thương tích trong bước nhảy nguy hiểm đó mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải biết nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình trước khi quá muộn. Đứng trước những vấn đề lớn mà quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp Việt Nam cần được tháo gỡ đã không ít công trình nghiên cứu công phu của rất nhiều chuyên gia có kinh nghiệ. Họ đã đưa ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp nói chung trên thị trường nội địa cũng như Quốc tế, nhưng vấn đề vẫn không ngừng phát sinh. Với những kết luận và kiến nghị trong đề tài này là kết quả của quá trình tìm hiểu, nghiên cứu có sự hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên. Nó có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tháo gỡ những khó khăn, hay gợi mở ra những vấn đề mới cần được quan tâm trong quá trình nâng cao và duy trì năng lực cạnh tranh của hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam nhằm bắt kịp xu thế hội nhập hoá khu vực cũng như trên thế giới. Tài liệu tham khảo 1.Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng luật cạnh tranh ở VN. KS. Lê Viết Thái - NXB Lao động 2. Cạnh tranh cho tương lai : Thái Quang Sa Trung tâm thông tin KHKT Hoá chất. 3. Cạnh tranh bằng giảm tôi đa chi phí - Phương Hà (dịch) NXB Thành phố Hồ Chí Minh 4. Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước PTS. Nguyễn Đặng Doanh, PTS Trần Hữu Hân - NXB Lao động 5. Thị trường và kinh doanh thương mại theo cơ chế thị trường PTS. Nguyễn Duy Bột - NXb Thống kê 6. Dự án VIE /94/003 7. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở nước ta hiện nay. Phan Đào Nguyên - NXB Lao động 8. Lý thuyết về lợi thế so sánh : Trần Quang Minh - NXB Khoa học xã hội 9. Toàn cầu hoá và khu vực hoá cơ hội và thách thức với các nước đang phát triển Đinh Thị Thơm - NXB TTKHXH. 10. Quản trị doanh nghiệp Thương mại PTS Phạm Vũ Luận 11. Quản trị doanh nghiệp - Nguyễn Hải Sản NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 12. Chìa khoá nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp thị của doanh nghiệp. 13. Quy luật của thời kỳ quá độ từ CNTB - CNXH Ro - LanHau - Cơ. NXB sách giáo khoa Mác - Lê nin 14. Xu hướng biến động nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam PGS. PTS Nguyễn Tĩnh Gia - NXB chính trị Quốc Gia 15. Các báo : Thương mại, diễn đàn doanh nghiệp, đầu tư… Tạp chí : Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, kinh tế dự báo kinh tế và phát triển. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34195.doc
Tài liệu liên quan